Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quan điểm HCM về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vận dụng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.6 KB, 17 trang )

Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất,nhà
lý luận- thực tiễn. Suốt cả cuộc đời, Người phấn đấu hy sinh vì độc lập của dân tộc,
vì tự do cho Tổ quốc,vì hạnh phúc cho nhân dân.Cuộc hành trình qua năm châu
bốn biển đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác- Lenin cùng với tếp thu truyền
thống dân tộc,tinh hoa văn hóa nhân loại đã hun đúc hình thành nên tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tư tưởng của Người đã đưa dân tộc ta thốt khỏi áp bức,bóc lột lầm
than để đến với độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.Tư tưởng của Người đã soi đường
cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu ,nước
mạnh,xã hội công bằng,dân chủ văn minh. Hồ chí Minh đã khẳng định phương
hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh của thời đại mới là chủ nghĩa xã
hội.Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ,Đảng ta đã định hướng
rõ tư tưởng của Người là kim chỉ nam cho mọi hành động.Từ đại hội 6 năm1986
Đảng ta đã xác định đường lối đổi mới và đạt được nhiều thành tựu,nhưng cũng
gặp không ít thách thức khó khăn trên cả bình diện quốc tế và trong nước tạo ra.
Thực tiễn đó địi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội để rút ra những bài học trong công cuộc cơng cuộc
đổi mới ,cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa,hội nhập quốc tế hiện nay
Trên cơ sở đó nhóm em đã chọn và nghiên cứu đề tài“Quan điểm Hồ Chí Minh
về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng quan điểm
đó trong cơng cuộc đổi mới hiện nay ”, chúng em mong đề tài sẽ giúp người đọc
biết rõ con đường mà chúng ta đã và đang đi, nhận thức nó sâu sắc hơn, từ đó ý
thức nghĩa vụ ,trách nhiệm mà chúng ta cần làm trong tương lai

I.

Cơ sở lý thuyết
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường quá độ len chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
1.1 Loại hình, đặc điểm và mâu thuẫn của thời kì quá độ
1.


Khái niệm chung
Quá độ là thời kỳ chuyển tiếp từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, chế độ
này sang chế dộ khác, giải quyết tàn dư xã hội trước và tạo mầm
mống của xã hội tiên tiến hơn.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội.


Nó diễn ra từ khi giai cấp vơ sản giành được chính quyền bắt tay vào
xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công những cơ
sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ
sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
2.
Các loại hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, có
2 con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao.
- Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những
nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp hoặc như V.I.Lênin cho
rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ phát
triển chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong
điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được
một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
=> Việt Nam thuộc loại hình quá độ gián tiếp – quá độ từ một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
3.
Đặc điểm và mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu
thuẫn.
Mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của
đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp
kém của nước ta.
1.2 Những nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại. Thực chất của


quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp
gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách
mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế có những biến đổi.
Điều này địi hỏi phải áp dụng tồn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội
chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử
của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm hai nội dung lớn:
Một là, phải xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng
các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hố, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính chất tuần tự, dần dần của thời kì q độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp khó khăn của nó, được Người lí giải trên các điểm
sau:

Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội,
cả lực lượng sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.Nó địi hỏi đồng
thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.Như trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã
coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn
Đảng, toàn dân Việt Nam.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.Đây là công việc hết sức mới
mẻ đối với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể cú vấp váp và thiếu
sút.Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ
đó lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực
phản động trong và ngồi nước tìm cách chống phá.


Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kì q độ, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ,
đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nơn nóng, chủ
quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước đi và hình
thức phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian,
quá độ, tuần tự từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi
hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận động
xã hội, lại phải có nghệ thuật khơn khéo cho thật sát với tình hình thực tế.
Tuy vậy, Hồ Chí Minh chỉ rõ những nhân tố cơ bản thực hiện thắng lợi chủ nghĩa
xã hội: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trị quản lí
của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của tổ chức quần chúng; xây dựng
đội ngũ tán bộ đủ đức đủ tài
1.3 Quan điểm của HCM về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ
1.3.1 Trong lĩnh vực chính trị:
+ Nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trị lãnh đạo của
Đảng. Đảng phải ln ln tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo

và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ
mới. Bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm
quyền. Mối quan tâm lớn nhất của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng
không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thối hố, biến chất, làm mất lịng tin của
dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với
nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức.
+ Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nịng cốt là liên minh cơng nhân,
nơng dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh
tồn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.
1.3.2 Trong lĩnh vực kinh tế:
+ Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế
quản lí kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
+ Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp, lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối


tốt nhất giữa các ngành sản xuất và xã hội, thoả mãn nhu cầu thiết yếu của nhân
dân.
+ Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa
kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển
kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời
sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
+ Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Người xác định rõ vị trí
và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế.Nước ta cần ưu tiên phát triển
kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân
lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ để nó phát

triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, tự
nguyện, dân chủ, từ thấp đến cao, cùng có lợi, chống chủ quan, gị ép, hình thức.
Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn,
khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác.
+ Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân
phối và quản lí kinh tế. Quản lí kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu
quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ
rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối
theo lao động, Hồ Chí Minh bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất:
“Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người
cơng nhân ln ln tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lợi
riêng… làm khoán tốt, thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”.
1.3.3 Trong lĩnh vực văn hố – xã hội:
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới. Đặc biệt, Hồ Chí
Minh đề cao vai trị của văn hố, giáo dục và khoa học kĩ thuật trong xã hội xã hội
chủ nghĩa. Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học
thức, cần phải học cả văn hố, chính trị, kĩ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa
học chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vơ tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng
việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của
văn hóa trong đời sống xã hội.


1.4 Phương châm bước đi và biện pháp xây dựng cnxh ở nước ta
a) Phương châm
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, khó khăn.
Vì vậy, phải làm dần dần, từng bước vững chắc trên cơ sở xác định một cách đúng
đắn bước đi; phải tổng kết kinh nghiệm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, đồng thời học tập kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới; phải có

kế hoạch và có quyết tâm của tồn Đảng, toàn quân, toàn dân.
Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra
hai ngun tắc có tính chất phương pháp luận:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế,
cần quán triệt các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chế độ
mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em. Học tập những
kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng không được sao chép, máy móc, giáo
điều. Hồ Chí Minh cho rằng, Việt Nam có thể làm khác Liên Xơ, Trung Quốc và
các nước khác vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác.
Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát
từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên đây, Hồ Chí Minh lưu ý vừa chống việc
xa rời các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, quá tuyệt đối hóa cái riêng,
những đặc điểm riêng của dân tộc, vừa chống máy móc, giáo điều khi áp dụng các
ngun lí của chủ nghĩa Mác – Lênin mà khơng tính đến những điều kiện lịch sử
cụ thể của đất nước và của thời đại.
Từ đó, Người chỉ rõ phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội: dần dần, thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, khơng chủ quan nóng vội
do khách quan quy định. Mặt khác, phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội; nhưng không phải là làm bừa, làm ẩu mà phải phù hợp với điều
kiện thực tế. Trong bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý vai
trị của cơng nghiệp hóa chủ nghĩa xã hội, coi đó là “con đường phải đi của chúng
ta”.


b) Biện pháp và bước đi.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội có nhiều biện pháp khác nhau.
Người nhấn mạnh quan trọng nhất là phát huy tài dân, sức dân, của dân.
– Về bước đi: Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận nêu trên, Hồ Chí Minh
đã xác định những phương châm thực hiện bước đi trong quá trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội: dần dần, thận trong từng bước một, tư thấp lên cao, không được chủ
quan, nóng vội; việc xác định các bước đi phải luôn căn cứ vào điều kiện khách
quan quy định. Hồ Chí Minh nhận thức về phương châm “Tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” không có nghĩa là làm bừa, làm ẩu, “đốt cháy
giai đoạn”, chủ quan, duy ý chí, mà phải làm vững chắc từng bước, phù hợp với
điều kiện thực tế. Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt
lưu ý đến vai trị của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là “con đường phải
đi của chúng ta”, là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội;
nhưng cơng nghiệp hố khơng có nghĩa là xây dựng những nhà máy, xí nghiệp cho
thật to, quy mơ cho thật lớn bất chấp những điều kiện cụ thể cho phép trong từng
giai đoạn nhất định
Theo Hồ Chí Minh, do đặc điểm của Việt Nam, Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn cịn nhiều và lâu dài”; “phải
làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, về bước đi – phải qua nhiều bước.
Về bước đi trong cải tạo nông nghiệp, trong phát triển công nghiệp… “Ta cho nông
nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp nhẹ, sau mới đến
công nghiệp nặng”, “làm trái với Liên Xơ cũng là mácxít”.
- Về phương pháp, cách thức, cách làm
Cùng với các bước đi, Người đã gợi ý nhiều đến phương thức biện pháp tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể
sau đây:
+ Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng,
lấy xây dựng làm chính.


+ Kết hợp xây dựng với bảo vệ, thực hiện tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược ở hai miền khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực hiện
thắng lợi kế hoạch.
+ Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng

chủ nghĩa xã hội là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cách làm: Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân; vì vậy, cách làm là “đem
tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”… Đó là “chủ nghĩa xã hội nhân dân”,
không phải là “chủ nghĩa xã hội nhà nước”.Vì lực lượng bao nhiêu là ở gần hết,
dân chúng là “nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi.Đây là
chỗ sâu sắc nhất của tư tưởng nhân dân, tư tưởng lấy dân làm gốc của Hồ Chí
Minh.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực
hiện: “chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi”…
Những tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bước đi và phương thức tiến hành chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang được Đảng ta
kế thừa, vận dụng và phát triển trong công cuộc đổi mới hiện nay.
II.

VẬN DỤNG SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON
ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI
2.1 Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin, hiểu sâu sắc thực tế Việt Nam và các cuộc
cách mạng tư sản trên thế giới, hiểu phong trào cộng sản quốc tế, Hồ Chí
Minh đã nhận thức rõ chân lý: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động bị áp
bức trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”và Người khẳng định: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng


vơ sản”. Đó là bí quyết thành cơng của Hồ Chí Minh, là chiếc chìa khóa mở
ra con đường duy nhất để đưa cách mạng Việt Nam đến thành công.
Từ năm 1954, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được đặt ra một cách

cụ thể. Suốt trong quá trình đấu tranh hy sinh gian khổ để thống nhất nước
nhà, cả dân tộc Việt Nam vẫn quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc để phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lý tưởng sống của các thế hệ người
Việt Nam khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó khơng chỉ là mục tiêu mà
cịn là động lực to lớn của cách mạng Việt Nam, động viên toàn thể nhân dân
Việt Nam đem tất cả sức mạnh vật chất và tinh thần, sức lực và của cải để
giành, giữ nền độc lập dân tộc. Đó là một nhân tố cơ bản để tạo nên những
chiến thắng từ Cách mạng Tháng Tám đến nay.
Nhân dân Việt Nam đã sống hàng trăm năm dưới sự thống trị của chủ nghĩa
tư bản quốc tế. Thực tế lịch sử đã làm cho họ hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa
tư bản và chính vì vậy họ tập hợp dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản tạo nên
sức mạnh về bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Sức mạnh ấy đã đưa cách mạng Việt Nam đến thành công, đã đưa các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm đến những thắng lợi vĩ đại và đã tạo ra những
thành tựu hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới..
Đối với Việt Nam, chỉ có độc lập dân tộc mới có thể có được chủ nghĩa xã
hội đồng thời cũng chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho nền độc lập của
dân tộc thực sự bền vững trong thời đại ngày nay.
Kiên định, giữ vững nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có quan điểm, thái độ đúng đắn, khoa học
trong hoạch định và thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; chủ động hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội; củng
cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là vấn đề hệ trọng, mang ý nghĩa sống còn đối với quốc gia, dân tộc,
đối với chế độ ta; là quyền lợi, nghĩa vụ thiêng liêng và trách nhiệm cao cả
của mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và mỗi người dân Việt Nam yêu Tổ
quốc.
Cũng như trước đây, trong bối cảnh hiện thời, đẩy mạnh đấu tranh tư tưởng,
lý luận, phải gắn liền với việc tích cực quán triệt, phổ biến, tuyên truyền,

giáo dục lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Cương lĩnh năm 1991, (bổ sung, phát triển năm 2011); đường lối, Nghị


quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và các chính sách, pháp luật của Nhà nước trong
cán bộ, chiến sĩ quân đội và trong nhân dân. Thông qua những việc làm thiết
thực, cụ thể này, các cấp, các ngành, từng cán bộ, đảng viên phải làm cho
cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân, những người thân trong gia đình
hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Đồng thời, giúp
họ nhận thức đúng bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn từ
những năm đầu thế kỷ XX; đặc biệt là đường lối đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc thể hiện trong hệ thống văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước ta từ năm 1986 đến nay.
Để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó, xã hội ta cần xác lập cho được ý thức
đạo đức cộng sản chủ nghĩa: “mình vì mọi người và mọi người vì mình”.
Đúng như Bác Hồ căn dặn: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
phải có con người xã hội chủ nghĩa
Bác Hồ kính yêu của chúng ta là người thấu hiểu hơn ai hết những khó khăn,
trở ngại trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đối với một nước nông
nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, dân trí thấp, hậu quả chiến trạnh cịn để lại nặng
nề... Chính vì vậy mà Người thường xun nhấn mạnh sự cần thiết phải có
thời gian để vừa cải tạo, vừa xây dựng, vừa đổi mới, vừa phát triển, vừa làm,
vừa học, rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận. Người khẳng
định rằng, chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng khoa học, phải có cả biện
pháp chứ khơng chỉ là đường lối, phải có mục đích và cách làm, tuyệt đối
khơng được nóng vội, áp đặt chủ quan duy ý chí, hay giáo điều, rập khn,
áp dụng máy móc kinh nghiệm của nước khác.

Trước sự vận động, biến đổi phức tạp của thời cuộc; thời cơ, vận hội đan xen
với các nguy cơ, thách thức, hàng loạt vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội,
quân sự và quốc phòng, v.v., đang đặt ra bức xúc, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến
sĩ quân đội ta, cùng với tồn Đảng ta phân tích, làm sáng tỏ về mặt lý luận,
thực tiễn để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng trong điều kiện lịch sử mới.


II.2 Phát huy quyền làm chủ của nhân dân khơi dậy mạnh mẽ tất cả cácnguồn

lực ,trước hết là nội lực để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
Nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội lớn, nhưng cũng chưa đựng
khơng ít những thách thức, nguy cơ. Do vậy để bảo đảm đất nước phát triển
và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng
và phát triển sang tạo lý luận ấy vào công cuộc đổi mới của đất nước.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con
đường tất yếu phải đi của đất nước ta. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu
của cách mạng khoa học và công nghệ, điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế
để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, sánh ngang với các cường quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí
Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn
dân do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân,
nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức phải dựa vào
nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh nội lực mới có thể trnah
thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.

II.3 kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

1. Phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Kiên trì độc lập tự chủ gắn với đồn kết quốc tế, phấn đấu vun đắp cho
tình cảm trong sáng, thuỷ chung giữa các dân tộc có chung ước nguyện, Hồ
Chí Minh khẳng định, trước hết phải đem sức ta mà giải phóng cho ta; phải
có ý chí tự lực tự cường thì mới nhận được sự tơn trọng, ủng hộ của người
khác, đồng thời, xem vịêc “giúp bạn là tự giúp mình”. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh vấn đề đồn kết, coi việc giữ gìn sự đồn kết phải như giữ gìn con
ngươi của mắt mình; đồn kết từ trong Đảng mở rộng ra đoàn kết dân tộc;
đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới. Đoàn kết là nguyên nhân đưa đến
những thắng lợi của cách mạng Việt Nam:
“Đoàn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành công”


Mặt khác, chính sự hi sinh to lớn của dân tộc Việt Nam cho phẩm giá của
con người trở thành tấm gương sáng đối với các quốc gia, dân tộc có chung
hồn cảnh, cũng như lay động lương tri của nhân loại tiến bộ, u chuộng
hồ bình.
Ngày nay, khi Việt Nam xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thông qua
mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra
trong giai đoạn hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn dân, tiến hành thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội.
Trước đây, khi Việt Nam chống xâm lược, đã có cả một mặt trận nhân dân
thế giới ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam, trong đó gồm cả nhân dân ở chính
ngay nước đối địch.Ngày nay, Việt Nam lại nhận được sự đồng tình, ủng hộ
và giúp đỡ rộng rãi của nhân dân thế giới. Bạn bè quốc tế thấy ở Việt Nam

một tấm gương hồ bình, ổn định, đổi mới, và phát triển. Đáp lại, Việt Nam
tuyên bố sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, luôn nêu
cao nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, khơng can thiệp, hợp tác bình
đẳng cùng có lợi, khơng sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực, giải
quyết mọi bất đồng bằng biện pháp hồ bình.
2. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
nâng cao ý chí tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong quá trình
hội nhập quốc tế
Bước vào thời kì đổi mới, nhận thức rõ ảnh hưởng của tồn cầu hố,
từ đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta đã quán triệt ngày càng rõ hơn
về việc phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, khơi dậy
yếu tố nội lực và ngoại lực làm lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tiên, chúng ta phải khẳng định vai
trị của nền văn hố Việt Nam. Đó là những truyền thống tốt đẹp mà dân
tộc ta đã hun đúc qua hàng nghìn năm phát triển, là một trong những nhân
tố nội sinh, là sức mạnh dân tộc, là lợi thế so sánh của đất nước. Văn hoá
Việt Nam là vốn liếng “tinh thần” để chúng ta “hồ nhập” chứ khơng “hồ
tan” vào nền kinh tế thế giới.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước và trong điều kiện tồn cầu hố kinh tế, sự phát triển khơng ngừng


của khoa học, công nghệ và những biến động của tình hình thế giới, việc
xây dựng đội ngũ cán bộ phải bảo đảm những tiêu chuẩn cán bộ đã được
Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII và Đại hội IX của Đảng đề ra. Cần phải
trẻ hoá, tri thức hoá và chun mơn hố đội ngũ cán bộ, tích cực lựa chọn
những cán bộ có đức, có tài, có thành tích xuất sắc, có triển vọng phát triển,
được quần chúng tín nhiệm để bổ sung vào đội ngũ cán bộ kế cận, kể cả
cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ khoa học kỹ

thuật.
Trong công tác cán bộ, phải mở rộng dân chủ, thực hiện đúng quy trình, đề
cao trách nhiệm của tập thể và người đứng đầu; xử lý kịp thời, nghiêm
minh những cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất, vi phạm Điều lệ đảng và
Pháp luật của Nhà nước, dù người đó ở cương vị cơng tác nào. Đội ngũ cán
bộ nói chung và cán bộ chủ chốt ở các cấp nói riêng phải được trang bị tồn
diện, có hệ thống về chủ nghĩa Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
biết vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vào thực tiễn, mang lại hiệu quả cao. Không ngừng nâng cao năng
lực quản lý, trình độ. Phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người,
mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học
tập và lao động đều có năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.
Đồng thời phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc
biệt là tâm lí chạy theo đồng tiền, cạnh tranh khơng lành mạnh là phai nhạt
truyền thống đồn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc và của
Đảng.
Tận dụng tối đa các nguồn lực về tự nhiên như tài ngun thiên nhiên,
địa hình, khí hậu mà Việt Nam có được. Đây là một trong những lợi thế nội
tại, một điều kiện không thể thiếu được cho việc phát triển kinh tế, là một
lợi thế to lớn và cơ bản để dân tộc ta phát huy ý chí tự lực, tự cường, dựa
vào sức mình là chính trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế đầy phức tạp
và nhiều thách thức.
Việt Nam kiên trì xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở
rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực, với chiến lược và lộ
trình thích hợp; bên cạnh đó phấn đấu giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc;
tranh thủ tạo dụng và tân dụng thời cơ do những nỗ lực bên trong và các
nhân tố thuận lợi bên ngoài hợp lưu tạo ra. Nhận định về thời cơ phát triển



của đất nước chúng ta hiện nay, Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Mơi trường
hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới
tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh
thủ ngoại lực-nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị
trường-phục vụ sự nghịêp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá”.
Từ phát huy nội lực dân tộc dẫn đến mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hố, tồn
cầu hố kinh tế ngày nay càng phát triển. Đối với Việt Nam, chúng ta nằm
ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương nói chung và Đơng Nam Á nói riêng,
xu thế hồ bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng góp phần tạo điều
kiện thuận lợi từ bên ngồi cho nước ta có thể khai thác, tranh thủ để phát
triển và đổi mới đất nước.
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng.Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác
với các nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè
truyền thống, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và
Mỹ Latinh, các nước trong phong trào không liên kết. Thúc đẩy quan hệ đa
dạng với các nước đang phát triển và các tổ chức quốc tế.
Củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác với các đảng cộng sản và
công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân
tộc với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền.Mở rộng hơn nữa
công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song phương và đa
phương với các tổ chức nhân dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác với
các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế.
Tăng cường nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và
văn hoá đối ngoại. Bồi dưỡng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo
dức phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, kể cả kinh tế đối
ngoại. Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo

thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại.
Việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại lúc này đòi hỏi
phải tân dụng thế và lực của đất nước đang lên do công cuộc đổi mới đem
lại, trong bối cảnh quốc tế đang có nhiều thuận lợi, mở ra thời cơ lớn,nhưng
cũng luôn chủ động, cần tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức. Thời gian


khơng chờ chúng ta.Việt Nam nhanh chóng xây dựng và củng cố quan hệ
ổn định lâu dài với các nước, phát huy sức mạnh trong quan hệ song
phương và đa phương, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu,
nhằm góp phần xây dụng một trật tự chính trị, kinh tế quốc tế công bằng
dân chủ…
2.4 chăm lo xâu dựng Đảng vững mạnh ,làm trong sạch bộ máy nhà nước
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu ,tham nhũng,lãng phí thực hiện cần,
kiệm, liêm chính chí cơng vơ tư để xây dựng chủ nghĩa xã hội
Định hướng chung: Xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của dân do dân
vì dân. Lấy liên minh Cơng – Nơng – Trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương
xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và
nhân dân.
- Phát triển lực lượng sản xuất, CNH đất nước theo hướng hiện đại, gắn
liền với phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, thực
hiện nhiều hình thái phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu.
- Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, làm cho thế
giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của các dân tộc trong nước, tiếp thu những tri thức văn hóa nhân loại
xây dựng một xã hộ dân chủ văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá

con người.
- Thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc củng cố và mở rộng mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình hữu nghị và hợp tác
với tất cả các nước nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng đất nước
. - Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ không thể tách rời
nhau đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải luôn cảnh giác
củng cố quốc phịng giữ vững an ninh chính trị, an tồn xã hội bảo vệ vững
chắc mọi thành quả cách mạng


. - Xây dựng đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức ngang tầm với nhiệm vụ chính trị làm trịn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới.
- Những mục tiêu phương hướng cơ bản trên vừa đảm bảo tính ngun tắc,
đảm bảo khơng chệch hướng XHCN vừa quán triệt tinh thần đổi mới, cải
tạo nhằm xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
Mục tiêu cụ thể: Một là: Định hướng XHCN cho quá trình CNH,HĐH đất
nước. Cụ thể là: Định hướng xây dựng một xã hội dân giầu nước mạnh
công bằng và văn minh; Định hướng xây dựng mơ hình CNH hướng vào
xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước
có hiệu quả hơn; Định hướng đầu tư tập trung các nguồn vốn của nhà nước
vào việc xây dựng các hạ tầng cơ sở vật chất và xã hội.
- Hai là: Lựa chọn các ưu tiên cho quá trình CNH: Ưu tiên tạo nguồn hàng
xuất khẩu và thu hút mạnh vốn đầu tư từ nước ngoài vào; Ưu tiên xây dựng
các cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội phục vụ cho phát triển sản xuất hàng
xuất khẩu; Ưu tiên xây dựng và phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao
động để sản xuất ra nhiều chủng loại hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được
nhu cầu xuất khẩu và thị trường trong nước.

- Ba là: Các chính sách kinh tế- xã hộ của nhà nước phải đảm bảo nền kinh
tế tăng trưởng, hiệu quả cao và bền vững. Tăng trưởng cao đi đơi với bền
vững đó là yêu cầu của một nền kinh tế định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay. Đó là con đường duy nhất để rút ngắn quá trình CNH, HĐH, để tránh
nguy cơ tụt hậu so với các nước kinh tế trong khu vực, tiến tới đuổi kịp các
nước kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới.
- Bốn là: Bảo đảm cho cơ chế thị trường có điều kiện tác động lành mạnh
và đúng hướng. Cơ chế thị trường là một yếu tố cấu thành cơ chế kinh tế,
nó có vai trò tự điều tiết nền kinh tế trên mọi lĩnh vực. Muốn đẩy nhanh
quá trình CNH,HĐH nhà nước Việt Nam phải có chính sách tài chính tiền
tệ, giá cả thương mại v.v . Thích hợp để tạo mơi trường thuận lợi cho cơ
chế thị trường tác động đúng hướng, đúng mục tiêu của nền kinh tế. Sự
quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế hàng hóa ở nước ta được thực
hiện bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mơ khác Nhà nước sử
dụng những cơng cụ đó để quản lý những hoạt động kinh tế làm cho nền
kinh tế “lành mạnh” hơn, giảm bớt những thăng trầm đột biến xấu trên con
đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hóa bất bình đẳng,


bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước, như vậy sự vận động của
nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ta
là một sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường
và sự quản lý của nhà nước.
KẾT LUẬN
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu cụ thể về quan điểm Hồ Chí Minh về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng quan điểm đó trong cơng cuộc
đổi mới của đất nước ta hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỷ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã bao quát những vấn đề cốt lõi,cơ bản nhất trên cơ
sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác –Lenin .Qua việc nghiên
cứu đề tài này chúng ta đã hiểu rõ và sâu sắc hơn quá trình bước vào thời

kỳ quá độ của nước ta có đặc điểm là từ nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.Tư tưởng của Người trở thành tài sản vô giá,cơ sở lý luận và là kim
chỉ nam cho việc kiên trì giữ vững độc lập dân tộc định hướng xã hội chu
nghĩa của Đảng ta ,kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,phát
huy quyền làm chủ của nhân dân,nội lực của dân tộc,xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới
,hội nhập kinh tế quốc tế nước ta hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng là một hệ thống tư tưởng rộng lớn và bao
quát mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên trong suốt cuộc đời và sự
nghiệp của mình.Vậy nên trong quá trình nghiên cứu với hạn chế về kiến
thức và thời gian,nhóm chúng em khơng tránh khỏi những thiếu xót,mong
được sự góp ý của cô và các bạn để bài thảo luận của nhóm chúng em được
hồn thiện hơn.



×