Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

quan điểm HCM về dân chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.05 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
I. Dân chủ là gì?
II. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
III. Quan điểm Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ.
IV. Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
V. Tài liệu tham khảo.
1
I Dân chủ là gì?
• Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khá sớm trong nền văn minh
nhân loại, gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại,
các chế độ xã hội khác nhau với nội dung cơ bản: dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân ở Việt Nam, mầm mống tư tưởng dân chủ đã có từ lâu, như một nhu cầu
tự nhiên mang bản tính người của con người trong đấu tranh tồn tại và cố kết cộng
đồng.
• Song, người Việt Nam chỉ biết đến và được hưởng quyền dân chủ thực sự từ khi
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng tháng Tám
năm 1945 lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và tiến hành hiện thực hóa tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội.
• Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân chủ là chìa khoá vạn năng để
giải quyết mọi công việc khó khăn của cách mạng. Trong Đảng không có dân chủ
thì đời sống của Đảng sẽ trở nên “âm u”. Trước khi đi xa trong di chúc Người căn
dặn: “trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và
thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người nhấn
mạnh thực hành dân chủ chứ người không nói là dân chủ Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “ để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ”, trong Đảng “
phải thật sự mở rộng dân chủ để bày tỏ hết ý kiến của mình.
• Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ:
+ Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Quan niệm về dân chủ
được diễn đạt qua hai mệnh đề: “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”.
+ Dân là chủ: nói đến vị thế của dân. Dân làm chủ: đề cập đến năng lực và


trách nhiệm của dân. Cả hai đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền
và trách nhiệm của dân. Người nói :“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là
nhà nước do nhân dân làm chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là
nhân dân làm chủ”;“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ”.
+ Phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền hành và lực lượng
đều thuộc về nhân dân. Xã hội đảm bảo điều đó được thực thi thì đó là một
xã hội thực sự dân chủ.
2
VI. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội:
• Dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thể hiện trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó lĩnh vực chính trị
là quan trọng nhất nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của
nhà nước.
• Dân chủ còn biểu hiện ở phương thức tổ chức xã hội thì phải có cấu tạo quyền lực
xã hội mà ở đó người dân cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ
thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
• Nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành là nhân dân. Đó là quan điểm gốc để Hồ
Chí Minh coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công cuộc đổi mới, xây
dựng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân.
1. Lĩnh vực chính trị:
o Dân chủ thể hiện trong lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bậc nhất
và được biểu hiện tập trung hoạt động của Nhà nước. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong chính trị được thể hiện ở việc khẳng định quyền
lực của nhân dân trong hiến pháp và pháp luật, đảm bảo trong tổ chức nhà
nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.
o Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”. Quan niệm địa vị cao nhất là dân được Người
giải thích rất ngắn gọn “dân là chủ”, mọi quyền hành và lực lượng là của
nhân dân, mọi công việc đều do dân và do đó thành quả của nên dân chủ

mới thuộc về đại đa số quần chúng nhân dân chứ không phải của bất cứ
một số ít dân cư nào. Trong Chương trình hành động của Mặt trận Việt
Minh, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nội dung cơ bản về chế độ dân chủ
cộng hòa cho nước ta sau khi giành chính quyền. Nhờ hướng đến mục tiêu
dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thức tỉnh quần chúng
nhân dân làm nên thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám.
o Như vậy, trong tư tưởng dân chủ của Người, vị trí nhân dân luôn là chủ và
làm chủ trong mọi hoàn cảnh. Điều này trước hết thể hiện ở trong các văn
kiện quan trọng nói về nhà nước như các bản Hiến pháp: 1946, 1959 và cụ
thể hơn là Bản tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đó
các giá trị về dân chủ gắn liền với độc lập, tự do của Tổ quốc, gắn liền với
bình đẳng và công bằng xã hội.
3
o Khẳng định vị trí là chủ và làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp và pháp
luật là sự đảm bảo đầu tiên cho việc thực hành đân chủ trong lĩnh vực
chính trị ở một nước chưa trải qua nền dân chủ tư sản, quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân thông
qua Hiến pháp thể hiện quan điểm lý luận, lý tưởng chính trị, chuẩn mực
chính trị pháp quyền, là xây dựng mặt “thần” của hệ thống chính trị ở
nước ta. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng một Hiến pháp
dân chủ, trong đó xác định quyền làm chủ của nhân dân với những cơ chế
để thực hiện quyền lực đó của nhân dân trong thực tiễn là những quan
điểm căn bản cho xây dựng mặt vật chất của hệ thống chính trị dân chủ ở
nước ta, trước hết thể hiện trong việc xây dựng nhà nước.
1 Lĩnh vực kinh tế:
o Giữa kinh tế và chính trị luôn có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và về dân chủ nói riêng không chỉ quan
tâm, đề cập tới quyền lực chính trị do ai và vì ai trong một chế độ nhà
nước mà còn bao hàm cả đời sống kinh tế. Nội dung tư tưởng dân chủ Hồ
Chí Minh bao gồm quyền sở hữu, quản lý những tư liệu sản xuất cơ bản

của xã hội nằm trong tay nhân dân, quyền tổ chức sản xuất và phân phối
sản phẩm từ đó cũng thuộc về nhân dân. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý
quyền làm chủ về kinh tế của người lao động. Dân chủ trong lĩnh vực kinh
tế còn bao hàm cả việc xác nhận sự tồn tại và phát triển của các thành
phần kinh tế và các hình thức sỡ hữu về tư liệu sản xuất.
o Trong việc tổ chức, quản lý sản xuất Người cho rằng: “Kế hoạch sản xuất
và tiết kiệm là một kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới
lên trên, nghĩa là Chính phủ trung ương có kế hoạch toàn quốc, và địa
phương căn cứ theo kế hoạch toàn quốc mà đặt kế hoạch thích hợp với địa
phương mình, mỗi người sẽ có kế hoạch riêng của riêng mình, ăn khớp với
kế hoạch chung”.
4
o Trong sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm luôn được
người lao động quan tâm sâu sắc, cơ sở của những quan hệ ấy là quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ tổ chức quản lý và phân phối tác động
trực tiếp tới thái độ và hành động của người lao động, cũng như tới lực
lượng sản xuất nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: “Từ
làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm
chủ việc phân phối sản phẩm lao động”, “Một xã hội bình đẳng, nghĩa là
ai cũng phải lao động và có quyền lao động”. Đây là những cơ sở quan
trọng nhất cho sự hình thành quan điểm dân chủ Hồ Chí Minh trong lĩnh
vực phân phối sản phẩm lao động căn cứ vào trình độ phát triển của nền
kinh tế đất nước.
o Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là sự
đảm bảo quyền làm chủ trong lĩnh vực kinh tế là sự đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân đối với quá trình sản xuất, trước hết là sự làm chủ của
họ đối với tư liệu sản xuất trong các thành phần kinh tế theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
1. Lĩnh vực văn hóa – xã hội:
o Điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong văn hóa trước

hết, là sự đánh giá đúng lực lượng và tài nghệ của nhân dân, sáng tạo ra
các giá trị văn hóa, kiểm nghiệm sản phẩm văn hóa, đồng thời được hưởng
thụ các giá trị văn hóa. Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh luôn yêu
cầu văn hóa phải hướng đến phục vụ nhân dân, “không thể nói nghệ thuật
vị nghệ thuật mà cần phải nói rõ văn hóa phục vụ công – nông – binh”.
“Văn hóa phải biết phục vụ nhân dân, góp phần nâng cao vào đời sống vui
tươi, lành mạnh của quần chúng”.
o Dân chủ trong xây dựng và phát triển văn hóa, theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là hướng vào quần chúng nhân dân lao động – những chủ thể của nền văn
hóa và là người thụ hưởng các giá trị văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, nhiệm vụ của nhà nước dân chủ trong xây dựng văn hóa là: “Phải
xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Phải nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân. Phải đề xướng đạo đức công dân tức là yêu
Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, bảo vệ của công…
phải chống văn hóa nô lệ của thực dân phong kiến”. Lấy văn hóa làm
trung tâm của chiến lược phát triển có tính đến cội nguồn văn hóa xã hội,
các giá trị nền móng và tính đến mục tiêu làm giàu, đi sâu và biến đổi nội
dung văn hóa đối với xã hội, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền văn
hóa khoa học, dân tộc, đại chúng làm cơ sở tinh thần cho nền dân chủ.
Quan điểm đó làm cho sự phát triển dân chủ một cách bền vững.
5
II Quan điểm Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ:
2. Thực hành dân chủ là gì?
- Thực hành dân chủ là thực hiện quyền dân chủ của nhân
dân.
- Dân chủ và thực hành dân chủ là một quá trình cách mạng,
không phải là một con đường thẳng tấp mà nhiều quanh co,
phức tạp.
- Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, phải làm sao cho nhân dân biết
hưởng và biết dùng quyền dân chủ. Chỉ có thực hành dân

chủ mới có thể biến các quan niệm dân chủ trong các lời
tuyên bố thành dân chủ thực tế. Chính V.I.Lênin cũng cho
rằng, mọi điều tốt đẹp về dân chủ thì các học giả tư sản đã
nói cả rồi, cái ưu việt của chế độ dân chủ chúng ta so với
dân chủ tư sản ở chỗ hiện thực hoá những điều tốt đẹp ấy.
- Thực hành dân chủ là động lực phát triển của cách mạng: “Chế độ
nước ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do”. Tự do là thế
nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp
phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một phần nghĩa
vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân
lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.
3. Việc thực hành dân chủ đòi hỏi:
- Có đủ những văn bản luật phù hợp với thực tiễn và được
lòng dân. Nhưng văn bản luật nào cũng đều là luật thực
định, nghĩa là do giai cấp cầm quyền định ra thông qua cơ
quan đại diện của dân soạn thảo và ban bố. Vậy thực hành
dân chủ, mấu chốt là ở vấn đề bầu cử và ứng cử. “Trong
cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước
thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền
đi bầu cử… hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền
đó”. Nhìn vào luật bầu cử và ứng cử, quy trình thực hiện,
cách thức tiến hành và thái độ của dân chúng, người ta sẽ
nhận ra chất lượng của điểm xuất phát, cái cơ bản nhất của
chế độ dân chủ ở mỗi nước.
6
- Tổ chức bộ máy nhà nước thực thi luật pháp là công cụ đảm
bảo thực hành dân chủ. Hồ Chí Minh đã khẳng định bộ máy
nhà nước phải gọn nhẹ, trong sạch, đủ năng lực và bản lĩnh
để chấp hành pháp luật. Con người trong bộ máy nhà nước
phải được lựa chọn theo những tiêu chí cụ thể và công khai,

phải có uy tín trong dân chúng, có năng lực và liêm, chính.
Những người được Quốc hội cử ra thành lập Chính phủ mới,
theo Hồ Chí Minh, phải tuyên thệ về tư cách của bản thân và
tư cách từng thành viên Chính phủ. Tại phiên họp ngày 31-
10-1946, kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá I, sau khi được
Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới,
Hồ Chí Minh đã tuyên bố như sau: “Chính phủ sau đây phải
là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài
không đảng phái… Chính phủ sau đây phải là một Chính
phủ liêm khiết Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ
biết làm việc”.
- Phải có chính sách dùng người đúng, tạo cơ hội như nhau
cho bất cứ ai, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, sang hèn,
giàu nghèo hễ là công dân Việt Nam đều có thể thi tuyển
vào cơ quan nhà nước, được giao những nhiệm vụ tương
xứng với tài năng và đức độ của họ. Người được tuyển lựa
làm cán bộ, công chức phải cam kết trung thành với nhà
nước và dân tộc Việt Nam, phải hoàn thành công vụ, không
tham nhũng, lãng phí của công, không xách nhiễu dân; được
thăng tiến, đãi ngộ về vật chất xứng đáng nhưng cũng sẽ bị
trừng phạt, thậm chí truy tố trước toà án nếu có lỗi. Một xã
hội thật sự dân chủ và pháp quyền khi cơ quan nhà nước tận
tụy phục vụ dân, làm việc cho dân và làm tốt. Nhà nước ấy
phải có đội ngũ công chức, viên chức là công bộc của dân,
vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, tự hào với nghề
nghiệp và biết xấu hổ khi không làm tròn chức nghiệp bị dư
luận phê phán. Cán bộ, công chức, viên chức, phải thường
xuyên được giáo dục tư tưởng, tự phê bình và phê bình, phải
chịu sự giám sát của dân, đồng thời phải bị xử phạt nghiêm
minh theo luật. Tuyệt đối không có bất kỳ ai dù ở cương vị

7
nào, người trong Đảng hay ngoài Đảng được sống ngoài
vòng pháp luật theo kiểu “xử nội bộ”, thiếu công minh, thiên
vị, có tội “nhưng không bị trừng phạt xứng đáng”.
- Có Hiến pháp và pháp luật đúng và đủ, có cơ quan công
quyền trong sạch, vững mạnh, có đội ngũ công chức, viên
chức mẫn cán, đồng thời phải có hệ thống các cơ quan bảo
vệ pháp luật, trong đó có cơ quan tư pháp phải thực sự “Dĩ
công vi thượng”, không bị áp lực từ bất cứ ai, cơ quan nào.
“Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp” (Điều 69,
Hiến pháp 1946). Hồ Chủ tịch đã từng dạy tư pháp phải
“Phụng công thủ pháp” là chìa khoá để bảo vệ những
nguyên tắc dân chủ của chế độ ta. Do đó tư pháp phải công
minh, công tâm, khoan dung và đại lượng, không được “lạm
dụng hình phạt”.
- Giáo dục pháp luật và nâng cao văn hoá dân chủ cho tất cả
mọi người. Nâng cao dân trí và quan trí để “nước ta là nước
dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói” trở thành
hiện thực và tất cả các cơ quan nhà nước phải tôn trọng các
quyền dân chủ ấy của công dân. Dân có hiểu biết về pháp
luật, biết hành xử theo pháp luật thì đó là cơ sở để nhà nước
thực thi đúng pháp luật. Hồ Chí Minh đã từng nói “quan
tham vì dân dại”. Thực hành dân chủ sẽ chống lại có hiệu
quả chủ nghĩa cá nhân, “tệ quan tham lại nhũng” và các tệ
nạn khác
4. Phương thức thực hành dân chủ:
- Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm dân chủ, trên nền tảng của
khối đại đoàn kết dân tộc, nồng cốt là liên minh công-nông-trí.
- Xây dựng các tổ chúc Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị-

xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội.
- Thực hành dân chủ thông qua việc đề ra và thực hiện đường lối, chủ
trương, pháp luật của Đảng:
8
o Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và
thống nhất của Đảng”. Bác còn căn dặn phải thực hành rộng rãi
dân chủ trong Đảng để thúc đẩy dân chủ trong xã hội phát triển, để
thực hiện cho được quyền làm chủ của người dân. Ngày nay, trong
sự nghiệp đổi mới, Đảng ta càng khẳng định, thực hiện dân chủ là
một yêu cầu nội tại trong sự phát triển của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Thực hành dân chủ trong
Đảng cũng là một nguyện vọng chính đáng của đông đảo cán bộ,
đảng viên, là sự phản ánh xu thế phát triển của thời đại. Nội bộ
Đảng không dân chủ thì mọi sáng kiến và trí tuệ trong Đảng không
được phát huy, tổ chức đảng không có sức mạnh. Hiện nay, mở
rộng dân chủ trong Đảng còn là một tiền đề cơ bản để đổi mới
Đảng và thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa toàn xã hội.
o Từ Đại hội lần thứ XI (năm 2011) đến nay, Đảng đã ban hành
nhiều nghị quyết, chủ trương và qui định, nhất là Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI), nhằm “Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt
Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy ở cơ sở đến sinh hoạt
Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời
giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối
làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ”. Đó là:
Qui định rõ những quyền dân chủ cơ bản của đảng viên (điều 3
Điều lệ Đảng ); Triển khai đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình
sâu rộng, nghiêm túc trong Đảng gắn với Cuộc vận động Học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Hướng dẫn thực
hiện quy chế chất vấn trong Đảng; Đổi mới cách lấy phiếu tín
nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ; Thực hiện nghiêm việc kê
khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước; Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố,
xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; Qui định định kỳ nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng
thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội… Có
thể thấy, các chủ trương, nghị quyết và các qui định nêu trên, đặc
biệt là Nghị quyết TW 4, đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tỏ rõ
sức sống, hiệu ứng xã hội rộng lớn của nó. Và nhân dân đã tham
gia đóng góp nhiệt tình, tâm huyết, sáng kiến vào việc xây dựng
Đảng, giám sát và phản biện cho Đảng và Nhà nước của mình. Có
cơ sở để khẳng định, những kết quả tiến bộ trong thực hành dân
chủ trong Đảng đã tiếp tục thúc đẩy trên một tầm cao mới sáng
9
kiến và trí tuệ trong Đảng để đổi mới Đảng và dân chủ hóa toàn xã
hội.
o Để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng như lời căn dặn của
Bác, nhất là trong bối cảnh chuẩn bị tiến hành đại hội Đảng các
cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, với nhiều kỳ vọng
đổi mới, theo chúng tôi cần tiếp tục thực hiện một số nội dung
chính sau đây:
+ Một là, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, các quy định trong sinh hoạt
Đảng. Người chủ trì phải phát huy dân chủ cao nhất, điều hành hội nghị
cởi mở, động viên tự phê bình và phê bình, bản thân gương mẫu tự phê
bình một cách trung thực và thẳng thắn, tôn trọng những ý kiến phê bình,
chất vấn mang tính xây dựng, đúng đắn của cán bộ, đảng viên; kịp thời xử
lý nghiêm minh những cá nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Cần
chấn chỉnh tình trạng sinh hoạt Đảng ở một số nơi khá lỏng lẻo, yêu cầu

mọi đảng viên, nhất là đảng viên có chức vụ, quyền hạn trong chính
quyền, hoặc các doanh nghiệp làm kinh tế phải tham gia sinh hoạt chi bộ
đều đặn.
+ Hai là, phải thông tin cập nhật đầy đủ và minh bạch những vấn đề liên
quan đến những hoạt động của tổ chức đảng và chính quyền, nhất là
những vấn đề liên quan đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của người
dân, những vấn đề “nổi cộm” mà cán bộ, đảng viên và nhân dân đang
quan tâm, bức xúc, nghiêm cấm việc cung cấp thông tin không đầy đủ,
thông tin sai lệch… Cũng cần công khai, minh bạch, kể cả phát thanh,
truyền hình trực tiếp cho nhân dân biết tổ chức Đảng hoạt động như thế
nào, tổ chức Đảng bàn những vấn đề gì, trừ những vấn đề đã qui định rõ là
bí mật quốc gia, bí mật Đảng.
+ Ba là, phải thực hiện nghiêm quy chế chất vấn trong Đảng và công khai
chất vấn đó cho dân biết. Đa số các đồng chí có trách nhiệm trong Đảng
cũng đồng thời là người giữ cương vị, trọng trách trong bộ máy nhà nước.
Do đó, trong các tổ chức Đảng và cấp ủy, các đồng chí có trách nhiệm
cũng phải chịu chất vấn của cấp ủy cũng như của đảng viên, gắn với việc
lấy phiếu tín nhiệm theo qui định.
+ Bốn là, phải thực hiện nghiêm chỉnh việc kê khai và công khai tài sản của
các đối tượng theo qui định, nhất là của các đồng chí giữ cương vị trọng
trách trong bộ máy Đảng và chính quyền để ngăn ngừa tham nhũng. Đặc
biệt là phải minh bạch trong vấn đề kê khai, phải kiểm tra và công khai
tính trung thực của tất cả các bản kê khai tài sản hàng năm, kịp thời xử lí
nghiêm các trường hợp kê khai gian dối, không trung thực, kể cả khi đã về
hưu.
1
0
+ Năm là, cần thay đổi cách thức quy hoạch nhân sự để bầu, bỏ phiếu tại đại
hội Đảng các cấp thông qua rà soát lại một số tiêu chí, quy định để không
quá xem nặng về bằng cấp và cơ cấu mà cần quy hoạch và đề bạt người

xứng đáng gắn với tiếp tục bồi dưỡng, bổ sung các tiêu chí khác với nhiều
hình thức phù hợp. Đặc biệt, ở đại hội Đảng các cấp sắp tới nên bầu trực
tiếp bí thư tại đại hội và có sự tranh cử.
+ Sáu là, tiếp tục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
đảng viên đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là 8 nhiệm vụ
xây dựng Đảng trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay”; tăng cường các biện pháp kiểm tra,
giám sát không để tình trạng sinh hoạt, học tập kém chất lượng, hình thức,
phân tán tư tưởng, thiếu tập trung… Khắc phục những biểu hiện kém tinh
thần trách nhiệm trong công tác xây dựng Đảng như: Ngại va chạm, không
phát huy đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ trong đấu tranh tự phê bình và phê
bình, bàng quan vô cảm trước đúng - sai, tốt - xấu, không trăn trở suy nghĩ
để có ý kiến tham gia xây dựng Đảng, mà trực tiếp là xây dựng Đảng nơi
đảng viên công tác.
+ Quá trình thực hiện dân chủ trong Đảng phải quán triệt sâu sắc tư tưởng
chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống”, “chống và xây”, cảnh giác
không để các thế lực thù địch và phần tử xấu lợi dụng chống phá. Trước
mắt, cần tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề tiêu cực bức xúc,
nổi cộm mà đảng viên và quần chúng quan tâm trong từng cơ quan, đơn
vị, địa phương nhằm củng cố lòng tin của đảng viên và nhân dân, tiếp tục
thực hiện tốt hơn quyền dân chủ, thường xuyên tự phê bình, phê bình, xây
dựng từng tổ chức đảng và toàn Đảng thực sự trong sạch vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, luôn có đủ năng lực trí tuệ lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của dân tộc ta phát triển bền vững vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
III Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
 Dân chủ trực tiếp - Direct Democracy là sự tham gia trực tiếp của người dân vào chính
sách và quản lý, nhất là ở cấp địa phương, thông qua các cuộc họp và các hình thức khác
để nêu ý kiến với các cấp có thẩm quyền của Nhà nước. Mới đầu, sự tham gia của người

dân tập trung vào việc cải thiện bầu cử. Hiện nay, hình thức dân chủ trực tiếp được chú
trọng nhiều hơn. Bởi ngay cả khi dân chủ đại diện phát triển, nếu chỉ dựa vào các điều
kiện dân chủ trong các cuộc bầu cử thì vẫn chưa đủ để bảo đảm sự tham gia của người
dân.
 Để thực hành dân chủ trực tiếp, người dân cần tích cực hơn trong việc nắm bắt thông tin
(dân biết), tham gia thảo luận (dân bàn), triển khai (dân làm), kiểm tra, giám sát (dân
kiểm tra) các chủ trương, biện pháp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
1
1
Nghị định (năm 1998) và sau đó Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, thị trấn,
phường (năm 2007) - sau đây viết tắt là Pháp lệnh - đã phân biệt những mức độ tham gia
khác nhau của người dân địa phương vào hoạt động của chính quyền và các quyết định
quản lý. Cụ thể:
 “Dân biết”: là những loại thông tin bắt buộc phải phổ biến cho người dân, nhất là về
đất đai và ngân sách nhà nước.
 “Dân bàn” mà không cần có sự tham gia của các cấp chính quyền cao hơn: về mức
đóng góp tài chính ở địa phương và việc xây dựng, thực hiện hương ước.
 “Dân bàn” nhưng chính quyền địa phương quyết định: về các chính sách của Chính
phủ, để các cấp chính quyền cao hơn sẽ đưa ra quyết định. Những lĩnh vực này bao
gồm việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, thực hiện các chương
trình mục tiêu quốc gia, đền bù quyền sử dụng đất,
 “Dân kiểm tra” là giám sát các công việc của HĐND, gửi đơn, thư khiếu nại, giám sát
chi tiêu ngân sách và xây dựng kết cấu hạ tầng địa phương.
 Ở nước ta, dân chủ trực tiếp thường đi đôi với với quá trình phân cấp trong quản lý nhà
nước. Dân chủ trực tiếp và phân cấp ở mức độ tốt nhất tạo cho nhiều người cơ hội tốt hơn
để tham gia, bảo vệ quyền lợi của mình, tăng cường tính hiệu quả và minh bạch trong
việc cung cấp các dịch vụ công. Hiện nay tại cơ sở, việc thực hiện dân chủ trực tiếp được
tập trung vào việc tham gia giám sát và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công
dân.
 Tất nhiên không nhất thiết là cứ phân cấp thì sẽ tự động tạo ra được sự tham gia tích cực

của người dân. Thực tế cho thấy khó có thể tăng cường được sự tham gia của người dân
mà không thực hiện cải cách các thể chế đại diện dân chủ, xây dựng lòng tin vào những
thể chế đó. Người dân cần có cả cơ hội để tham gia một cách thực chất, cũng như cần có
các thể chế có trách nhiệm giải trình để thực sự đại diện cho quyền lợi của họ. Nói cách
khác, dân chủ trực tiếp (và cả dân chủ đại diện) thường gắn kết chặt chẽ với quá trình cải
cách hành chính nhà nước, để chí ít cũng hạn chế được tính quan liêu của bộ máy hành
chính và khiến các cơ quan công quyền gần dân hơn.
 Thực tế thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở tại Việt Nam cũng tương đồng với nhiều
nước trên thế giới. Nhìn chung, cách làm của nhiều nước là khuyến khích sự tham gia của
người dân, trước tiên ở cấp hành chính thấp nhất, nơi mà người dân gần gũi nhất với các
thể chế có tác động đến cuộc sống của họ. Tại Việt Nam, sự tham gia của người dân vào
công tác quản lý ở địa phương diễn ra từ mức độ tham vấn hạn chế (dân bàn) cho tới sự
tham gia và kiểm soát tích cực (làm và kiểm tra).
 Dân chủ trực tiếp thường được khởi nguồn từ dưới lên, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của
người dân. Các cách tiếp cận từ trên xuống cũng được Đảng và Nhà nước coi trọng với
tính cách là một phương tiện để tăng cường mức độ đáp ứng của Chính phủ, và mở ra
những không gian mới cho sự tham gia của người dân, đặc biệt trong việc Chính phủ
1
2
cung cấp các dịch vụ công và sự tham gia của người dân trên các phương tiện truyền
thông.
 Một số vấn đề nảy sinh trong việc thực hành dân chủ trực tiếp :
 Thứ nhất, vấn đề tính hình thức
• Về cơ bản, tính hình thức có nghĩa là một việc chỉ được thực hiện bên ngoài hay
trên bề mặt, nhưng không có sự thay đổi thực chất. Chẳng hạn, việc tổ chức các
cuộc họp tại các thôn, tổ dân phố khi Nghị định về dân chủ cơ sở mới được ban
hành năm 1998, nhưng họp xong thì được xem như là xong. Hình thức còn thể
hiện ở chỗ cán bộ “nói suông” về sự tham gia và cho phép người dân phát biểu
nhưng không có hành động nối tiếp trên cơ sở những gì mà người dân đã kiến
nghị. Cũng có ít động cơ khuyến khích sự tham gia của người dân. Tính hình thức

còn thể hiện ở chỗ, số lượng cuộc họp được tổ chức trở thành chỉ số thể hiện
thành công, mà không có chỉ báo, đánh giá về chất lượng của thảo luận hay về
thông tin được trao đổi trong các cuộc họp.
• Một phần nguyên nhân của tính hình thức là do thiếu nguồn lực. Chẳng hạn,
không có đủ tiền để in tất cả những thông tin mà người dân cần hoặc để tổ chức
thêm các cuộc họp. Cán bộ cơ sở muốn được tập huấn về các chính sách mới,
nhất là các kỹ năng cần thiết, nhưng lại không có phương tiện để thực hiện và
cách tập huấn hầu như chỉ tập trung vào những vấn đề có tính lý luận chung
chung.
 Thứ hai, vấn đề người tham gia
• Hiện nay có một số ý kiến cho rằng người dân thụ động và không mong muốn
tham gia tích cực vào công tác quản lý ở địa phương; cho rằng do tác động của
kinh tế thị trường khiến nhiều người chỉ lo bươn trải kiếm tiền, thoái thác, không
tham gia vào các công việc chung. Thực tế đó cho thấy, người dân nhiệt tình, nhất
là khi họ có cơ hội được tận mắt chứng kiến kết quả sự tham gia của họ, ví dụ
trong một chương trình xóa đói giảm nghèo hay xây dựng kết cấu hạ tầng.
• Lý do chính giải thích sự tồn tại dai dẳng của bệnh hình thức trong tham gia thực
hiện dân chủ là cơ hội để công dân phản ánh thông qua Pháp lệnh còn hạn chế.
Các quy định về việc thu thập “ý kiến nhân dân” chủ yếu vẫn dựa vào việc trưởng
thôn (hay tổ trưởng tổ dân phố) và các tổ chức đoàn thể chủ động hỏi ý kiến
người dân.
• Lý do nữa là do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn chưa có khả năng thực hiện toàn
diện những nhiệm vụ mà Pháp lệnh giao cho họ. Mặt trận Tổ quốc có nhiệm vụ tổ
chức Ban Thanh tra nhân dân, lo việc bầu cử HĐND và trưởng thôn (hay tổ
trưởng tổ dân phố), tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm đối với các cán bộ được bầu và
truyền tải ý kiến của người dân lên các cấp cao hơn.
1
3
• Các tổ chức đoàn thể có vai trò chủ yếu của mình là “huy động nhân dân” và
“chất vấn, giám sát cán bộ địa phương”. Nhưng hiện chưa có cơ chế rõ ràng để

thực hiện quyền kiểm tra của họ. Ví dụ, vấn đề sẽ nảy sinh nếu ý kiến của người
dân và Mặt trận Tổ quốc không được chính quyền địa phương chấp nhận; và cho
đến nay, vẫn chưa có biện pháp hiệu quả để xử lý những tình huống này.
 Một số giải pháp:
 Một là, tăng cường khuôn khổ pháp lý cho Pháp lệnh và quy chế thực hiện dân chủ ở
cơ sở.
• Nhận thức của không ít chính quyền địa phương, lãnh đạo cơ quan và doanh
nghiệp, kể cả người dân về Pháp lệnh còn hạn chế, coi Pháp lệnh này chỉ là một
chính sách như bao chính sách khác. Mỗi năm có hàng trăm chính sách thuộc
nhiều lĩnh vực được triển khai từ Trung ương xuống cơ sở, cho nên chính quyền
cơ sở khó có thể phân biệt xem cái gì là quan trọng hàng đầu.
• Thực ra, cần xác định rõ vị trí của Pháp lệnh hay Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở
trong mối quan hệ với những chính sách hay phong trào xã hội khác. Cần phải
xem những văn bản này là nền tảng và nguyên tắc cơ bản để người dân có thể
quyết định làm những điều cần thiết cho cuộc sống của họ, trong đó có xây dựng
làng văn hoá, xây dựng nông thôn mới,
 Hai là, tạo động cơ khuyến khích cho việc tham gia thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ
sở.
• Hiện nay, động cơ khuyến khích dân chủ trực tiếp còn hạn chế, đối với cả người
dân và cán bộ. Không có động cơ khuyến khích thì chủ nghĩa hình thức trong thực
hành dân chủ chắc sẽ vẫn tiếp diễn. Ví dụ, cho đến nay vẫn chưa có chế tài nào
đối với những cơ sở không thực hiện các quy định của Nghị định và Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở cơ sở và cũng chưa có hình thức khen thưởng với những cơ
sở làm tốt. Trong khi đó, lại có giấy chứng nhận cho việc xây dựng làng văn hóa,
gia đình văn hóa. Vì thế, nên có hình thức bằng khen cho việc thực hiện tốt Pháp
lệnh với một số chỉ số về sự tham gia quản lý của các hộ gia đình ở địa phương.
Sự tham gia của hộ gia đình vào quá trình lập quy hoạch và thực hiện xây dựng
nông thôn mới cần được đưa vào tiêu chí bổ sung khi xét danh hiệu “gia đình văn
hoá”. Theo quy định hiện hành, một làng sẽ đạt danh hiệu “làng văn hoá” nếu có
trên 75% hộ dân được công nhận là gia đình văn hoá. Do đó, nên điều chỉnh tiêu

chí này bằng cách thêm tiêu chí về sự tham gia vào các công việc cộng đồng.
• Nên áp dụng các biện pháp khuyến khích không chỉ với các cán bộ dân cử mà cả
đối với các tổ chức đoàn thể để họ tham gia nhiều hơn vào công tác quản lý ở địa
phương. Có thể gắn mức kinh phí dành cho các tổ chức đoàn thể với mức độ
thành công của họ trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
 Ba là, tạo điều kiện và tạo quyền cho người dân tham gia.
1
4
• Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đại ý rằng, thông báo cho người dân về quyền của
họ thay vì chỉ thị họ về nghĩa vụ của họ là một sự thay đổi lớn ở Việt Nam. Tạo
điều kiện để công dân có quyền hợp pháp của họ theo Pháp lệnh và các văn bản
quy phạm pháp luật khác sẽ đòi hỏi nhiều cố gắng của Nhà nước, các tổ chức
đoàn thể.
• Pháp lệnh có thể thúc đẩy việc mở rộng không gian hoạt động cho các tổ chức xã
hội và tự quản của các thôn/làng, nhất là trong việc tham gia hoặc theo dõi, giám
sát. Người dân, nhất là ở nông thôn, có thể tham gia các nhóm tiết kiệm và tín
dụng, các hình thức tổ hợp tác giống cây trồng, vật nuôi, tiêu thụ sản phẩm, các
hội theo sở thích, Thực tế cho thấy, ở những nơi có sự hợp tác hiệu quả giữa các
tổ chức dựa vào cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội với các thể chế chính
quyền ở cấp xã, huyện và tỉnh thì người dân có thể phát huy được quyền làm chủ
của mình.
 Bốn là, mở rộng các vị trí bầu cử .
• Một vấn đề đang được thảo luận ở Việt Nam là có nên để người dân trực tiếp bầu
chọn chủ tịch UBND xã không. Quốc hội khóa XII, phiên họp thứ 4 (ngày 15-11-
2008) đã không thông qua Đề án bầu trực tiếp chủ tịch ủy ban nhân dân xã. Trong
khi đó ở Trung Quốc, việc bầu cử trực tiếp người đứng đầu thị tứ đã được thí
điểm ở một số địa phương. Người đứng đầu thị tứ tương ứng với chức chủ tịch
UBND xã ở Việt Nam, mặc dù dân số của thị tứ Trung Quốc thường lớn hơn dân
số trong các xã của Việt Nam(2). Một số nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy, các
cán bộ do người dân lựa chọn trực tiếp được tôn trọng hơn, thực hiện chức trách,

nhiệm vụ hiệu quả hơn. Trung Quốc còn thực hiện “hệ thống hai đợt bỏ phiếu”
nhằm cải cách quá trình bầu cử cán bộ đảng ở cơ sở, trước hết tại những vùng mà
nhiều cán bộ đảng bị cáo buộc liên quan tới hối lộ và tham nhũng(3). Theo “hệ
thống hai phiếu”, thay vì cấp Đảng uỷ cao hơn lựa chọn, tất cả mọi người dân
trong thị tứ đều có thể đề cử một người cho vị trí bí thư Đảng uỷ. Hai ứng cử viên
với số phiếu đề cử nhiều nhất sẽ tranh cử trong đợt bầu cử nội bộ của Đảng. Nhờ
đó, người dân thị tứ có được tiếng nói gián tiếp trong việc lựa chọn Bí thư Đảng
ủy. Ở những nơi khác, Bí thư Đảng ủy (chi bộ) trước hết phải được bầu vào Hội
đồng thôn (để khẳng định được lòng tin của quần chúng địa phương), trước khi
được cấp trên chỉ định làm Bí thư(4).
 Năm là, xây dựng một số thể thức bầu cử dân chủ.
• Vấn đề nổi cộm nhất ở Việt Nam hiện nay là tình trạng “bỏ phiếu đại diện”, nghĩa
là người đứng đầu hộ gia đình hoặc đại diện của một hộ bỏ phiếu cho tất cả mọi
thành viên có quyền bỏ phiếu trong gia đình. Mặc dù luật pháp Việt Nam không
chính thức cho phép “bỏ phiếu đại diện”, nhưng trên thực tế tình trạng này khá
phổ biến. Tình trạng này có thể tác động tiêu cực đến quyền công dân của phụ nữ
và thanh niên, nếu họ không có cơ hội thảo luận về lá phiếu của mình với người
bỏ phiếu thay cho gia đình.
1
5
• Những giải pháp khác nhằm tăng cường lòng tin và sự tham gia của người dân
gồm: thực hiện bỏ phiếu kín thay vì giơ tay biểu quyết trong các cuộc họp công
khai. Quy trình đề cử ứng viên cũng là một cơ hội tăng cường lòng tin của người
dân. Việc công khai quá trình đề cử sẽ khuyến khích được người dân tham gia
nhiều hơn vào bầu cử và sàng lọc những quan chức làm việc kém hiệu quả, không
trung thực trong danh sách đề cử.
• Một lĩnh vực khác có thể cần chú ý đổi mới là vấn đề tranh cử. Tranh cử hiện nay
được thực hiện còn rất hình thức: Mặt trận Tổ quốc mời một số cử tri đến gặp gỡ
ứng cử viên, ở đó, những vấn đề nhạy cảm ít khi được đề cập đến; chỉ một tỷ lệ
người dân nêu câu hỏi, trao đổi ý kiến và đưa ra kiến nghị với các ứng cử viên.

• Nếu không mở rộng các hoạt động tranh cử và sự tiếp xúc với các ứng viên, thì cử
tri sẽ khó phân biệt giữa các ứng viên. Tình trạng này làm giảm tinh thần trách
nhiệm của cán bộ được bầu, vì họ không cảm thấy có trách nhiệm giải trình đối
với cử tri.
 Sáu là, mở rộng các hình thức tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND tỉnh, thành phố
và đại biểu Quốc hội.
• Từ năm 2003, đã có sự chuyên nghiệp hoá trong hoạt động của từng đoàn đại biểu
Quốc hội thông qua việc lập ra Văn phòng đại biểu Quốc hội chuyên trách, có đầy
đủ nhân viên ở từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hiện nay, đang thực
hiện thí điểm những hình thức vận động cử tri ở một số tỉnh. Ví dụ, đoàn đại biểu
Quốc hội và HĐND in phiếu để vận động ý kiến cử tri trước mỗi kỳ họp Quốc
hội. Ý kiến cử tri được thu thập và báo cáo lại với cử tri trong các cuộc họp định
kỳ với cử tri ở tỉnh(5). Ngoài các cuộc họp với cử tri, mỗi HĐND tỉnh còn có hộp
thư khiếu nại.
• Các ủy viên HĐND tỉnh, thành phố có trách nhiệm nghiên cứu các đơn, thư khiếu
nại và giám sát quá trình giải quyết. Kết quả giải quyết khiếu nại phải được báo
cáo lại tại các cuộc họp HĐND tỉnh, thành phố. Tuy vậy, việc điều tra, kiểm
chứng đơn thư khiếu nại đạt hiệu quả chưa cao.
• Cần tăng số lượng và chất lượng đại biểu chuyên trách HĐND tỉnh, thành phố để
giám sát ở cơ sở, và cần đào tạo để đại biểu chuyên trách trở nên chuyên nghiệp
trong hoạt động. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò giám sát của tổ chức đảng,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện truyền thông. Có cơ chế giám sát
rõ ràng sẽ khắc phục được tình trạng lạm quyền.
• Cần khuyến khích việc tạo thêm các kênh tiếp xúc giữa cử tri với đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND tỉnh, thành phố thông qua các đường dây nóng hoặc các
biện pháp khác nhằm tăng cường sự tham gia và củng cố lòng tin của người dân.
 Bảy là, tăng cường năng lực đáp ứng của chính quyền các cấp và doanh nghiệp nhà
nước trong việc phát huy dân chủ trực tiếp.
1
6

• Hiện vẫn tồn tại quan niệm coi vấn đề cải thiện dân chủ trực tiếp chỉ là chức trách
của chính quyền cấp cơ sở (cấp xã), còn các cơ quan, doanh nghiệp hầu như
không liên quan trực tiếp. Trên thực tế, nhiều cơ quan và doanh nghiệp nhà nước
chưa quan tâm thích đáng đến các nghị định về dân chủ cơ sở (Nghị định về dân
chủ trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước). Đây là điều rất đáng tiếc, vì
nhiều lĩnh vực chính sách sẽ thu được lợi ích nếu các cơ quan nhà nước và doanh
nghiệp đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của các nghị định này để có thêm sự
tham gia của người dân thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghị định đó.
Do đó, cần thực hiện dân chủ trực tiếp một cách đồng bộ ở cấp xã, và ở cả cơ
quan, doanh nghiệp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb.CTQG, Hà Nội, tr.104.
- Li, L.J. Chính trị trong việc áp dụng bầu cử trực tiếp ở thị tứ Trung Quốc, Tạp chí hàng
quý Trung Quốc, số 171 năm 2002 tr.704-723.
- (3), (4) Li, L.J. Hệ thống hai phiếu ở tỉnh Shanxi: đưa bí thư Đảng uỷ làng ra trước lá
phiếu của cư dân, Tạp chí Trung Hoa, số 42 năm 1999, tr.103-118, trang 103-118.
- (5) Bùi Huy Thành: Mô hình tổ chức văn phòng đại biểu Quốc hội, tham luận trình bày
tại Hội thảo nâng cao hiệu quả Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội ở tỉnh, Huế, tháng 7-
2009.
IV Tài liệu tham khảo:
1. />quyen/2013/23168/Ve-thuc-hanh-dan-chu-truc-tiep-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx
2. / document_library/get_file
?uuid=d659cb77-f2b0-4f9e-a1ec-f4d951f2a4dc&groupId=10217
1
7

×