Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hệ thống lại những diễn biến chính khủng hoảng tài chính Thế giới 2008, phân tích nguyên nhân và đánh giá tác động tới TTCK Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.93 KB, 21 trang )

Đề tài 1: Hệ thống lại những diễn biến chính khủng hoảng tài
chính Thế giới 2008, phân tích nguyên nhân và đánh giá tác động tới
TTCK Việt Nam.
Sau cuộc đại khủng hoảng 1929-1933,gần 80 năm sau,tháng9-2008
thị trường tài chính thế giới một lần nữa lại chao dảo,là bắt nguồn từ MỸ và
dần lan rộng ra trên toàn thế giới.Đã hơn 2 năm từ khi cuộc khủng
hoảng2008 xảy ra,nền kinh tế của các quốc gia đã dần hồi phục,trong đó có
Việt Nam.Tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều ý kiến bình luận về nguyên nhân
cũng như tác động của khủng hoảng.Ta sẽ lần lượt tìm hiểu diễn biến, phân
tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 để thấy
rõ hơn tác động của nó tới thị trường chứng khoán Việt Nam trong những
năm qua.
1
I/DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ
GIỚI NĂM 2008
Khi xuất hiện bong bóng nhà đất tại Mỹ ,giới phân tích tài chính
đã rất quan ngại về tính chất nghiêm trọng của nó.Và đúng như dự đoán, từ
Mỹ cuộc khủng hoảng đã bùng phát thành khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trước hết, chúng ta điểm lại diễn biến xảy ra ở Mỹ-xuất phát
điểm của khủng hoảng
Năm 2008 là năm đánh dấu sự đi xuống thảm hại của các nền kinh
tế.Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với trên 1 triệu chủ nhà đất đối mặt
với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng phải các khoản
2
nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những khoản thua lỗ

Biểu đồ trên chỉ rõ sự đi xuống liên tiếp của thị trường nhà đất với
mức sụt giảm kỉ lục ở cuối năm 2008.
-Trong tháng Ba, nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế là ngân
hàng Bear Stearns. Thua lỗ, ngân hàng 85 tuổi này buộc phải bán mình cho
JP Morgan với giá 10 USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần mức giá niêm yết cách


đó 10 năm.
-Ngay sau đó, cơn bão tài chính gần như đã cuốn phăng hai đại gia
cho vay lớn nhất Mỹ Fannie Mae và Freddie Mac. Kế đó, họ gánh vác 5
nghìn tỷ USD, chiếm gần nửa trong tổng số các khoản thế chấp tại Mỹ. Đến
3
tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đã chi 200 tỷ USD làm phao cứu sinh
cho hai đơn vị này.
-Tuy nhiên, tin xấu không chỉ dừng lại ở đó. Ngày 15/9, công ty tài
chính khổng lồ Lehman Brothers gục ngã. Trước khi sụp đổ, tiền nợ ngân
hàng và tỷ lệ vốn cổ phần là 30-1, cao gần gấp ba lần quy định luật pháp cho
phép.
- Một số ngân hàng đầu tư khác cũng đội nón ra đi, như Merrill
Lynch, đơn vị sau đó được Bank of America mua lại. Tiếp đó, nhiều ngân
hàng lớn ở châu Âu như UBS và Ngân hàng Hoàng gia Scotland cũng lâm
vào tình cảnh nguy ngập.Ngày 17/9 Lloyds mua lại HBOS với giá 12,2 tỷ.
-Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ.
Khi Iceland lâm vào phá sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng tới tấp
thông báo kế hoạch cứu nguy nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng từ Mỹ đã nhanh chóng ảnh hưởng ra toàn cầu
Nó lan rộng sang các lĩnh vực khác và tác động với cường độ rất
mạnh đến các nước.Vào cuối năm 2008, thế giới cảm thấy ớn lạnh trước
khủng hoảng.
- Thị trường chứng khoán toàn cầu mất gần một nửa giá trị so với
năm liền trước với quy mô thiệt hại 28,7 nghìn tỷ USD.
Toàn cảnh chứng khoán thế giới 2008
Thị
trường
Chỉ số Giá trị
đóng cửa ngày
30/12

Tăng /
giảm so với
năm 2007(điểm)
Tăng /
giảm so với năm
2007(%)
Mỹ
Dow Jones 8.668,39 4.375,5
7
34,6
Nasdaq 1.550,70 1.058,9
3
41,5
4
S&P 500 890,64
556,52
39,3
Anh FTSE 100 4.392,68 2.024,0
2
31,5
Đức DAX
4.810,20
3.138,9
1
39,5
Pháp CAC 40 3.217,13 2.333,2
3
42,0
Đài
Loan

Taiwan
Weighted
4.589,04 3.734,0
1
44,8
Nhật Nikkei 225 8.859,56 5.831,8
5
42,1
Hồn
g Kông
Hang Seng 14.235,5
0
13.325,
02
48,8
Hàn
Quốc
KOSPI
Composite
1.124,47
728,98
40,7
Sing
apore
Straits Times 1.770,65 1.690,5
7
49,0
Trun
g Quốc
Shanghai

Composite
1.832,91 3.428,6
5
65,2
Ấn
Độ
BSE 30 9.716,16 10.749,
14
52,2
Aust
ralia
ASX 3.591,40 2.842,7
0
44,1
Việt
Nam
VN-Index 316,32
604,75
65,9
Nguồn: CNBC, Thomson Reuters, Bloomberg
5
- Thất nghiệp đua nhau lập những kỷ lục mới. Nhu cầu co lại buộc
các doanh nghiệp phải đóng cửa làm ăn.
- Từ đầu năm đến hết tháng 5, khắp thế giới dường như chỉ tồn tại
hai từ “lạm phát”. Lạm phát tại những quốc gia thuộc khu vực sử dụng đồng
Euro đạt mức cao kỷ lục trong lịch sử. Tại châu Á, lạm phát đã lên tới 7,5%
- gần bằng mức cao nhất trong 9 năm qua và cao gấp hơn 2 lần so với mức
3,6% của một năm trước, mà nguyên nhân chính là giá năng lượng và giá
lương thực tăng cao.


Khủng hoảng tài chính khiến đồng USD ngày càng mất giá

Càng về cuối năm, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bắt nguồn từ việc
“vỡ nợ” tín dụng bất động sản càng chứng tỏ sức tàn phá ghê gớm của với
hệ thống tài chính thế giới. Nước Mỹ chiếm tới 25% GDP của toàn cầu và
một tỷ lệ lớn hơn trong các giao dịch tài chính quốc tế, nên tác động của
6
cuộc khủng hoảng ở Mỹ không chỉ ở trong nước Mỹ mà còn vượt cả ra
ngoài biên giới Mỹ, tác động tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới. Chính
Mỹ rồi lần luợt đến Singapore, Nhật Bản, rồi đến các nước dùng đồng euro
cùng tuyên bố suy thoái. Một loạt các nước phải tung ra những gói hỗ trợ
kinh tế nhiều tỷ USD mà đỉnh điểm là hồi tháng 10, Cục dự trữ Liên bang
Mỹ, Ngân hàng Trung ương Châu Âu và 4 ngân hàng trung ương các nước
khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất, nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của
cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ cuộc Đại suy thoái năm 1929-
1933.
Các sự kiện nổi bật
Những vụ phá sản, sáp nhập hay quyết định đối phó của chính phủ
các nước trở thành cột mốc đáng nhớ trên hành trình "xuống đáy" của cuộc
khủng hoảng kinh tế làm rung chuyển cả thế giới suốt thời gian qua.
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ
về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại
Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông
báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự
phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do
những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách
các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài

sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP
Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một
khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD
7
cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế
thấp bất động sản.
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân
hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn
nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD
trong vòng 11 ngày.
* 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là
3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche
Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín
dụng toàn cầu.
* 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền
kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac
nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác
để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
IV. So sánh cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 với cuộc khủng hoảng
kinh tế năm 29-33
- Cuộc khủng hoảng phản ánh sự bất lực của các thể chế kinh tế tân tự
do, sự bất cập của mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường, nhưng quy mô
và tính chất của nó có nhiều điểm khác hẳn so với các cuộc khủng hoảng
trước đó.
*)Thứ nhất, cùng với tiến trình gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế và theo đó, là sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc giữa
8

các nền kinh tế, tác động của cuộc khủng hoảng đã mang đặc tính phổ biến,
lây lan rộng khắp và không loại trừ bất kỳ quốc gia nào.
*)Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của các quốc gia trung tâm âm và thấp
kéo dài, trong khi các quốc gia ngoại vi, nhất là ở các nền kinh tế đang phát
triển - nơi có độ mở thị trường cao, lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu và FDI, đã
trở thành những nước bị tác động nặng nề và sâu sắc hơn.
*)Thứ ba, ở cuộc khủng hoảng lần này, bên cạnh sự diễn ra đồng thời
của khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng thể chế, còn
là sự bùng nổ đồng thời và nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng về năng
lượng, nguyên liệu, lương thực và môi trường. Nói cách khác, cuộc khủng
hoảng đã không dừng lại ở các khía cạnh kinh tế mà đã và đang lan rộng ra
ở các khía cạnh về xã hội và môi trường - 3 trụ cột của mục tiêu phát triển
bền vững mà cả thế giới sẽ phải đối mặt trong những năm đầu của thế kỷ
XXI.
*)Thứ tư, về mặt lý thuyết, trong và sau cuộc khủng hoảng lần này,
người ta bắt đầu bàn nhiều đến sự trở lại của Keynes, vì sự bất lực của chủ
nghĩa tân tự do, mà về thực chất, là đi tìm cơ sở lý luận cho việc giải quyết
mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong bối cảnh mới. Nói cách khác,
cuộc khủng hoảng này là dấu mốc của cuộc khủng hoảng về lý thuyết điều
tiết kinh tế.
Như vậy, rõ ràng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này
có nhiều đặc trưng mới, khác với tất cả các cuộc khủng hoảng trước đó,
kể cả cuộc đại khủng hoảng 1929-1933.
II/NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIÓI 2008
9
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008, là một bức tranh màu
xám với điểm khởi đầu là khủng hoảng tài chính Mỹ.
Nguyên nhân bản chất của khủng hoảng 2008 là sự phát triển quá
nóng của thị trường mà xuất phát điểm là thị trường bất động sản dựa trên
nhu cầu ảo được quyết định bởi các nhà đầu cơ.

Năm 2001, chính phủ Mỹ thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng
và phá giá đồng nội tệ để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên thị trường sử dụng không hiệu quả nguồn vốn dẫn đến
thừa vốn. Đây chính là sự bất cân đối về cung cầu vốn trên thị trường . Các
ngân hàng Mỹ đã sử dụng số vốn này đánh cược vào thị trường cho vay dưới
chuẩn vốn tiềm ẩn rủi ro cao.Chính vì việc cho vay dưới chuẩn tràn lan đã
dẫn tới sự mất kiểm soát của ngân hàng. Những đối tượng vay dưới chuẩn
khi đó ở mỹ có một tỷ lệ không nhỏ là dân nhập cư,và những người đi vay
thường là để mua nhà.Khi đó thị trường địa ốc phát triển rất nhanh,giá cả
tăng lên nhanh chóng .Những nhà đầu cơ cả sành sỏi lẫn cừu non thi nhau
nhảy vào thị trường này và góp phần làm tăng độ nóng của nó.Năm 2005, tại
Mỹ, giá nhà đất đã tăng ở mức trung bình 12,5 %, tăng đến 20% tại một số
bang như California, Nevada, Hawaii, Maryland, Washington DC và tăng ở
mức độ khủng khiếp tới 35% tại Palm Beach, Florida. Trong 5 năm qua từ
năm 2001 đến năm 2006,tại California, đã có 500 nghìn giấy phép kinh
doanh bất động sản được cấp.Bong bóng nhà đất được thổi phồng lên nhanh
chóng.Người dân có nhà để ở ,ngân hàng có khoản lợi nhuận kếch xù ,các
nhà đầu cơ kiếm lời cao, tất cả đều tốt đẹp.
Nhưng tất cả đều được dựa trên nhu cầu ảo của thị trường do đầu cơ.
Thực chất cuộc sống của những người đi mua nhà kiểu cầm cố tài sản này
không thực sự thuận lợi.Khi mà lãi suất vay nợ dưới chuẩn cao ,họ không có
khả năng trả nợ.Ngân hàng phải siết nợ và cuối cùng phải thu hồi để phát
10
mại. Công ty RealtyTrac, chuyên theo dõi về các vụ siết nợ của ngân hàng,
đã thống kê được 1,5 triệu căn nhà đã bị vào diện này trong năm 2007, gấp 2
lần so với năm 2006.
Những nhà đầu cơ sành sỏi ,khi nhận thấy những dấu hiệu đủ để
đổ vỡ của bong bóng đã vội thoát nhanh ra khỏi thị trường còn lại đám đông
những nhà đầu cơ cừu non say máu làm giàu vật lộn với cơn xoáy tụt giá của
thị trường. Giá nhà đất "rớt" khoảng 4,2% kể từ năm 2006 (từ 234.000 USD

xuống còn 211.000 USD) và tụt khoảng 5,7% kể từ tháng 8 . Tại một số
thành phố lớn, giá nhà cửa đều giảm ở mức khá cao từ 7 đến 11% như San
Diego (California), Washington DC, Detroit (Michigan), Seatle
(Washington), Dallas (Texas). Tại Maple Heights (bang Ohio), người ta
không thể đếm hết những tấm bảng hiệu "For sale" (nhà bán) treo trước cửa
các ngôi nhà trên phố.
Bên cạnh những nguyên nhân đã phân tích ở trên chúng ta còn
nhận thấy những mảng hạn chế trong cơ chế quản lý tài chính của chính phủ
Mỹ và các ngân hàng.Các giám đốc ngân hàng muốn đẩy lợi nhuận lên cao
11
nhằm hưởng 1 khoản thưởng kếch xù vào cuối năm nên đã dẫn tới tình trạng
cho vay tràn nan.
Bong bóng thị trường địa ốc Mỹ với sự trợ giúp bởi chính sách cho
vay dưới chuẩn “thông thoáng” của các ngân hàng và quan trọng nhất là
đóng góp không thể thiếu của các nhà đầu cơ ,tất cả trong sự kiểm soát lỏng
lẻo của nhà nước ,cuối cùng cũng đã nổ tung vào năm 2007 tạo nên một
cuộc khủng hoảng kinh tế khủng khiếp như chúng ta đã biết.
III) ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH 2008 TỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KGOÁN VIỆT NAM
Xét trên phương diện lý thuyết mà nói,ta có thể nhận định ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính Mỹ đối với thế giới là
rõ rệt nhưng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam là không nhiều.
Tại sao ta lại nhận định như thế? Thứ nhất,tính đến thời điểm
khủng hoảng xảy ra thì hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa hội
nhập chung với hệ thống tài chính toàn cầu, chúng ta chỉ mới mở cửa tài
khoản vốn vào mà hầu như chưa mở cửa dòng ra, do vậy lượng tiền Việt
Nam đầu tư ra bên ngoài dường như không đáng kể và dòng vốn gián tiếp đổ
vào Việt Nam cũng chưa nhiều nên hệ thống tài chính của Việt nam sẽ
không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng này so với các nước có mức
độ hội nhập tài chính sâu rộng.

Thứ hai,Việt Nam chưa có công ty nào niêm yết trên thị trường
chứng khoán Mỹ, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư Mỹ trong doanh nghiệp Việt
12
Nam cũng như dòng tiền nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhà đầu tư Mỹ,
đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam là không nhiều.Giá trị danh mục
đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào chứng khoán Việt Nam chỉ khoảng 7-
8 tỷ USD. Mối lo ngại khối này rút vốn khỏi Việt Nam cũng là thiếu cơ sở vì
nếu nhà đầu tư nước ngoài rút ra khỏi Việt Nam thì họ cũng chưa có sự lựa
chọn đầu tư nào khả thi hơn, trong khi ở Việt Nam tất cả các yếu tố kinh tế
vĩ mô đều đang có chiều hướng tốt so với các quốc gia khác đang phải chịu
ảnh hưởng khá lớn từ cuộc hủng hoảng.
Tuy nhiên,thực tế diễn ra có đúng như nhận định trên mặt lý
thuyết?Chúng ta hãy cùng điểm lại thực trạng thị trường chứng khoán
Việt Nam trong khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
1.Chỉ số trên thị trường chứng khoán
Vn-Index sụt giảm 70% giá trị, trong khi đó chỉ số Hastc-Index
xuống dưới 100 điểm
Các chỉ số: Nếu như hai năm 2006-2007, thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển bong bóng với tốc độ nhất nhì thế giới thì sang năm
2008 cũng đứng đầu về tốc độ suy giảm.
VN-Index mở đầu phiên giao dịch năm 2008 đạt 921,07 điểm, tính
đến ngày 29/12/2008, Vn-Index đang ở mức 308 điểm, bằng 1/3 so với đầu
năm. Các giả định được đưa ra VN-Index sẽ dao động quanh mức 450 điểm,
song hầu hết đều quá lạc quan, Vn-Index đã có lúc rơi xuống 286,85 điểm
vào ngày 10/12.
Trong khi đó, mức thấp nhất của Hastc-Index trong năm nay là 97,61
điểm vào ngày 27/11/2008. Trước đó, vào ngày 28/10, chỉ số này đã có lúc
xuống 98,87 điểm xong ngay lập tức các nhà đầu tư mua vào khiến chỉ số
này lại vượt qua vạch 100 điểm.
13

Thống kê giao dịch cho thấy sức cầu (mua) toàn thị trường 2 sàn
HOSE và HASTC trong giai đoạn 15/5 đến 15/6 chỉ đạt trung
bình
140 tỷ đồng/ngày, mức thấp nhất từ năm 2006 đến nay.
2. Hoạt động niêm yết
Một năm giảm giá mạnh đã “mài mòn” đáng kể giá của các cổ
phiếu. Cuối năm 2007, trên cả hai sàn vẫn có tới 60 cổ phiếu có thị giá trên
100.000 đồng, trong đó cao nhất là S99 (353.000 đồng), BMC (332.000
đồng)… Tuy nhiên, hiện tại, giá hầu hết các cổ phiếu nằm dưới mức 30.000
đồng, trong đó có tới 25% số cổ phiếu đang nằm dưới mệnh giá.
Đ
H HaS
14
ơn vị
oSE TC
Chỉ số
Đ
iểm
31
5,62
105,
12
Số doanh nghiệp
niêm yết
17
0 168
Số cổ phiếu niêm yết
T
ỷ cp
5,

74 2,17
Giá trị thị trường
T

đồng
17
0.300
55.0
00
Cùng với sự suy giảm của thị trường, hầu hết các cổ phiếu đều mất
giá đi từ 60%-80% giá trị so với một năm trước. Trong đó ba cổ phiếu giảm
mạnh nhất là TLT, VHG và DQC với mức giảm trên 90%. Cổ phiếu DQC
của CTCP Bóng đèn Điện Quang lên sàn ngày 21/2 với giá tham chiếu
290.000 đồng/cp nhưng kết thúc năm chỉ còn 15.600 đồng/cp.
Lượng cổ phiếu niêm yết tăng lên nhưng do thị giá của các cổ phiếu
giảm đáng kể nên đã làm cho giá trị vốn hóa của thị trường giảm mạnh.Tỉ lệ
vốn hoá: Cuối năm 2007, vốn hóa thị trường chiếm 40% GDP (30 tỷ USD).
Nhiều ý kiến lạc quan cho rằng, cuối năm 2008, vốn hóa thị trường sẽ đạt
khoảng 35 – 40 tỷ USD (60% GDP). Tuy nhiên thực tế cho thấy, hết năm
2008, giá trị vốn hóa thị trường hiện chỉ còn 13 tỷ USD, tương đương 17%
GDP.
Tính theo giá đóng cửa ngày 31/12/2008, giá trị thị trường của tất cả
các cổ phiếu đang niêm yết là hơn 225.300 tỷ đồng, trong khi đó, một năm
trước, con số này là 494.400 tỷ đồng (tương ứng giảm 54%).
3. Tình hình mua bán của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán
15
Trong 3 tháng, khối nhà đầu tư nước ngoài liên tục bán ròng cổ
phiếu và trái phiếu trên cả hai sàn Hà Nội và Tp.HCM. Nếu trước đây,
việc khối ngoại luôn đi ngược thị trường (mua vào khi thị trường giảm và

bán ra khi thị trường tăng) sẽ góp phần cân bằng lại thị trường thì nay, khối
ngoại liên tục bán ra bất kể thị trường tăng hay giảm.
Trước tình hình thế giới lâm vào khủng hoảng chung, giá các cổ
phiếu tại chính quốc trở nên rẻ hơn so với thị trường Việt Nam, các tổ chức
nước ngoài có xu hướng bảo toàn vốn và rút về nước.
Tính riêng 3 tháng cuối năm, khối ngoại bán ròng hơn1.730 tỷ đồng
cổ phiếu và hơn 27.000 tỷ đồng trái phiếu. Trong đó dồn dập nhất vào tháng
10, khối ngoại liên tục bán ra trái phiếu với giá trị bán ròng lên tới 1.000 tỷ
đồng/phiên.
Tổng cộng hai sàn, nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ 2,69 tỷ USD
tiền cổ phiếu.
Lo sợ một đợt rút vốn ồ ạt của khối ngoại, giới đầu tư trong nước cũng
…hành động theo khối ngoại và liên tục bán ra cổ phiếu khiến VN-Index
xuống 286,87 điểm ngày 10/12.
16
Thậm chí trong khoảng thời gian cuối tháng 11, đột nhiên
TTCK Việt Nam diễn biến cùng pha với TTCK Mỹ. VN-Index diễn biến
tăng giảm cùng với diễn biến của các chỉ số Dow Johns, Nasdaq.Mặc dù
chỉ số chứng khoán Mỹ phản ánh ngay thông tin trong khi VN-Index bị
ảnh hưởng bởi T+4.
Qua những thông tin trên,chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy thực tế
diễn ra trên thị trường chứng khoán trong giai đoạn khủng hoảng tài
chính không như nhận định tác động trên mặt lý thuyết.Tại sao lại như
vậy?

Để giải thích cho sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế trên,trước
tiên ta xem xét đến tình hình của nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ:
Từ cuối năm 2007, trong giai đoạn chuẩn bị và thông qua kế hoạch
kinh tế xã hội năm 2008, đến tháng 3-2008, chính sách kinh tế được chi phối
bởi mục tiêu tăng trưởng GDP 9%, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế

hoạch năm năm sớm (chỉ trong ba năm), vượt ngưỡng nước có thu nhập
trung bình ngay trong năm 2008 Mục tiêu đó của Việt Nam được các nước
trên thế giới ủng hộ. Thể hiện ở vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế (thành viên
WTO, lần đầu tiên được bầu là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc ) và về
dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp ào ạt đổ vào trong nước.
Chính phủ đã dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình để
đạt các mục tiêu đề ra: Hệ quả là bên cạnh sự năng động và tăng nhanh về số lượng, các
quyết định hàng tỉ đô la Mỹ ở các địa phương, tập đoàn kinh tế, liên quan đến năng lượng, kết
cấu hạ tầng, nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất hệ trọng cho quốc kế dân sinh đã được
quyết định một cách nhanh chóng, thiếu sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia, hội đồng
thẩm định có chuyên môn ở các bộ, ngành và thiếu sự tham gia của các tổ chức quần chúng.
Bên cạnh đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng giá nhiên liệu,
giá lương thực, sắt thép trên thế giới. Có người cho rằng, có dầu thô xuất
khẩu, có lương thực xuất khẩu, thì Việt Nam sẽ có lợi trong cuộc khủng
17
hoảng trên thế giới này, chứ đâu bị tác động tiêu cực? Đúng là Việt Nam
xuất khẩu dầu thô, nhưng lại nhập khẩu xăng dầu với kim ngạch lớn hơn;
còn giá lương thực thế giới tăng sẽ kéo giá lương thực ở trong nước lên theo.
Sức cộng hưởng của các yếu tố trong và ngoài nước đã làm cho tình
hình lạm phát trở nên nghiêm trọng.Điều tất yếu là cung tín dụng tiếp tục
tăng trên 50%, lạm phát tăng vọt lên 25%, nhập siêu vượt quá mức an
toàn Chỉ số lạm phát ra ngày 25 hàng tháng cho thấy CPI tháng 4 tăng 2.2%
so với tháng 3, và tăng 21.42% so với cùng kỳ năm 2007, mức cao nhất
trong hơn một thập kỷ gần đây. Thâm hụt thương mại của Việt Nam trong 4
tháng đầu năm đã lên tới 11,1 tỷ USD, gấp 4 lần so với cùng kỳ năm ngoái,
do nhập khẩu tăng 71%, thị trường chứng khoán sụt giảm kỷ lục.
Từ tháng 3-2008, Chính phủ đã đột ngột đổi chiều nhằm ưu tiên
mục tiêu kiềm chế lạm phát. Lãi suất cơ bản được nâng lên, dự trữ bắt buộc
với lãi suất rất thấp được áp đặt, tín phiếu bắt buộc được phân bổ, biện pháp
hạn chế tín dụng “hà khắc” được áp đặt lên các ngân hàng thương mại, cắt

giảm đầu tư Tất cả biện pháp này gây ra gánh nặng lớn cho các ngân hàng
thương mại cũng như doanh nghiệp nhỏ và vừa.Các quan hệ thị trường bị
thu hẹp rõ rệt bởi sự can thiệp hành chính, đặc biệt là các quyết định về tăng,
giảm thuế nhập khẩu, về hạn ngạch, về giá xăng dầu liên tục được đưa ra
(có thời kỳ đạt tốc độ bình quân sáu quyết định lớn, nhỏ một tuần).
8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát được đề ra và ưu
tiên thực hiện: trong đó biện pháp quan trọng hàng đầu là thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ.Những biện pháp thắt chặt quá mạnh đã làm ảnh
hưởng tới lượng vốn đổ vào thị trường chứng khoán cộng thê với xu
hướng rút vốn của một số tập đoàn lớn do tình hình chứng khoán sụt
giảm hồi đầu năm khiên thị trường gặp khó khăn. các giải pháp như siết
chặt biên độ giao động +- 1% càng làm giảm tính thanh khoản của thị
18
trường. Và khi biên độ được giãn ra từ từ thì thị trường bật lên khá mạnh.
Tới cuối tháng 8, nó từ 366 điểm lên gần 570 điểm. Đó là thời kì tươi sáng
nhất của thị trường trong năm.Thị trường vừa có sự phuc hồi nhưng vẫn còn
yếu sau cơn khủng hoảng lạm phát thì lại phải hứng chịu sự ảnh hưởng của
cơn bão khủng hoảng tài chính thế giới. Tuy rằng được dự đoán là không
chịu nhiều tác động trực tiếp nhưng khi thị trường trong nước vừa mới hồi
phục thì đây thực sư là một cú đánh mạnh khiến chỉ số chứng khoán trong
nước sụt giảm nghiêm trọng ngoài sự dự đoán của tất cả các chuyên
gia.Có thể nói nếu không có những lí do chủ quan của thị trường chứng
khoán trong nước thì sự ảnh hưởng sẽ không mạnh như thế. Thị trường
chứng khoán Việt Nam đã gục ngã khi vừa mới đứng dậy.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý chậm trễ ban hành các cơ chế
giao dịch mới mà NĐT kỳ vọng, vấn đề kỹ thuật nội bộ của hệ thống ngân
hàng như việc tăng vốn điều lệ lên tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào cuối năm nay,
các quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN Các nhân tố trên khiến
dòng tiền trong nước chảy vào chứng khoán chững lại.
Thứ hai, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu đến TTCK Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên
TTCK thì ở quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường này
mới hình thành.
Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt Nam bao phen lâm vào tình
trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua không được,
ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có
hiện tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị
kiến thức và bản lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua
bán chứng khoán, mặt khác môi trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho
thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu
tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch định chính sách và điều
19
tiết thị trường của cơ quan quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các hành vi
làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua
bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Mỗi
khi các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản hoặc
chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ
TTCK.
Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là
nhân tố dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ
làm cho giá chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng
9/2008 đến nay, rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát đi như lãi
suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể đã
không nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và chỉ số
chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó
cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các thông tin tốt
từ nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình
giao dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu
tư tương tự.
Vậy là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm

lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu tư nước
ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài nước”. Tâm
lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm
vực dậy TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có
biến động mạnh ở một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ
liên thông lớn hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật đó.
20
Thực sự, còn có nhiều bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô Việt Nam
(dẫn đến tâm lý e ngại đầu tư vào Việt Nam (nếu có chứ không phải là vì
nền kinh tế Mỹ đang đi xuống). Và thị trường chứng khoán của chúng ta
vẫn chưa thực sự là một nền chứng khoán minh bạch khi không có sự
kiểm soát thỏa đáng dẫn đến việc các nhà đầu tư không thực sự tin tưởng
vào tính minh bạch thông tin của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ những phân tích trên,ta đi đến kết luận: Thị trường chứng khoán
Mỹ không có tác động trực tiếp đến thị trường chứng khoán Việt Nam vì
thực ra hai thị trường không thông nhau, nhưng có những tác động gián tiếp.
Tác động gián tiếp ở đây là tác động về tâm lý của giới đầu tư, tiếp đến là
tác động từ các nhà đầu tư tài chính nước ngoài có đầu tư tại Việt Nam.Bên
cạnh đó là các yếu tố chủ quan ở tình hình nội tại của nền kinh tế Việt
Nam,các chính sách điều tiết của chính phủ,cũng như tính pháp lý trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
21

×