Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

THÁCH THỨC CỦA HỆ THÔNG THUẾ TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP VÀ TOÀN CẦU HÓA NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.03 KB, 24 trang )

ĐỀ TÀI
THÁCH THỨC CỦA HỆ THÔNG THUẾ TRONG THỜI KỲ HỘI
NHẬP VÀ TOÀN CẦU HÓA NỀN KINH TẾ
ĐỀ CƯƠNG
1. Tổng quan về Hệ thống thuế Việt Nam
2. Hội nhập kinh tế và Toàn cầu hóa nền kinh tế
2.1Hội nhập kinh tế
Hội nhập kinh tế là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách
hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh
tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc
xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông
hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng
tiền của họ cho toàn bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang
tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là
quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và
thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực
thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác,
gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc
khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy
mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang
hướng tới.
a) Thỏa thuận thương mại ưu đãi
Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, theo đó các quốc gia tham
gia hiệp định dành các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho hàng hóa
của nhau. Trong các thỏa thuận này, thuế quan và hàng rào phi thuế quan có
thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia
hiệp định. Một ví dụ về thỏa thuận thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa
thuận Thương mại Ưu đãi ASEAN được ký kết tại Manila năm 1977 và được
sửa đổi năm 1995; hay như các hiệp định dành ưu đãi thương mại (hay tối


huệ quốc) mà một số nước phát triển có thể dành cho các nước đang phát
triển.
b) Hiệp định thương mại tự do
Là hiệp định theo đó các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng
rào phi thuế quan cho tất cả hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Có thể
có những dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn; và người ta thường đưa các
dòng thuế này vào "danh sách nhạy cảm". Chỉ một số ít dòng thuế sẽ không
được bãi bỏ và được liệt kê trong "danh sách loại trừ". Quy tắc xuất sứ là
một phần quan trọng của các hiệp định thương mại tự do nhằm đảm bảo chỉ
những hàng hóa được sản xuất toàn bộ hoặc tối thiểu ở một tỷ lệ nhất định tại
các nước thành viên hiệp định mới được buôn bán tự do nhằm tránh tình
trạng nước không tham gia hiệp định sử dụng cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp
tại một nước tham gia hiệp định mà có thể xuất khẩu sang nước còn lại của
hiệp định không phải chịu thuế.
Một hiệp định thương mại tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó
là Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu. Sau những bế tác của đàm phán tự
do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ GATT, các hiệp định thương
mại tự do song phương (giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày càng
nhiều từ giữa thập niên 1990. Và trong số những quốc gia hăng hái nhất
trong việc ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương phải kể đến
Mexico, Singapore. Những khu vực thương mại tự do nổi tiếng mới thành
lập từ thập niên 1990 điển hình là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
(thành lập năm 1994), Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (hiệp định được ký
kết vào năm 1992). Ngoài ra, còn có những hiệp định thương mại tự do giữa
một nước với cả một khối, như Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế
ASEAN-Trung Quốc (ký kết vào năm 2002).
Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên
việc đàm phán để thành lập một hiệp định thương mại tự do là khá mất thời
gian và qua nhiều vòng thương thảo. Những nước hăng hái với tự do hóa
thương mại có thể thỏa thuận tiến hành chương trình giảm thuế quan sớm

(còn gọi là chương trình thu hoạch sớm) đối với một số dòng thuế trước khi
đàm phán kết thúc và hiệp định được thành lập.
c) Hiệp định đối tác kinh tế
Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định
thương mại tự do, theo nghĩa là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa
thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan lại còn bao gồm cả tự
do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký
kết hiệp định.
Nhật Bản là quốc gia có xu hướng thích các hiệp định đối tác kinh tế vì
nó cho phép quốc gia này thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước
đối tác. Hiện Nhật Bản đã ký kết 8 hiệp định đối tác kinh tế song phương và
một hiệp định đối với ASEAN, đang đàm phán để đi tới ký kết 5 hiệp định
khác (Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Úc, Thụy Sĩ), có 15 quốc gia, lãnh thổ
và khu vực đang có nguyện vọng đàm phán và ký kết hiệp định đối tác kinh
tế với Nhật Bản.
d) Thị trường chung
Thị trường chung có đầy đủ các yếu tố của hiệp định đối tác kinh tế và
liên minh thuế quan, cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố
sản xuất (vốn, lao động) giữa các nước thành viên. Một thị trường chung như
vậy đã từng được thành lập ở châu Âu vào năm 1957 theo Hiệp ước Rome và
mất một thời gian dài mời hoàn thành mục tiêu. Khối ASEAN cũng đã thỏa
thuận sẽ thực hiện được mục tiêu một thị trường chung và một cơ sở sản xuất
thống nhất trong toàn khối vào năm 2020 trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh
tế ASEAN.
2.2 Toàn cầu hóa nền kinh tế
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v.
trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như
được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa

thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người
ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy
thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
Các dấu hiệu của toàn cầu hóa
• Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế thế giới
• Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài
• Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các
công nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại
• Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các
văn hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo.
• Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người
chú ý hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng
lên của khí hậu, khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức
sống ở các nước nghèo.
• Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu
hướng hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng
văn hoá thông qua sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán
hoá của văn hoá.
• Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua
các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và
OPEC
• Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế
• Gia tăng di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép
• Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu
• Phát triển các hệ thống tài chính quốc tế
• Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia
• Gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF
chuyên xử lý các giao dịch quốc tế

• Gia tăng số lượng các chuẩn áp dụng toàn cầu; v.d. luật bản quyền
Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến
tranh thế giới lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế
quan và mậu dịch (GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm:
• Thúc đẩy thương mại tự do
o Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng
các khu mậu dịch tự do với thuế quan thấp hoặc không có
o Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản
o Giảm, bỏ hẳn hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp
địa phương
• Thắt chặt vấn đề sở hữu trí tuệ
o Hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia (nói chung là thắt
chặt hơn)
o Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước (v.d. bằng
sáng chế do Việt Nam cấp có thể được Mỹ thừa nhận)
3. Biếu cam kết về thuế của Việt Nam trong WTO
Theo Bộ Tài chính, trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm
thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng
buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng
của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần - cao hơn mức thuế suất hiện
hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối
với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận
tải.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào
thời điểm gia nhập và 21,0% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. So sánh với mức
thuế MFN bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức
cắt giảm đi sẽ là 10%. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam sẽ được áp
dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng, gồm: trứng, đường, lá
thuốc lá, muối (muối trong WTO không được coi là mặt hàng nông sản). Đối
với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế

MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuốc lá
lá: 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
Bảng 1 - Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhóm mặt hàng
Thuế suất cam kết
tại thời điểm gia
nhập WTO (%)
Thuế suất cam kết cắt
giảm cuối cùng cho WTO
(%)
1. Nông sản 25,2 21,0
2. Cá, sản phẩm cá 29,1 18,0
3. Dầu khí 36,8 36,6
4. Gỗ, giấy 14,6 10,5
5. Dệt may 13,7 13,7
6. Da, cao su 19,1 14,6
7. Kim loại 14,8 11,4
8. Hóa chất 11,1 6,9
9. Thiết bị vận tải 46,9 37,4
10. Máy móc thiết bị
cơ khí
9,2 7,3
11. Máy móc thiết bị
điện
13,9 9,5
12. Khoáng sản 16,1 14,1
13. Hàng chế tạo
khác
12,9 10,2
Cả biểu thuế 17,2 13,4

Bảng 2 - Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng chính


TT Mặt hàng
Thuế
suất
MFN
(%)
Cam kết với WTO

Thuế
suất khi
gia
nhập
(%)
Thuế
suất
cuối
cùng
(%)
Thời hạn thực
hiện
(1) (2) (3) (4) (5) (6)

1
Một số sản phẩm
nông nghiệp
- Thịt bò 20 20 14 5 năm
- Thịt lợn 30 30 15 5 năm
- Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm

- Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm
- Thịt chế biến 50 40 22 5 năm
- Bánh kẹo (t/s bình quân) 39,3 34,4 25,3 3-5 năm
- Bia 80 65 35 5 năm
- Rượu 65 65 45-50 5-6 năm
- Thuốc lá điếu 100 150 135 3 năm
- Xì gà 100 150 100 5 năm

- Thức ăn gia súc 10 10 7 2 năm


2

Một số sản phẩm
công nghiệp


- Xăng dầu (t/s bình
quân)
0-
10 38,7 38,7

- Sắt thép (t/s bình quân) 17,7 13 5-7 năm

- Xi măng 40 40 32 4 năm


- Phân hóa học (t/s bình
quân) 6,5 6,4 2 năm


- Giấy (t/s bình quân)
22,
3 20,7 15,1 5 năm

- Tivi 50 40 25 5 năm

- Điều hòa 50 40 25 3 năm

- Máy giặt 40 38 25 4 năm


- Dệt may (t/s bình quân) 37,
3
13,7 13,7 Thực hiện
ngay
khi gia nhập
(theo HĐ dệt
may đã có với
EU , US )

- Giày dép 50 40 30 5 năm

- Xe Ôtô con


+ Xe từ 2.500 cc trở lên,
chạy xăng 90 90 52 12 năm


+ Xe từ 2.500 cc trở lên,

chạy xăng, loại 2 cầu 90 90 47 10 năm


+ Xe dưới 2.500 cc, và
loại khác 90 90 70 7 năm

- Xe tải

+ Loại không quá 5 tấn 100 80 50 10 năm


+ Loại khác, có t/s hiện
hành 80% 80 80 70 7 năm


+ Loại khác, có t/s hiện
hành 60% 60 60 50 5 năm

- Phụ tùng ôtô
20,
9 24,3 20,5 3-5 năm

- Xe máy

+ Loại từ 800 cc trở lên 100 100 40 8 năm

+ Loại khác 100 95 70 7 năm

Như tất cả các nước mới gia nhập khác, Việt Nam cũng cam kết tham gia
vào một số Hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam

kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết
bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay,
hoá chất
Bảng 3 - Các cam kết thực hiện Hiệp định tự do hoá theo ngành


Hiệp định tự do hoá theo ngành Sốdòng thuế
T/s MFN
(%)
T/s cam
kết cuối
cùng (%)
1. HĐ công nghệ thông tin ITA- tham
gia 100%
330 5,2% 0%
2. HĐ hài hoà hoá chất CH- tham gia
81%
1.300/1.600 6,8% 4,4%
3. HĐ thiết bị máy bay dân dụng CA-
tham gia hầu hết
89 4,2% 2,6%
4. HĐ dệt may TXT- tham gia 100% 1.170 37,2% 13,2%
5. HĐ thiết bị y tế ME- tham gia
100%
81 2,6% 0%
3. Thách thức của hệ thống thuế trong thời kỳ hội nhập
Một là, cơ cấu nguồn thu bị phụ thuộc quá nhiều vào thuế nhập khẩu:
Trong cơ cấu nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí thì thuế nhập khẩu chiếm tỷ trọng
tương đối cao. Theo thống kê, trong suốt giai đoạn từ năm 1991 đến nay,
mặc dù có xu hướng giảm dần trong vài năm gần đây nhưng thuế xuất, nhập

khẩu vẫn chiếm trên 20%/tổng thu Ngân sách Nhà nước, khoản trên dưới 4%
GDP, trong số đó trên 90% là thuế nhập khẩu. Điều này, thể hiện tính chưa
vững chắc của nguồn thu ngân sách và phản ánh phần nào chính sách bảo hộ
nền sản xuất trong nước.
Trước xu thế hội nhập, cũng như nhiều nước đang phát triển khác, khi
Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại khu vực hay gia nhập Tổ thức
Thương mại thế giới, việc phụ thuộc quá nhiều vào thuế nhập khẩu sẽ gây
những ảnh hưởng quan trọng không chỉ đối với nguồn thu Ngân sách mà còn
ảnh hưởng đến nền kinh tế. Lý do là xu thế hội nhập cũng hàm ý là thuế nhập
khẩu sẽ bị hạ thấp, điều đó làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách, ít nhất là
trong ngắn hạn, khi chúng ta chưa có thời gian điều chỉnh nhập khẩu.
Hai là, cơ cấu nền kinh tế làm giảm khả năng áp dụng và tạo những khó
khăn trong việc quản lý một số sắc thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân,
thuế tài sản và thuế giá trị gia tăng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, thu nhập
của dân cư thấp, thu nhập từ tiền lương chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong tổng
thu nhập quốc dân dẫn đến số lượng đối tượng nộp thuế thu nhập còn ít. Tính
đến năm 2000, con số này mới chỉ vào khoảng 400.000 người, chiếm khoảng
1% lực lượng lao động và khoảng 3% số người làm việc ở khu vực phi nông
nghiệp với số thu từ thuế thu nhập chỉ khoảng 2% tổng thu ngân sách. Thêm
vào đó, thu nhập được phân phối không công bằng giữa các tầng lớp dân cư
dẫn đến tình thế khó khăn: để có thể thu được số thuế lớn (đạt được sự luỹ
tiến hiệu quả đối với thuế thu nhập) thì những người có thu nhập cao cần
phải chịu thuế với tỷ lệ cao hơn những người có thu nhập thấp. Nhưng vì
quyền lực kinh tế và chính trị thường tập trung vào nhóm người có thu nhập
cao, nên việc đạt các mục tiêu cải cách thuế cũng trở nên khó khăn hơn, nhất
là khi chương trình cải cách ảnh hưởng đến lợi ích của họ.
Ba là, năng lực quản lý và điều hành thuế còn nhiều hạn chế:
Có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan của vấn đề này. Nguyên nhân
chủ quan từ phía cơ quan thuế xuất phát từ chỗ đội ngũ cán bộ thuế còn

mỏng, quá trình đào tạo không thường xuyên, chưa theo kịp yêu cầu quản lý
kinh tế. Bên cạnh đó là hạn chế về nguồn lực vật chất phục vụ cho công tác
quản lý thuế, đặc biệt là hệ thống tin học. Yêu cầu của quản lý thuế trong giai
đoạn hiện nay đòi hỏi không chỉ nối mạng máy tính trong toàn quốc mà còn
phải cập nhật và trao đổi thông tin với các nước trên thế giới để đối chiếu,
kiểm tra và xử lý thông tin một cách kịp thời. Trong điều kiện hội nhập thì hệ
thống mạng máy tính là một trong những công cụ quản lý thuế quan trọng.
Nguyên nhân khách quan là do khu vực không chính thức đóng vai trò
khá quan trọng trong nền kinh tế. Các hoạt động "ngầm" làm cho cơ quan
thuế và thống kê gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập hệ thống thông tin
tin cậy nhằm giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá được những
tác động thay đổi về chính sách thuế đến nền kinh tế nói chung và ảnh đến
nguồn thu nói riêng. Việc khó lượng hoá những thay đổi về nguồn thu của
ngân sách trong điều kiện hạn hẹp thường dẫn tới những rủi ro lớn về khó
khăn tài khoá.
4. hoàn thiện hệ thống thuế trong thời kỳ hội nhập
4.1 Hoàn thiện hệ thống thuế ớ Trung Quốc
Từ khi tiến hành đàm phán gia nhập WTO, việc cắt giảm thuế quan
của Trung Quốc đã được thực hiện một cách nhất quán và liên tục, vừa làm
cho hệ thống thuế quan phù hợp với chuẩn mực chung của kinh tế thị trường
và thông lệ quốc tế, vừa nhằm mục tiêu giảm thuế suất bình quân, đáp ứng
yêu cầu của việc gia nhập WTO. Lịch trình cắt giảm thuế quan của Trung
Quốc từ năm 1992 đến thời điểm trở thành thành viên WTO (2001) gồm:
Ngày 01/01/1992: Giảm 225 dòng thuế, chiếm 4,1% tổng số;
Ngày 01/04/1992 : Loại bỏ thuế nhập khẩu đối với 18 nhóm sản phẩm,
trong đó 16 nhóm sản phẩm với 168 dòng có mức thuế suất nhập khẩu giảm
từ 28,6-68%. Hai nhóm sản phẩm còn lại là ô tô mui kín và máy quay phim,
thuế căn bản đã tăng trong khi thuế theo luật được loại bỏ, nhưng mức thuế
nhập khẩu vẫn giảm nhẹ,…
Ngày 01/01/2000: Giảm 819 dòng thuế đối với các sản phẩm dệt trong

phạm vi từ 0,6-2 điểm phần trăm. Giảm 202 dòng thuế đối với các hàng hóa
chất, máy móc và các sản phẩm khác (thuế linh kiện chế tạo máy tính cá
nhân giảm từ 15% xuống còn 6%, thuế đánh vào bộ phận ghi dữ liệu giảm từ
18% xuống còn 1%);
Ngày 01/01/2001: Cắt giảm 3.462 dòng thuế, chiếm 49% tổng số…
Với một lộ trình cắt giảm thuế quan như trên, thuế suất bình quân đối với
hàng nhập khẩu của Trung Quốc đã liên tục giảm xuống và tới thời điểm trở
thành thành viên WTO, mức thuế này chỉ còn bằng 1/3 so với thời điểm khi
Trung Quốc bắt đầu đàm phán gia nhập.
Thuế quan bình quân đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc giai
đoạn 1998-2001

Năm Mức thuế quan bình
quân (%)
1982 55,6%
1985 43,3%
1988 43,7%
1991 44,1%
1992 43,2%
1993 39,9%
1994 35,9%
1996 23%
1997 17%
2000 16,4%
2001 15,3%
Sau khi 9,8%
gia nhập
WTO

Một nội dung quan trọng nữa của cải cách chính sách ngân sách ở

Trung Quốc là quá trình chuyển từ hệ thống giao nộp ngân sách trong hệ
thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây sang hệ thống thuế có nhiều
đặc điểm tương đồng với các nước kinh tế thị trường phương Tây, theo đó,
từ năm 1994, Trung Quốc đã thực hiện một cuộc cải cách thuế căn bản:
(1) Mở rộng thuế giá trị gia tăng trong hệ thống thuế doanh thu (gồm
VAT, thuế sản phẩm và thuế môn bài). Từ năm 1994, thuế giá trị gia tăng đã
được áp dụng cho các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ, sản xuất thuộc mọi
thành phần kinh tế, không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay doanh
nghiệp nước ngoài. Đến năm 1995, thuế VAT đã chiếm 42% tổng thu ngân
sách. Các loại thuế môn bài với mức từ 3%-5% được áp dụng chủ yếu cho
dịch vụ và kinh doanh bất động sản.
(2) Cuộc cải cách mới hệ thống thuế bắt đầu từ năm 2002 nhằm đảm
bảo cho Nhà nước kiểm soát kinh tế vĩ mô tốt hơn bao gồm những nội dung
chính:
- Chuyển thuế VAT từ dạng thuế dựa trên sản xuất sang VAT dựa trên
tiêu dùng, tương tự như hệ thống thuế giá trị gia tăng của các nước phương
Tây;
- Cải thiện thuế hàng hóa, sửa lại các khoản mục thuế thông qua việc
tăng, giảm và từng bước loại bỏ các hàng hóa chung chịu thuế, đưa các hàng
hóa tiêu dùng cao cấp thành tiêu điểm của thuế hàng hóa;
- Thống nhất hệ thống thuế doanh nghiệp, bao gồm thống nhất tiêu chí
phân biệt cho từng người đóng thuế và các chính sách ưu đãi;
- Cải thiện hệ thống thuế thu nhập cá nhân bằng cách đưa ra một hệ
thống thuế thu nhập cá nhân có phân loại, hợp lý hóa việc khấu trừ trước
thuế, hình thành tiêu chí điều chỉnh tỷ lệ thuế hợp lý hơn;
- Cải cách thuế xây dựng đô thị;
- Cải thiện hệ thống thuế địa phương, đảm bảo cho chính quyền địa
phương là cơ quan có thẩm quyền về chính sách thuế, đồng thời khẳng định
chính sách thuế thống nhất;
- Cải cách sâu hơn thuế ở nông thôn bao gồm hủy bỏ thuế nông nghiệp

đặc biệt, từng bước giảm thuế nông nghiệp, hình thành chính sách thuế ưu
đãi đối với những vùng sản xuất lương thực chủ yếu.
4.2 Hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
4.2.1 Chính sách thuế
a) sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế, phí hiện hành
+ Thuế giá trị gia tăng VAT
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, thuế VAT cần được hoàn
thiện trên một số nội dung chính:
- Thu hẹp đối tượng không thuộc diện chịu thuế VAT, vừa đảm bảo
tính trung lập của sắc thuế này, vừa khai thác nguồn thu trong điều kiện hội
nhập.
- Hoàn thiện các quy định về thuế suất thuế VAT: Áp dụng phương
pháp liệt kê để xác định cụ thể phạm vi áp dụng mức thuế suất phổ thông,
nhằm đảm bảo tính đơn giản của chính sách thuế, đồng thời phù hợp với
thông lệ quốc tế; hướng tới việc áp dụng cơ chế một mức thuế suất giá trị gia
tăng.
- Hoàn thiện phương pháp tính thuế là cần thiết vì tính thực tế của
phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng rất thấp, trong tương lai cần
xây dựng ngưỡng doanh thu chịu thuế. Theo đó, các đối tượng có mức doanh
thu hàng năm vượt trên ngưỡng sẽ là đối tượng bắt buộc phải đăng ký, nộp
thuế VAT; các đối tượng có mức doanh thu dưới ngưỡng không bắt buộc
phải thực hiện đăng ký, nộp thuế VAT (các đối tượng này thực hiện nộp thuế
theo phương thức khoán và không được quyền khấu trừ thuế VAT đầu vào).
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt
Để thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, trong thời gian tới cần phải được hoàn thiện theo hướng:
- Mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng
hóa, dịch vụ như các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp,…không phân
biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.
- Về thuế suất, sự điều tiết cần đặt trong mối quan hệ với các sắc thuế

khác. Cụ thể, trong điều kiện thuế nhập khẩu tiếp tục được điều chỉnh giảm
theo cam kết thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT), áp dụng thuế VAT đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt,… Theo đó, cần điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt
hiện hành xuống mức hợp lý, không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh các mặt hàng,
dịch vụ này.
+ Thuế xuất, nhập khẩu
Căn cứ vào chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, việc sửa
đổi Luật thuế xuất, nhập khẩu cần đáp ứng được những mục tiêu và yêu cầu
sau: Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn
định, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử, phù hợp với tiến trình
cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế; Khuyến khích phát triển sản xuất
và xuất khẩu, bảo hộ hợp lý, có điều kiện, có chọn lọc, phù hợp với tiến trình
hội nhập; Góp phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước; Kế thừa
những quy định của Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành đang phát huy hiệu
quả trong thực tiễn, đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp
với điều kiện hội nhập, chưa đồng bộ với pháp luật hiện hành và chưa đề cao
được vai trò quản lý của Nhà nước trong chống gian lận thương mại, thất thu
thuế.
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ ngày
01/01/2004, khi đi vào cuộc sống đã góp phần tạo ra sự thống nhất và hợp lý
hơn trong việc huy động ngân sách nhà nước từ một sắc thuế quan trọng có
tính chất trực thu. Tuy vậy, cũng cần phải có những điều chỉnh để phù hợp
hơn với thực tiễn và thông lệ quốc tế:
- Về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, việc giảm thuế suất từ 32%
trước đây xuống còn 28% như hiện nay là bước cải cách quan trọng. Mặc dù
vậy, so với các nước trên thế giới hiện nay, mức thuế này vẫn còn cao và cần

được giảm hơn nữa. Đồng thời, xem xét lại việc miễn giảm thuế theo hướng
thu hẹp diện miễn, giảm thuế thu nhập theo hướng có chọn lọc đối với những
ngành, sản phẩm cần ưu đãi để thúc đẩy sản xuất, thu hút đầu tư, sẽ vừa đảm
bảo phát huy tính chất điều tiết, khuyến khích sản xuất kinh doanh của thuế
suất, vừa đơn giản trong việc thực hiện thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Về thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động chuyển quyền sử dụng
đất, chuyển quyền thuê đất, Điều 12 - Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày
22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết về thuế thu nhập doanh nghiệp
có ghi: “Đối tượng nộp thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển
quyền thuê đất là tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập
từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất”. Tuy nhiên, các căn cứ
để tính thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động này như doanh thu, chi phí,
… đến nay rất khó xác định chính xác và thống nhất mà chủ yếu là do các
giao dịch trong nền kinh tế của nước ta chưa minh bạch và chặt chẽ. Chính vì
vậy, cần có những hướng dẫn cụ thể cho vấn đề này để thực hiện thống nhất
và có hiệu quả hơn.
+ Thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao
Sắc thuế này sẽ cùng với thuế thu nhập doanh nghiệp trở thành loại
thuế trực thu chủ yếu, chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống thuế và tỷ trọng
thuế thu nhập cá nhân trong tổng thu ngân sách nhà nước sẽ có xu hướng
tăng cao, vì vậy cần:
- Quy định chuẩn lại đối tượng thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân;
- Bao quát và cụ thể hóa các quy định về xác định thu nhập, các khoản
được giảm trừ theo hướng minh bạch, rõ ràng, phù hợp với thông lệ quốc tế;
- Xây dựng biểu thuế lũy tiến từng phần, tổng mức điều tiết khoảng
30% tổng thu nhập của cá nhân;
- Thu hẹp dần khoảng cách khởi điểm chịu thuế giữa người trong nước
và người nước ngoài.
=>>> vấn đề quan trọng nhất là phải xử lý được mối quan hệ giữa thuế
trực thu và thuế gián thu; thuế nội địa và thuế nhập khẩu. Điều này không

những sẽ giải quyết được khó khăn về nguồn thu trong điều kiện hội nhập mà
còn góp phần to lớn vào việc xây dựng một hệ thống thuế hiệu quả.
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy rõ việc giải quyết vấn đề nguồn thu
Ngân sách Nhà nước hiện nay cần hướng vào thuế nội địa. Vấn đề còn lại là
ở chỗ xác định cơ cấu thuế trực thu và gián thu như thế nào cho hợp lý. Hệ
thống thuế hiện hành của chúng ta có tỷ trọng thuế gián thu chiếm ưu thế hơn
so với thuế trực thu. Với cơ cấu đó thì hiệu quả suất thu thuế sẽ cao nhưng
khả năng điều tiết thấp. Ngược lại, khi tỷ trọng thuế trực thu cao thì khả năng
điều tiết của hệ thống thuế sẽ cao hơn. Trong quá trình thực thi chính sách
thuế, việc tăng thuế tiêu dùng thường được ưa chuộng hơn, bởi tăng thuế thu
nhập có tác động xấu đến đầu tư và đòi hỏi thời gian nhiều hơn so với tăng
thuế tiêu dùng. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế hiện nay dẫn đến xu
hướng chuyển dịch tương đối trong cơ cấu nguồn thu ngân sách từ thuế tiêu
dùng sang thuế thu nhập.
Xét trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, sức ép về nguồn thu ngày
một tăng, trong khi tiềm năng thu từ thuế thu nhập cá nhân còn lớn thì việc
kết hợp cả hai loại thuế, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá
nhân để đảm bảo nguồn thu có thể được xem là một giải pháp quan trọng và
khả thi. Đối với thuế thu nhập cá nhân, cần hướng đến tính hiệu quả hơn là
tính công bằng. Với những mức thuế suất biên hợp lý sẽ khuyến khích các cá
nhân nỗ lực làm việc, từ đó sẽ mở rộng cơ sở tính thuế. Đồng thời, việc mở
rộng cơ sở tính thuế thu nhập cá nhân sẽ làm giảm nhẹ vai trò của thuế giá trị
gia tăng, giảm gánh nặng đối với những người có thu nhập thấp. Mặt khác, vì
việc mở rộng cơ sở tính thuế thu nhập cá nhân có tính nhạy cảm nên có thể
dụng thuế giá trị gia tăng để thực hiện một phần chức năng của thuế thu nhấp
cá nhân (xét về khía cạnh huy động nguồn thu). Tuy nhiên, trong quá trình
kết hợp hai sắc thuế này thì ưu tiên số 1 vẫn phải tập trung vào việc hoàn
thiện và khai thác các sắc thuế gián thu.
Trong kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XI ngày 17/6/2003 vừa qua, 3 Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc

biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp đã được thông qua. Việc sửa đổi, bổ sung
các luật thuế lần này đã làm cho hệ thống thuế hiệu quả hơn. Thuế giá trị gia
tăng trở nên trung lập, hiệu quả hơn do việc giảm bớt số lượng mức thuế
suất, mở rộng diện các đối tượng đánh thuế. Thuế tiêu thụ đặc biệt là một sắc
thuế gián thu đã được khai thác để hỗ trợ cho thuế giá trị gia tăng trong việc
đảm bảo nguồn thu. Còn đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, những thay đổi
trong Luật mới có tác dụng kích thích sản xuất và đầu tư nhiều hơn.
Tuy nhiên, trong thời gian tới những luật thuế này cần được hoàn thiện
theo xu hướng chú trọng đế tính hiệu quả của cả hệ thống thuế, giảm dần
những mục tiêu xã hội được lồng ghép trong chính sách thuế. Đồng thời sớm
ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản để hoàn thiện hơn hệ thống
thuế.
b) Ban hành các sắc thuế mới
Trên cơ sở vừa thực hiện nghiêm túc các cam kết hội nhập theo đúng nội
dung và lộ trình đã ký kết, vừa phù hợp với mức tích lũy từng ngành để
khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và tạo ra nguồn thu lâu dài cho
ngân sách nhà nước, các Bộ, ngành cần tham mưu cho Chính phủ trình Quốc
hội xem xét, ban hành thêm một số sắc thuế mới như:
- Thuế chống bán phá giá : Loại thuế này nhằm mục đích bảo vệ thị
trường nội địa khi nhập khẩu những hàng hóa có mức giá thấp hơn rất nhiều
lần so với giá thế giới. Thuế này đảm bảo nâng giá lên mức trung bình và
đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Thuế tuyệt đối (đặc biệt): Áp dụng cho hàng nhập khẩu, loại thuế này
được áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa khi nhập khẩu những hàng hóa với
một số lượng nhất định mà gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, hoặc thực
hiện trừng phạt đối với những người tham gia vào mối quan hệ đối ngoại khi
vi phạm lợi ích của nhau và có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ,
thuế tuyệt đối áp dụng đối với mặt hàng xe ô tô cũ.
- Ban hành Thuế môi trường: Trong thời gian qua, tình hình môi trường
ở Việt Nam có những biểu hiện bị xấu đi nhanh chóng. Để góp phần giải

quyết vấn đề này, Chính phủ đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau song
xem ra hiệu quả đem lại chưa cao. Vì vậy, việc xây dựng Luật Thuế môi
trường ở Việt Nam là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế, từ đó có thể
kết hợp được các mục tiêu môi trường trong phát triển kinh tế, xác định được
những mâu thuẫn và ưu tiên giữa mục tiêu môi trường và mục tiêu tăng
trưởng để có cách giải quyết thỏa đáng.
- Ban hành thêm Luật Thuế tài sản: Thuế tài sản đánh trên các động sản
và bất động sản ngoài mục đích xây dựng ngân sách nhà nước còn nhằm
tránh việc đầu cơ tích trữ tài sản, cụ thể là đất đai hay nhà ở. Khi một lớp
người tích trữ nhiều đất, họ sẽ tạo nên sự khan hiếm đất đai giả tạo và giá đất
sẽ tăng. Mặt khác, khi không phải trả tiền thuế đất, họ có thể găm giữ bao lâu
tùy ý khiến đất đai bị bỏ hoang hoặc khai thác không hiệu quả. Trước tình
hình đó, thuế tài sản, đặc biệt là thuế đất, có hiệu quả trong việc thúc đẩy
quay vòng vốn nhanh và sử dụng tài sản có hiệu quả. Thuế đất là loại thuế
hợp lý nhất và có tác dụng nhất trong điều tiết nền kinh tế của Nhà nước.
Trên thế giới, nhiều nước đã áp dụng có hiệu quả loại thuế này.
4.2.2 Quản lý thuế
quy trình cơ bản trong quản lý thuế bao gồm: đăng ký thuế, kê khai nộp
thuế, tính thuế, thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi
phạm pháp luật về thuế của những tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp ngân
sách, của cơ quan thu thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan đòi hỏi phải
được luật hóa để đảm bảo tính hiệu quả của công tác quản lý thu thuế. Chính
vì vậy, việc ban hành Luật quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay là phù hợp với
yêu cầu cải cách hành chính của Nhà nước nói chung cũng như yêu cầu cải
cách hệ thống chính sách thuế nói riêng.
a) hướng dẫn, hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong việc tổ chức, thực hiện công tác kế toán, sử dụng,
lưu giữ hoá đơn chứng từ
Có thể nói đây là công việc quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay bởi
sổ sách kế toán và hoá đơn chứng từ là một trong những cơ sở quan trọng

nhất cho việc triển khai cơ chế quản lý thuế mới. Trên thực tế, việc thực hiện
chế độ ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế, đặc biệt là với các hộ kinh doanh cá
thể còn rất yếu kém. Vấn đề này cần phải tiến hành đồng thời nhiều hoạt
động, từ cả hai phía: các cơ sở kinh doanh và những người dân:
+ Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh: Một mặt, cần tăng cường hướng
dẫn các đối tượng này về cách thức sử dụng, ghi chép và lưu giữ chứng từ, sổ
sách kế toán. Với các đối tượng này cần được thiết kế mẫu tờ khai thuế đơn
giản hơn để tạo điều kiện thuận lợi và phù hợp với trình độ của họ trong quá
trình kê khai. Ngoài ta, cần thực hiện một số biện pháp ưu đãi nhất định
nhằm khuyến khích họ thực hiện tốt chế độ kế toán.
+ Đối với dân cư: Mỗi người dân, với tư cách là những người mua hàng
hoá yêu cầu người bán nhất thiết phải xuất hoá đơn khi bán hàng buộc các
doanh nghiệp phải sử dụng hoá đơn khi bán hàng. Chứng từ ban đầu sẽ tạo
thuận lợi cho cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện ghi sổ kế toán. Điều này
có ý nghĩa không chỉ với việc quản lý các sắc thuế hiện hành, mà còn yêu
cầu quan trọng khi chúng ta ban hành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân.
Trước mắt cần tuyên truyền, giáo dục và khuyến khích người dân lấy hoá
đơn và sử dụng tên thật của mình khi mua hàng. Có thể bằng cách đưa ra
những hình thức như có hoá đơn dự thưởng, hay chiết khấu căn cứ số lượng
hoá đơn của từng khách hàng sau một thời gian thực hiện, hành vi lấy hoá
đơn khi mua hàng của mọi người dân phải bắt buộc, khi đó hoá đơn mua
hàng sẽ được coi là bằng chứng pháp lý để có thể sở hữu hàng hoá, tài sản họ
đã mua.
b) áp dụng một bước đệm cho cơ chế tự kê khai tính thuế, đó là thực hiện
việc kê khai theo hướng dẫn
các đối tượng nộp thuế kê khai, nộp thuế theo tính toán và thông báo thuế
của cơ quan thuế. Như vậy, công việc của cơ quan thuế được chuyển một
phần sang đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế kiểm tra, tính toán lại và ra
thông báo nộp thuế. Lựa chọn cách làm này trong thời gian vừa qua là hoàn

toàn phù hợp do trình độ kế toán và kê khai của đối tượng nộp thuế còn thấp,
nếu áp đặt ngay công việc tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế cho các đối
tượng nộp thuế là không khả thi và nếu có thực hiện thì phải trả giá bằng sự
gian lận dẫn đến thất thu rất lớn.
c) Tạo môi trường quản lý thuế
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả của quản lý
thuế. Sự phát triển của tài chính, và nhất là việc áp dụng rộng rãi hệ thống kế
toán hiện đại hay sử dụng các phương thức thanh toán qua ngân hàng sẽ làm
cho các giao dịch được kiểm soát dễ dàng hơn. Điều đó tạo cơ hội tiềm năng
quản lý một số loại thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng) một
cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Mặt khác, các dịch vụ cho người nộp thuế
được cung cấp đầy đủ và thuận tiện cũng là những yếu tố tích cực góp phần
tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho việc triển khai các luật thuế.
Môi trường pháp luật. Để đảm bảo tính tự nguyện tuân thủ thuế (nhất là
trong điều kiện áp dụng cơ chế tự kê khai nộp thuế) thì đỏi hỏi chúng ta phải
có luật thuế đúng và phù hợp. Điều đó có nghĩa là việc bắt buộc thu một loại
thuế phải được dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Ngoài ra, các điều luật
phải đảm bảo rõ ràng, đơn giản để đối tượng nộp thuế biết rõ nghĩa vụ của
mình. Sự chặt chẽ, rõ ràng, đơn giản sẽ làm giảm đáng kể các chi phí trong
quá trình thực thi luật thuế, kể cả chi phí quản lý và chi phí tuân thủ.

×