Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

làm rõ lý thuyết giá trị m để chứng minh quan điểm Lenin về thuyết Kinh tế của C.Mac - 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.34 KB, 7 trang )



hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã bỏ
ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra
giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “ Với tư cách là
sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản
xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình
lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất
tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai
đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như
những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiêụ quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của người
công nhân
C.Mác đ• lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng nghiên cứu quá
trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sử dụng phương pháp giả
định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu: Không xét đến
ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đem tiêu
dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế
tái sản xuất giản đơn.
Từ các giả định đó, Mác đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết bị máy
móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1 ngày là 4
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 giờ người công
nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi.
Từ đó, có bảng quyết toán như sau:


Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới
Giá 10 kg bông 10 đôla Lao động cụ thể của công nhân bảo tồn và
chuyển giá trị 10 kg bông vào 10 kg sợi. 10 đôla
Hao mòn máy móc 2 đôla Khấu hao tài sản cố định 2 đôla
Tiền thuê sức lao động trong một ngày 4 đôla Giá trị mới do 8 giờ lao động của
người công nhân tạo ra 8 đôla
Tổng chi phí sản xuất 16 đôla
Tổng doanh thu 20 đôla
Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi phí tư
bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng ra đã tăng
lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu thuẫn
của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền thành tư
bản diến ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó.
Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là
hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đó trong sản xuất, tức
là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền
của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg sợi), chúng ta thấy có hai
phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà được
bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là
giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao
động cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành hai

phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian này người công nhân
tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công
mà nhà tư bản đã trả cho mình (4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư: Trong thời gian lao động
thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao động
hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 đôla) và bộ phận
này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt).
Từ đó, Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi điểm
mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới ngang
bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho họ. Thực
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó
giá trị sức lao động được trả ngang giá.
3- Tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản:
Trong nền kinh tế tư bản người công nhân sau quá trình làm việc cho nhà tư bản sẽ
nhận được một khoản thu nhập dưới hình thức tiền công hay tiền lương. Với cách
trả lương như vậy các nhà lí luận tư sản khẳng định rằng tiền lương hay tiền công là
giá cả của lao động. Và trong quá trình sản xuất nhà tư bản trả đúng giá cả của lao
động. Vì vậy dưới chủ nghĩa tư bản không có bóc lột. Nhưng C.Mác đã khẳng định
tiền lương không phải là giá cả của người lao động. Bởi vì, lao động là một phạm
trù trừu tượng nên người ta không thể bán cái trừu tượng. Hơn nữa, lao động chỉ thể
hiện khi vận dụng sức lao động để tiến hành quá trình sản xuất.
Vì vậy Mác khẳng định: Tiền lương chính là giá cả của sức lao động nhưng nó
được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động. Bởi vì sức lao động phản

ánh năng lực lao động của mỗi con người, nó là cái có thật thể hiện toàn bộ ở sức
óc, sức thần kinh và sức cơ bắp của con người. Nó nói lên năng lực và khả năng của
từng người. Vì vậy mỗi một sức lao động khác nhau sẽ có một giá cả khác nhau.
Việc nghiên cứu bản chất tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản cho ta thấy tiền lương
chỉ là một phần giá trị của sức lao động của công nhân tạo ra, nó tương ứng với thời
gian lao động cần thiết của người công nhân trong xí nghiệp nhà tư bản. Phần giá trị
còn lại do sức lao động tạo ra là giá trị thặng dư thuộc về nhà tư bản.
II- Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai cấp tư
sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư. Những phương
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá
trị thặng dư tương đối.
1- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời
gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao động
cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ
là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả
định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết
không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị
thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200% (m’ = 200%)
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao
động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản.
Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá,
nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian người
công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn
phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác,

sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân
đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn
giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi
giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn,
đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


2- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian lao
động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư,
trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ
là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại giả
thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá
trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao
động cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường hợp đó cũng thay đổi.
Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ,
trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300% (m’ = 300%).
Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi biện
pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong quá trình sản xuất để
nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị
trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong những
ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công
nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên được các nhà tư bản
sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các

giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Phần III: Kết luận
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng,
mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư bằng
bất cứ thủ đoạn nào là mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản,
cũng như của toàn bộ xã hội tư sản. Sản xuất ra giá trị thặng dư quả thực là động
lực vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác viết: “ Mục đích
của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó
bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân
làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt), mà bằng cưỡng bức kinh
tế (kỷ luật đói rét) dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật để tăng năng
suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
Vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
C.Mác viết: “ Việc tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức
sản xuất đó”. Nội dung chủ yếu của quy luật này là để thu được giá trị thặng dư một
cách tối đa, nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm thuê và tìm mọi thủ đoạn để
bóc lột họ.
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn thiện tổ
chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng
hoá. Đồng thời thu hút một đội ngũ các kỹ sư, quản lý, mà chức năng của họ suy
cho cùng là bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả các nhân tố của sản xuất mà
trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng giá trị thặng dư.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×