Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

NCKHSV 2014 Tác động của hội nhập văn hóa đối với sinh viên Trường Đại học Giao thông vận tải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.24 KB, 44 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Hội nhập quốc tế, hội nhập khu vực là xu thế tất yếu đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới. Hội nhập đưa đến nhiều cơ hội phát triển nhưng đồng thời cũng đặt ra
bao khó khăn ,thách thức.Để hòa mình vào dòng chảy thế giới, Việt Nam cũng đang
từng bước tham gia vào quá trình hội nhập của nhân loại, trong đó có hội nhập văn
hóa. Sau hơn 25 năm đổi mới ,đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi
lĩnh vực. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, ngành giáo dục đã đạt được những
thành tựu cả về quy mô lẫn chất lượng.Tuy nhiên trong những năm gần đây, với sự du
nhâp của nhiều nền văn hóa bên ngoài qua con đường hội nhập,đời sống văn hóa của
sinh viên có những biến đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau. Nền kinh tế ,văn hóa,
khoa học phát triển tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp cận với nhiều kênh thông tin,
nhiều mô hình học tập tiên tiến, do đó đạt nhiều thành tích trong học tập và nghiên cứu
khoa học. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều biểu hiện chưa chuẩn
về đạo đức lối sống trên bình diện xã hội nói chung và học đường nói riêng.
Báo cáo Chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam chỉ rõ: “Đối với thế hệ trẻ, cần phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào
tạo, phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe,
nghề nghiệp,giải quyết việc làm,phát triển tài năng và sức ság tạo, phát huy vai trò
xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Đây là định hướng lớn ,có ý
nghĩa rất quan trọng và cấp bách đối với hoạt động văn hóa nói chung và đối với việc
học tập, rèn luyện của thế hệ trẻ trong đó có sinh viên trường Đại học Giao thông vận
tải.
Thực hiện đường lối của Đảng, trường Đại học Giao thông vận tải đã rất chú
trọng đến công tác giáo dục và rèn luyện nhân cách, đạo đức, văn hóa cho sinh viên.
Nhà trường đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đào tạo cho đất nước một đội ngũ
1
1
kỹ sư, cử nhân không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, mà còn phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống văn hóa cao đẹp. Công tác giáo dục và đào
tạo của nhà trường đã đem lại những kết quả bước đầu, đã hình thành ngày càng rõ nét


một nếp sống văn hóa lành mạnh, cao đẹp, và sự tiến bộ trong học tập, rèn luyện trong
đông đảo sinh viên của nhà trường. Tuy nhiên ,bên cạnh những ảnh hưởng tích cực,
một bộ phận sinh do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, những mặt trái của hội nhập văn
hóa như các hiện tượng: bỏ học, vô lễ, bạo lực học đường, các tệ nạn xã hội, lối sống
buông thả ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập. Vì vậy, việc nhận thức đúng để phát
huy các yếu tố tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập văn hóa đối với giới
trẻ, trong đó có sinh viên trường Đại học Giao thông vận tải là vấn đề cần thiết hiện
nay.
Từ những lý do trên, chúng em đã chọn và thực hiện đề tài: “Tác động của hội
nhập văn hóa đối với sinh viên Trường Đại học Giao thông vận tải” làm đề tài
nghiên cứu khoa học, với mong muốn góp phần nhỏ vào việc định hướng xây dựng
một môi trường văn hóa lành mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả học tập, rèn luyện
trong sinh viên Trường Đại học Giao thông vận tải.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên thế giới, ở đâu có con người, thì ở đó có văn hóa. Văn hóa là nền tảng
tinh thần của mỗi dân tộc, được hun đúc, xây dựng bằng bề dày lịch sử mà chủ nhân
sáng tạo ra nó là các thế hệ con người nối tiếp nhau. Hội nhập văn hóa mang lại các
cơ hội và thách thức, có ảnh hưởng trực tiếp tới việc học tập và rèn luyện của sinh
viên. Vì thế, ảnh hưởng của hội nhập văn hóa đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học và nhà quản lí. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu
có giá trị khoa học về vấn đề này như: Vũ Trọng Kim, Tuổi trẻ Việt Nam giữ gìn và
phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tạp chí Thanh niên , số 6, năm 2000 ; Trần
Văn Bính (chủ biên) (1996), Văn hóa dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta
hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia , Hà Nội; Hoàng Chí Bảo (1997), Văn
2
2
hóa và sự phát triển nhân cách của thanh niên, Tạp chí Nghiên cứu lí luận; Phạm
Việt Thắng (2000), Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa, luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội; Phạm Mỹ Hạnh, giáo dục nếp sống văn hóa cho sinh viên

thông qua hoạt động của đoàn thanh niên” , Tạp chí Thanh niên , số 4,2000;
Nguyễn Chí Dũng, Xã hội hóa lối sống và xây dựng lối sống trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Sinh hoạt lí luận, số 5, 2000; Mạc Văn
Trang, Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay, 1995…(lưu ý: cần nói thêm các đề tài
của sinh viên trường Đại học Giao thông vận tải thực hiện những năm gần đây có
liên quan đến văn hóa)
Các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập đến nhiều góc độ của văn hóa,
trong đó có việc hội nhập văn hóa. Tuy nhiên, chưa có công trình nào bàn một cách
trực tiếp về việc ảnh hưởng của hội nhập văn hóa đến việc học tập rèn luyện của
sinh viên hiện nay. Vì vậy, việc tìm hiểu “ Ảnh hưởng của hội nhập văn hóa đến học
tập rèn luyện của sinh viên Trường Đại học Giao thông vận tải “ là một vấn đề mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề “văn hóa “, “hội nhập văn hóa”
và ảnh hưởng của hội nhập văn hóa đối với việc học tập, rèn luyện của sinh viên
trường Đại học Giao thông vận tải.
Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần phát huy
những yếu tố tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập văn hóa đối với
học tập và rèn luyện của sinh viên trường Đại học Giao thông vận tải trong thời gian
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những tác động của hội nhập văn hóa đối với sinh viên
trường Đại học Giao thông vận tải.
3
3
Đề tài tập trung nghiên cứu sinh viên hệ chính qui, tại cơ sở 1, trong một số
năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng ,duy vật lịch sử. Đồng thời còn sử dụng một số phương pháp khác như:
tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học….

6. Đóng góp của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để các cơ quan quản
lý của trường Đại học Giao thông vận tải có thể vận dụng vào thực tiễn quá trình đào
tạo, quản lý sinh viên. Đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả học tập và rèn luyện của
sinh viên nhà trường.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu,danh mục tài liệu tham khảo,đề tài được kết cấu thành 2 chương 5
tiết.

4
4
CHƯƠNG 1
ẢNH HƯỞNG CỦA HỘI NHẬP VĂN HÓA ĐỐI VỚI HỌC TẬP VÀ RÈN
LUYỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG
VẬN TẢI
1.1. Văn hóa và những ảnh hưởng đối với xã hội
1.1.1. Khái niệm văn hóa
a) Một số quan niệm về văn hóa
Văn hóa được quan niệm, hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Hiện nay, văn hóa
được quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa hẹp: văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội; văn hóa là hệ các giá
trị, truyền thống, lối sống, …
Theo nghĩa rộng : văn hóa thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con
người sáng tạo ra.
[ Theo “Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà xuất
bản Chính trị Quốc Gia,tr 199”].
Dưới đây là một số quan niệm tiêu biểu:
 Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con

người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội
[ Nguồn dẫn “E.B. Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch từ tiếng
Nga, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr, 13”.]
 F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và
những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân; cấu thành nên một nhóm
người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi
trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên
trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”
.

5
5
[Nguồn dẫn “ F. Boas, Primitive Minds (Trí óc của người Nguyên Thủy), Ngô
Phương Lan dịch, 1921, p. 149" ].
 Một định nghĩa khác về văn hóa mà A.L. Kroeber và Kluckhohn đưa ra là
“Văn hóa là những mô hình hành động minh thị và ám thị được truyền đạt
dựa trên những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng nhóm
người…” …
[ Nguồn dẫn “ A.L. Kroeber và Kluckhohn, Culture, a critical review of
concept and definitions, Vintage Books, A Division of Random House, New
York, 1952, p.357 “].
Ở Việt Nam, văn hóa cũng có nhiều cách tiếp cận:
- Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn
bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.
[ Nguồn dẫn “Hồ Chí Minh Toàn Tập, in lần 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995, tập 3, tr. 431”.].

- Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà
có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình
con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng
và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự
tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng
dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn
mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên
nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm
và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
[ Dẫn theo “Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB
Giáo dụ, 2005, tr. 22” ].
6
6
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu thường vận dụng định nghĩa
văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu
theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức
hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm…
khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia,
xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín
ngưỡng…”;
[ Dẫn theo “chương Văn hóa trong giáo trình Nhân học đại cương của Bộ môn
Nhân học, Đại học KHXH&NV TP.HCM, tài liệu đánh máy”.]
Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký
hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc
thù riêng”…
[ Nguồn dẫn “Ngô Văn Lệ, Tộc người và văn hóa tộc người, NXB Đại học Quốc gia
TP.HCM, 2004, tr. 314”.]
=> Dù theo khuynh hướng nào, mọi định nghĩa văn hóa đều chứa một nét

nghĩa chung là "con người", đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa
văn hóa với con người.
b) Khái niệm :
 Khái niệm văn hóa:
Mặc dù văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú và phức tạp,
với nhiều đặc trưng, nhưng văn hóa có bốn đặc trưng cơ bản nhất là tính nhân sinh,
tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử - đây là những đặc trưng cần và đủ để phân
biệt văn hóa với những khái niệm có liên quan.
- Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc
một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau. Qua đó, văn hóa với tư cách là
một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ
chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp
7
7
cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình.
- Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa chỉ chứa cái
đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Văn
hóa góp phần điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng
động của mình, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi
trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát triển. Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa
có chức năng bộ phận là định hướng các chuẩn mực, điều chỉnh các ứng xử của con
người. Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng phái sinh là động lực cho
sự phát triển của xã hội.
- Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh. Văn hóa là một hiện tượng xã
hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Văn hóa là cái tự nhiên đã được
biến đổi dưới tác động của con người, là "phần giao" giữa tự nhiên và con người:
VĂN HÓA = TỰ NHIÊN + CON NGƯỜI.
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở
thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ ba

của văn hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của
nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với
giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền
văn hóa.
Văn hóa còn có tính lịch sử vì được hình thành trong một quá trình và được tích
lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, chiều sâu và đòi hỏi
phải thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Truyền thống văn hóa tồn tại được nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức
năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Từ chức năng giáo dục, văn hóa đảm bảo tính
kế tục của lịch sử: Nếu gien sinh học di truyền lại cho các thế hệ sau hình thể con
người thì văn hóa là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho
các thế hệ mai sau.
8
8
=>Trên cơ sở bốn đặc trưng này, có thể định nghĩa văn hóa như sau: Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh và động, vật thể và phi
vật thể ) do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

Sơ đồ: Nhận diện khái niệm văn hóa
Cách định nghĩa này không những có khả năng bao quát được nhiều cách tiếp
cận và hiểu khác nhau về văn hóa, mà còn có thể cho phép nhận diện được một hiện
tượng văn hóa và phân biệt nó với những hiện tượng khác không phải là văn hóa -
từ những hiện tượng phi giá trị, những giá trị tự nhiên thiên tạo, cho đến những giá
trị nhân tạo chưa có tính lịch sử.
 Khái niệm văn hóa Việt Nam:
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Văn hóa Việt Nam được hiểu
vàtrìnhbàydướicácquanniệmkhácnhau:
_ Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn
hóa của người Việt, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là

9
Hệ thống
Hệ thống phi giá trị
Hệ thống giá trị
Hệ thống giá trị nhân tạo
Hệ thống giá trị tự nhiên
Hệ thống giá trị nhân tạo không có tính
lịch sử
Hệ thống giá trị nhân tạo có tính
lịch sử (= văn hóa)
9
lịchsửvănminhcủangườiViệt.
_ Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân
tộc Việt Nam cư trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng
tộcngười,khôngcóvănhóadântộc/quốcgia.
_ Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân
tộc/quốc gia, đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa
dạng sắc thái văn hóa tộc người. Khái niệm dân tộc/quốc gia chỉ
một quốc gia có chủ quyền, trong đó phần lớn công dân gắn bó với
nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân tộc. Quan niệm thứ ba này
hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà nghiên cứu,
các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam, vì vậy nội dung
về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày văn hóa Việt Nam theo
hướng văn hóa dân tộc.

1.1.2. Vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội
a) Những tác động tích cực của văn hóa đối với xã hội, đời sống con người
Văn hóa đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của xã hội và của con
người, nhất là trong điều kiện văn minh hiện đại, khi nhân tố con người có văn hóa
trở thành động lực và mục đích của mọi cải biến xã hội.

Nền văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh
kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả
giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhiều nền văn minh thế giới để không
ngừng hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên
tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam; tạo nên cốt cách, bản sắc riêng có của con
người, dân tộc Việt Nam.
Từ khi Đảng ta ra đời và trong suốt lịch sử lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta
luôn coi văn hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Quan điểm
này được đề cập trong Cương lĩnh, đường lối, chiến lược của Đảng. Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đầy sự phát triển KT-XH”.
Quan điểm này được cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa
VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
10
10
dân tộc”; và gần đây được khẳng định lại trong Kết luận hội nghị Trung ương 10,
khóa IX.
[Trích nguồn cơ sở dữ liệu khoa học, quản lý công, luật, thanh tra trang
thanhtra.edu.vn]
* Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội
Việt Nam ta là một nước đất không rộng, người không đông, thiên nhiên khắc
nghiệt và thường xuyên bị ngoại xâm đe doạ. GS sử học Phan Huy Lê viết: “Nếu
tính từ cuộc kháng chiến chống Tần vào thế kỷ thứ III trước công nguyên cho đến
cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc vào năm 1975, Việt Nam ta đã phải tiến hành
hàng chục cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập tự do; hàng chục
cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc để dành lại độc lập, trong đó có
thời kỳ Bắc thuộc hơn một nghìn năm, Minh thuộc 20 năm, Pháp thuộc gần một thế
kỷ. Thời gian chống giặc ngoại xâm và đô hộ của nước ngoài lên đến 12 thế kỷ,
chiếm quá nửa thời gian lịch sử”.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, do đặc điểm của nền nông nghiệp lúa nước,

hình thành nên văn hoá làng xã, mọi người gắn kết thành làng, thành nước thành
cộng đồng vững chắc, coi làng nước là cái thiêng liêng cần phải được bảo vệ. Với
lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm (liên tục phải chống đỡ với giặc
ngoại xâm và những thảm họa của thiên nhiên, đắp đê chống bão lụt phải cả làng,
cả nước ra chống…), là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên
tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc đã
đúc kết nên những giá trị, hình thành nên những nét văn hoá vô cùng quý báu của
dân tộc Việt Nam. Đó chính là bản sắc văn hoá Việt Nam mà NQTW 5 (Khóa VIII)
đã đúc kết.
Những giá trị văn hoá Việt Nam gồm có: Lòng yêu nước, tinh thần cộng
đồng, lòng nhân ái khoan dung, tính cần cù giản dị, khả năng thích ứng nhanh với
hoàn cảnh. Trong đó, giá trị truyền thống lòng yêu nước, ý chí tự cường …được
11
11
xếp lên hàng đầu. GS Trần Văn Giàu có viết: “Sau nghìn năm đô hộ của Bắc
phương, người Việt không hóa thành Hán, sau non nửa thế kỷ bị Pháp cai trị, người
Việt làm sao mà hóa thành tây da vàng”.
[ Trích trong cuốn “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam’’]
Bề dày văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên các giá trị văn hoá Việt Nam. Nếu không
có lòng yêu nước, ý thức cộng đồng “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong
một nước phải thương nhau cùng” để gắn kết cá nhân, gia đình, tộc họ, làng xã, tổ
quốc…thì làm sao chống lại các nước lớn suốt trong diễn trình lịch sử luôn lăm le
xâm chiếm và đồng hóa ta.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta xác định văn hoá là nền tảng tinh
thần xã hội, là cơ sở để phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc,
phát huy ý chí bản lĩnh trí tuệ và đạo lý của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất
nước. Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần trong xã hội, thiếu
nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế, giữa tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát

triển kinh tế- xã hội bền vững.
* Văn hóa là mục tiêu động lực của sự phát triển kinh tế xã hội
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, xây dựng một xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Văn hoá là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của phát triển kinh tế. Các
nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống hoạt động xã hội trên mọi
phương diện giá trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương, biến thành nguồn lực nội
sinh quan trọng nhất của phát triển. Văn hóa là mục tiêu của phát triển KT-XH, có
nghĩa là sự phát triển kinh tế phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng đời sống xã
hội, tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần.
Muốn vậy, văn hóa phải điều tiết sự phát triển của kinh tế, phải gắn sự phát
triển của kinh tế với tiến bộ xã hội. Là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện
trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Với sự phát
12
12
triển của văn hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và cả cộng đồng
được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực của toàn xã
hội.
Phát triển KT-XH dân tộc chính là để đạt được độc lập - tự do - hạnh phúc.
“Về đời sống vật chất và văn hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối
tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn
hóa khá. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc”. [Trích
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII ]
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn hóa luôn được xác định là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và điều đó thể hiện một cách nhất quán trong
đường lối văn hóa của Đảng ta từ ngày mới thành lập đến nay. Đó là, mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố
nội sinh. Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát

huy năng lực bản chất người. Mối quan hệ con người với văn hóa là gắn liền nhau,
văn hóa vừa thể hiện trong con người, đồng thời văn hóa là môi trường, là điều
kiện cho sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Tức là, văn hóa góp phần
vào điều tiết quá trình phát triển KT-XH.
Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều
hay ít lao động và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy
tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này
nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn,
đạo lí, lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mĩ của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm
lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng
cao thì khả năng phát triển KT-XH càng lớn.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng đóng vai trò điều tiết trong quan hệ
quốc tế, để mở cửa và giữ vững được độc lập, chủ quyền, hợp tác kinh tế - văn hóa
với nước ngoài mà không để người ta lợi dụng biến đất nước mình thành nơi cung
13
13
cấp nguyên liệu và nhân công giá rẻ, nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận
những công nghệ lạc hậu, những ảnh hưởng văn hóa độc hại.
* Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố
con người và xây dựng xã hội mới
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến những nguồn lực khác nhau: tài nguyên
thiên nhiên, vốn,… nhưng các tài nguyên thiên nhiên này đều có hạn và có thể bị
khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả
năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. các nguồn lực khác sẽ được sử
dụng có hiệu quả khi nguồn lực con người có chất lượng cao.
b) Những tác động tích cực từ hội nhập về văn hóa
Quá trình hội nhập đang diễn ra hết sức sôi động trên hầu hết mọi mặt của đời
sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao…
Trong lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập có những tác động tích cực to lớn
Những tác động tích cực của hội nhập trong lĩnh vực văn hoá đó là:

Thứ nhất: Quá trình hội nhập đem lại cho chúng ta cơ hội có thể tham gia
các thị trường thế giới (về vốn, hàng hóa, dịch vụ ) với tư cách một thành viên
bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. Khi các rào cản bị xóa bỏ, xuất khẩu nước ta
sẽ có điều kiện tăng nhanh, dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào nước ta dự báo sẽ có
chiều hướng tăng đột biến; từ đó kinh tế sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, có thêm việc làm,
thu nhập của nhân dân sẽ tăng, làm cho mức sống vật chất và nhu cầu hưởng thụ
văn hóa được nâng cao. Ðây chính là một trong những tiền đề cần thiết khích lệ văn
hóa phát triển, thúc đẩy việc sáng tạo các sản phẩm văn hóa nghe nhìn, nghệ thuật
biểu diễn, sách báo đến các nhu cầu giải trí khác như du lịch văn hóa, tham quan
thắng cảnh, di tích lịch sử, bảo tàng góp phần làm giảm sự cách biệt về văn hóa
đối với từng vùng miền, từng dân tộc; giữa nông thôn, miền núi và thành thị, huy
động được quần chúng nhân dân hưởng ứng và tham gia vào các chiến lược phát
14
14
triển văn hóa của Đảng và Chính phủ (lưu ý: Cần bám sát vấn đề hội nhập văn
hóa)
Thứ hai: Từ tăng cường hội nhập, giao lưu văn hóa quốc tế nhân dân ta có
điều kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại: Từ lối sống, nếp sống năng động, sáng
tạo, tự tin hơn, tự lập, ý thức tôn trọng pháp luật được nâng cao hơn, tinh thần dân
chủ, công bằng xã hội được củng cố đến những giá trị văn học nghệ thuật mang đậm
tính nhân văn, tính dân tộc và hiện đại. Ngoài ra cách nhìn nhận mang tính thực tiễn
được đề cao, góp phần hoàn thiện những đặc điểm đặc thù của văn hóa dân tộc.
Thứ ba: Hội nhập văn hóa tạo điều kiện cho nước ta giới thiệu với bạn bè
khắp năm châu về những vẻ đẹp độc đáo của nền văn hóa dân tộc, góp phần làm
phong phú nền văn hóa chung của nhân loại. Chúng ta giới thiệu với bạn bè quốc tế
những lĩnh vực có thế mạnh của Việt Nam như du lịch sinh thái, du lịch lễ hội, du
lịch các làng nghề truyền thống và tổ chức các cuộc triển lãm quốc tế, tiếp thị các
sản phẩm thủ công mỹ nghệ, sản vật địa phương Xây dựng hình ảnh quốc gia phù
hợp với văn hóa Việt Nam nhằm quảng bá trên trường quốc tế.
Thứ tư: Trong quá trình quảng bá hình ảnh đất nước và hội nhập, giao lưu hợp

tác văn hóa với các nước, Việt Nam đã học được kinh nghiệm ứng dụng công nghệ
thông tin, đặc biệt là Internet trong các hoạt động quảng bá hình ảnh văn hóa Việt
Nam; kinh nghiệm trong việc tăng cường trao đổi thông tin giữa các cơ quan, quan
chức chính phủ và công chúng thông qua việc sử dụng và ứng dụng giao tiếp và kỹ
thuật số; nắm bắt và vận dụng có hiệu quả kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt thông qua
UNESCO trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phục vụ phát triển đất
nước.
Thứ năm: Hội nhập mạnh mẽ với thế giới, chúng ta có dịp soát xét lại cơ
chế, chính sách trên lĩnh vực văn hóa xem có gì lỗi thời cần sửa đổi cho phù hợp
thông lệ, chuẩn mực thế giới mà vẫn tuân thủ những nguyên tắc của chúng ta. Trong
20 năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành hàng trăm văn bản luật pháp
liên quan đến sự nghiệp văn hóa, trong đó đáng chú ý là các văn bản luật pháp trực
tiếp quy định công tác báo chí, xuất bản, bản quyền, di sản văn hóa, thư viện, điện
ảnh, quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật như là Luật Di sản văn hóa, Luật Điện ảnh,
15
15
LuậtQuảngcáo…
Những quy định luật pháp đã mở đường cho sự tham gia của xã hội vào các hoạt
động văn hóa, giữ vững định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, đồng thời đẩy lùi những tiêu cực, sai trái trong hoạt động văn hóa. Bên
cạnh pháp luật, nước ta cũng xây dựng nhiều chính sách phát triển văn hóa, hỗ trợ di
tích, nhất là việc quy hoạch và bảo tồn, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở được tăng
cường.
Thứ sáu: Khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp thì
những tiến bộ về văn hoá, lối sống đã góp phần nâng cao tuổi thọ trung bình của
nước ta cao hơn trước (tăng từ 40 tuổi năm 1960 lên 73 tuổi năm 2012). Qúa trình
hội nhập văn hoá giúp làm đa dạng và phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân
dân. Hội nhập văn hoá làm xuất hiện thêm nhiều loại hình giải trí mới mẻ, lành
mạnh, bổ ích, phù hợp với mọi lứa tuổi như các câu lạc bộ dance post, khiêu vũ, câu
lạc bộ dưỡng sinh, hiphop, các trại hè dành cho học sinh, sinh viên…Khi thu nhập

của người dân Việt Nam còn thấp thì những hoạt động sôi nổi, lành mạnh của văn
hoá sẽ góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, tác động trở lại sự phát
triển kinh tế, ổn định tình hình chính trị-xã hội đất nước.
1.2.Tổng quan về sinh viên:
1.2.1.Khái niệm sinh viên:
Sinh viên là những người đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng thuộc lớp
thanh niên có độ tuổi từ 18 đến 25, hoạt động chính của họ là học tập để tiếp thu
kiến thức, kỹ năng chuyên môn nhằm chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi
ra trường.
1.2.2. Vai trò của sinh viên đối với sự phát triển của xã hội :
Sinh viên có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Là những trí thức
tương lai, sinh viên là nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước.
Họ là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng giàu mạnh.
1.2.3.Một số đặc điểm của sinh viên ngày nay:
16
16
Đối với SV nước ta, một thực tế là trong số họ hiện nay đang diễn ra qúa trình phân
hoá, với hai nguyên nhân cơ bản: Tác động của cơ chế thị trường dẫn đến khác biệt
giàu nghèo; sự mở rộng quy mô đào tạo khiến trình độ SV chênh lệch lớn ngay từ
đầu vào. Dù vậy, vẫn có thể nhìn thấy trong đó những đặc điểm tương đồng dưới
đây.
_ Tính thực tế: Thể hiện ở việc chọn ngành chọn nghề, ở việc hướng đến lựa
chọn những kiến thức để học sao cho đáp ứng nhu cầu thực tế, chuẩn bị kinh
nghiệm làm việc cho tương lai, định hướng công việc sau khi ra trường, thích
những công việc đem lại thu nhập cao, v. v Nói chung là tính mục đích
trong hành động và suy nghĩ rất rõ.
_ Tính năng động: Nhiều SV vừa đi học vừa đi làm (làm thêm bán thời gian,
hoặc có khi là thành viên chính thức của một cơ quan, công ty), hình thành tư
duy kinh tế trong thế hệ mới (thích kinh doanh, muốn tự mình lập công ty

ngay khi đang còn là SV), thể hiện sự tích cực chủ động (tham gia phong trào
tình nguyện). Nhiều SV cùng một lúc học hai trường.
_ Tính cụ thể của lý tưởng: Đang có một sự thay đổi trong lý tưởng sống gắn
liền với sự định hướng cụ thể. Một câu hỏi vẫn thường được đặt ra là: SV
hôm nay sống có lý tưởng không, lý tưởng ấy là gì, có sự phù hợp giữa lý
tưởng của cá nhân và lý tưởng của dân tộc, của nhân loại không. Có thể
khẳng định lŕ có, nhưng đang xuất hiện những đặc điểm lý tưởng có tính thế
hệ, lý tưởng gắn liền với bối cảnh đất nước và quốc tế rất cụ thể. Lý tưởng
hôm nay không phải là sự lựa chọn những mục đích xa xôi, mà hướng đến
những mục tiêu cụ thể, gắn liền với lợi ích cá nhân.
_ Tính liên kết (tính nhóm): Những người trẻ luôn có xu hướng mở rộng các
mối quan hệ, đặc biệt là những quan hệ đồng đẳng, cùng nhóm. Các nghiên
cứu của hai nhà xã hội học người Pháp về bản sắc xã hội dưới góc độ nhóm là
Taspen và Turnez, đã đưa đến kết luận: Tính nhóm phụ thuộc vào môi trường
xã hội xung quanh chúng ta đang sống. Sự thay đổi của đời sống tinh thần
trong SV trước xu hướng toàn cầu hoá (cả mặt thuận lợi và hạn chế của xu
hướng này) đang hướng mạnh đến tính cộng đồng.
_ Tính cá nhân: Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc
nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt rõ trong những
người trẻ có học vấn là SV. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể
hiện vai trò cá nhân. Dường như có sự đề cao lợi ích hơn nghĩa vụ cá nhân.
Sự hy sinh vŕ quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì đánh giá dưới
góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Xuất hiện thái độ
bàng quan với xung quanh ở một bộ phận SV.
Sự phân tách các đặc điểm trên chỉ có tính tương đối để phục vụ công tác nghiên
cứu, còn trên thực tế các đặc điểm ấy đan xen và có tác động qua lại lẫn nhau. Tính
cá nhân không tách rời tính liên kết, tính năng động gắn liền với tính thực tế. Mỗi
đặc điểm, qua những biểu hiện cụ thể của nó, luôn bộc lộ tính hai mặt: Vừa có
những tác động tích cực, vừa có những tác động tiêu cực.
17

17
• Một vài nét riêng của sinh viên trường Đại Học Giao Thông Vận Tải:
Với đặc thù là trường kỹ thuật, số lượng sinh viên nam chiếm tới gần ¾ số
sinh viên toàn trường nên sinh viên trường Đại Học Giao Thông Vận Tải có
một số đặc điểm khác biệt so với sinh viên các trường khác như sau:
_ Đầu tóc, quần áo giản dị. Khi đi vào các trường khác đặc biệt là các
trường kinh tế, sư phạm, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt này.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, giới trẻ bị ảnh hưởng và có xu thế
chạy theo các thần tượng, các mốt thời trang như : nhuộm tóc lòe loẹt,
ăn mặc theo những phong cách độc,… không phù hợp với môi trường
học đường. Tuy nhiên, nhìn chung sinh viên trường Đại Học Giao
Thông Vận Tải đa số là sinh viên nam nên không cầu kỳ trong vấn đề
ăn mặc, đầu tóc, chịu ảnh hưởng rất nhỏ từ xu thế này của giới trẻ hiện
nay nói chung.
_ Năng nổ ,tích cực trong các hoạt động thể thao: bóng đá, bóng chuyền,
cầu lông, điền kinh
_ Cách nói chuyện suồng sã. Vì đa số là con trai nên sinh viên nói
chuyện với nhau nhiều lúc không tế nhị, không lịch sự và ý tứ như với
con gái . Đặc biệt hiện tượng văng tục chửi bậy rất phổ biến.
………………
1.3. Tác động của hội nhập văn hóa đối với việc học tập và rèn luyện của
sinh viên
1.3.1. Khái niệm về hội nhập văn hóa
Hội nhập văn hóa có thể hiểu một cách đơn giản nhất là mở cửa giao lưu văn
hóa với các nước trong khu vực hoặc với thế giới.
Hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hoá là tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân
loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hoá truyền thống của đất
nước, góp phần xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Hội nhập về văn hoá còn là nền tảng để mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh
vực khác. Thông qua các hoạt động văn hoá đối ngoại, bạn bè thế giới hiểu biết hơn

18
18
về đất nước, con người và văn hoá Việt Nam, từng bước tạo dựng lòng tin đối với
Việt Nam, đưa quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, qua đó nâng
cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Hội nhập văn hóa cũng đem lại kết quả: các sản phẩm văn hóa do ta làm ra
cũng trở thành nguồn tiêu dùng cho người nước ngoài.
1.3.2. Những ảnh hưởng tích cực
Thứ nhất, đa số sinh viên kế thừa và phát huy được những giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc, có lối sống lành mạnh, trung thực, đoàn kết, nhân ái và có tinh
thần cộng đồng.
Trong thời kỳ hội nhập văn hóa hiện nay, sinh viên được tiếp xúc với nhiều giá trị
văn hóa ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên cần phải tiếp thu một cách có chọn lọc
những cái tốt, cái hay đồng thời kế thừa và phát huy được những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Theo kết quả khảo sát của 300 sinh viên Trường Đại học
giao thông vận tải, có tới 96 % số sinh viên nhận thức được điều này. Điều này
được thể hiện rõ trong việc sinh viên tham gia các hoạt động xã hội có ý nghĩa
cộng đồng sâu sắc. Trong nhiều năm qua, đất nước ta gánh chịu nhiều thiên tai rất
nghiêm trọng ở nhiều vùng miền khác nhau. Phát huy truyền thống nhân ái, nhiều
sinh viên của trường đã không quản ngại khó khăn, gian khổ đến với những vùng
miền bị thiên tai để giúp đỡ nhân dân về vật chất và tinh thần. Vào dịp hè, sinh viên
tình nguyện của trường với màu áo xanh quen thuộc lại nô nức lên đường. Những
chuyến xe đưa đón sinh viên tạm biệt mái trường nhưng không phải là về quê nghỉ
ngơi sau những ngày học hành vất vả mà mà là đưa họ đến với những bà con vùng
sâu , vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… những con người đang cần sự
giúp đỡ. Với tinh thần xung phong tình nguyện, các đoàn viên, thanh niên Trường
Đại học giao thông vận tải đã đem ánh sáng văn hóa, nhiệt huyết của tuổi trẻ đến
phục vụ nhân dân, xứng đáng với danh hiệu “Sinh viên tình nguyện”.
19
19

Không chỉ ở vùng sâu vùng xa, sinh viên tình nguyện của trường còn có mặt
tại các điểm nóng giao thông của thủ đô. Họ có mặt tại các ngã ba, ngã tư, các trạm
đỗ xe buýt trên đường phố, góp phần tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông.
Tại các mùa thi đại học, cao đẳng, họ là những người tình nguyện giúp đỡ
những sỹ tử đi thi. Thời gian qua, đã có hàng trăm lượt sinh viên nhà trường tình
nguyện hiến máu nhân đạo và các hoạt động nhân đạo, từ thiện khác. Điều đó góp
phần khơi dậy tình cảm, lòng nhân ái, nhân văn, trách nhiệm cộng đồng, tinh thần
xung phong tình nguyện của sinh viên.
Bên cạnh đó,các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao cũng được các bạn sinh
viên tham gia tích cực. Từ đó thúc đẩy nếp sống đẹp trong sinh viên, đồng thời góp
phần đáng kể trong việc định hướng thẩm mỹ, giáo dục tư tưởng, lối sống của sinh
viên. Các hoạt động đó không chỉ mang tính chất giải trí mà còn trang bị kiến thức,
nâng cao nhận thức, động cơ cho sinh viên trong học tập và rèn luyện. Giúp cho
sinh viên nâng cao ý thức trong việc xây dựng nền văn hóa mới, tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc .
Thứ hai, đa số sinh viên có động cơ học tập nghiêm túc và tích cực, chủ động
trong học tập, nghiên cứu khoa học với tinh thần vượt khó.
Hội nhập văn hóa chính là cơ hội thuận lợi để sinh viên Trường Đại học giao
thông vận tải trau dồi, tích lũy, rèn luyện đạo đức, lối sống, lập trường chính trị tư
tưởng và học hỏi thêm những kiến thức bổ ích khi đang còn ngồi trên ghế nhà
trường. Một bộ phận lớn sinh viên có tinh thần năng động, tự vươn lên lập thân lập
nghiệp. Họ khao khát sống có ý nghĩa cho xã hội, nung nấu quyết tâm rèn đức
luyện tài, vươn lên làm chủ khoa học và công nghệ, nhất là trong lĩnh vực giao
thông vận tải. Đã xuất hiện nhiều tấm gương sinh viên trường ta nỗ lực vươn lên
đạt thành tích cao trong học tập và nghiên cứu khoa học.
- Trong học tập: Đa số sinh viên nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc
học tập đối với sự phát triển của bản thân và đất nước. Từ đó họ chủ động và cố
20
20
gắng tích cực trong học tập, rèn luyện, xác định được động cơ và mục đích học tập

đúng đắn. Nhiều sinh viên đã tỏ ra quan tâm, lo lắng đến kết quả học tập của mình,
đến kiến thức chuyên môn có tính quyết định khả năng tìm việc làm và chất lượng
việc làm sau khi tốt nghiệp. Do đó họ có thái độ chăm chỉ, cần cù, chịu khó, tự giác,
có ý thức chấp hành kỷ luật nề nếp học tập. Ngoài việc có mặt đầy đủ ở các giờ học
trên giảng đường, nhiều sinh viên còn tổ chức học nhóm hay lên thư viện để tự
học Có rất nhiều tấm gương sinh viên vượt khó, giành thành tích cao trong học
tập. Phong trào “ Học tập và rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp” do Đoàn trường phát
động đã tạo ra những bước phát triển mới, góp phần định hướng tinh thần học tập
đúng đắn, động viên khuyến khích sinh viên vươn lên rèn luyện học tập, nghiên cứu
khoa học, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
-Trong rèn luyện: Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải có sinh viên nam
chiếm đa số, họ năng nổ, giàu nhiệt huyết, sức trẻ và tham gia vào nhiều hoạt động
thể dục thể thao cũng như các câu lạc bộ do Đoàn trường thành lập .Trường ta có
nhiều tổ chức , câu lạc bộ cho sinh viên có điều kiện phát huy khả năng và cống
hiến sức trẻ của mình như : Hội sinh viên, CLB sinh viên tình nguyện, CLB ghita,
CLB doanh nghiệp trẻ, Ban văn nghệ UTC…
- Trong hoạt động nghiên cứu khoa học: Bên cạnh nhiệm vụ chính là học tập,
nhiều sinh viên còn tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học. Trong mấy năm gần
đây, được sự quan tâm và đầu tư của nhà trường, phong trào nghiên cứu khoa học
trong sinh viên có chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Mỗi năm có
hàng trăm đề tài được triển khai và nghiệm thu đạt chất lượng tốt. Nhà trường đã
dành một phần kinh phí đáng kể cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên,
Những sinh viên đạt kết quả cao được khen thưởng kịp thời, điều đó đã khích lệ
sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học ngày càng nhiều. (số lượng đề tài ….)
Hoạt động nghiên cứu khoa học có tác dụng tích cực trong việc bồi dưỡng
nâng cao kiến thức, rèn luyện bản lĩnh, khả năng tư duy, trí tuệ cho sinh viên
Trường Đại học giao thông vận tải.
(Cần bám sát nội dung vấn đề nghiên cứu: Tác động của hội nhập văn
hóa đến các hoạt động của sinh viên nhà trường)
21

21
Thứ ba, đa số sinh viên hiện nay đang hướng tới một mô hình nhân cách đạo
đức mới.
`Phần lớn sinh viên Trường Đại học giao thông vận tải hiện nay có tính năng
động, thực tế hơn, tự chủ, bộc lộ rõ cá tính.
Quan niệm đạo đức của sinh viên hiện nay ít bị ràng buộc bởi dư luận hơn so
với các thế hệ trước. Đồng thời, quan niệm của sinh viên về tốt, xấu, công bằng
đang có sự dịch chuyển nhất định, những quy tắc ứng xử vì thế cũng biến đổi theo
nguyên tắc thiết thực, hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của thời đại công nghiệp.
Nhìn chung, đa số sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của các giá trị
văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Họ có ý thức nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, lý tưởng, có
tinh thần tự lực tự cường, năng động sáng tạo, làm chủ khoa học và công nghệ mới,
sánh vai cùng sinh viên các trường đại học khác trong nước. Trong thời đại thông
tin hiện nay thì việc sử dụng máy tính để truy cập internet là rất phổ biến. Theo kết
quả khảo sát sinh viên Trường Đại học Giao Thông Vận Tải về tình hình sử dụng
máy tính thì có tới 75% là tự có, 10% là sử dụng chung với bạn và chỉ có 15% là
không có. Điều này giúp ích rất nhiều cho sinh viên trong việc học tập,nghiên cứu
,làm việc để có kết quả tốt hơn. Ngoài ra, sinh viên Trường Đại Học Giao Thông
vận tải cũng thường xuyên tham gia Olympic các môn học mà trường có thế mạnh ở
các cụm trường Đại Học toàn quốc do Bộ Giáo dục & Đào tạo tổ chức. Tại cuộc thi
Olympic cơ học toàn quốc lần thứ XV- năm 2003, trường Đại Học Giao Thông Vận
Tải đã có 24 sinh viên đạt giải, mấy năm gần đây năm nàocũng có sinh viên của
trường đạt giải cao.
(Cần phải có các khảo sát, số liệu cụ thể về những tác động tích cực hội nhập
văn hóa đến học tập và rèn luyện của sinh viên; trên cơ sở các số liệu khảo sát để
phân tích)
1.2.3. Những ảnh hưởng tiêu cực
22
22

Thứ nhất: Những ảnh hưởng tiêu cực trong học tập
Nhiều sinh viên trở nên thụ động, đánh mất đi thói quen tư duy, đào sâu suy
nghĩ trước một vấn đề đặt ra do việc dựa dẫm, lợi dụng vào những kết quả có sẵn
trên mạng. Nhiều sinh viên đã sao chép y nguyên những bài mẫu mà không có bất
kỳ một sự sáng tạo nào, không dưa ra được ý kiến của bản than mình. Giờ trên lớp
thì không tập trung tư tưởng, thường xuyên ngủ gật, không chú ý nghe giảng, làm
việc riêng nhất là sử dụng điện thoại trong lớp. Ngoài giờ lên lớp thì không chịu học
bài, làm bài, đọc giáo trình mà dành nhiều thời gian cho chơi bời, tham gia các hoạt
động vô ích thậm chí là có hại, vi phạm pháp luật. Nhiều sinh viên không có thái độ
tự giác và tích cực trong việc tìm kiếm các tài liệu tham khảo cũng như tổ chức các
buổi tự học ngoài giờ học trên giảng đường. Mặc dù Trường Đại Học Giao Thông
Vận Tải có thư viện được đánh giá là một trong những thư viện hiện đại và khang
trang nhất tuy nhiên số lượng sinh viên lên thư viện để tự học , để mượn sách … lại
rất ít. Chỉ có 9,2% sinh viên thường xuyên , 34% không thường xuyên, 44,9% hiếm
khi đến thư viện, số còn lại chưa bao giờ đến thư viện.
Việc gian lận trong thi cử diễn ra thường xuyên và một số sinh viên coi là bình
thường. Với thái độ học tập như trên nhiều sinh viên có kết quả học tập kém, bị lưu
ban hoặc buộc thôi học. Trường Đại học giao thông tận tải là một trong những
trường có số sinh viên bị cảnh cáo học vụ và thôi học cao nhất trong các trường cao
đẳng, cại học. (Đây có phải là ảnh hưởng của hội nhập văn hóa không – khi đưa ra
nhận định cần có khảo sát, đánh giá? Hay là là từ nhiều yếu tố khác: cơ chế thị
trường)
Thứ hai : Những ảnh hưởng tiêu cực trong rèn luyện
Nhiều sinh viên không tham gia vào các hoạt đông chính trị - xã hội, văn
nghệ, thể thao, tìm hiểu văn hóa truyền thống của dân tộc, phòng chống các tệ nạn
xã hội mà chủ yếu dành thời gian của họ cho những hoạt động vô bổ, thiếu lành
mạnh như chơi game đặc biệt là những game mang tính chất bạo lực (đa số là các
23
23
sinh viên nam). Đa số sinh viên đều có điều kiện sử dụng internet (75% tự có, 15%

dùng chung máy tính) để phục vụ cho việc học tập nhưng lại sử dụng sai mục đích.
Chỉ có 30% sử dụng cho việc tìm kiếm tài liệu để học tập,nghiên cứu, còn lại là
dùng cho mục đích giải trí. Phần lớn sinh viên sau những giờ học trên giảng đường
thì đều dùng thời gian còn lại cho việc xem phim, đọc truyện, chơi game hay vào
các trang web xã hội trên mạng mà đặc biệt là Facebook, zalo, viber,line….
Hiện tượng nhiều sinh viên trốn học, bỏ tiết, đi học muộn, nhờ người đi học hộ ngày
càng gia tăng. Ai cũng biết rằng trách nhiệm của người sinh viên đến giảng đường
là để học hỏi, tìm kiếm một ngành nghề nào đó cho cuộc sống tương lai, hoặc để tự
nâng cao kiến thức hiểu biết.Tuy nhiên, theo khảo sát, chỉ có 30% sinh viên tích
cực, say mê học tập, 10% lười học, ham hưởng thụ vui chơi ( và 60% sống khép kín
ít tham gia hoạt động xã hội ). Ý thức học tập ngày càng giảm sút, không có tinh
thần vượt khó, phấn đấu vươn lên trong học tập. Không có ý thức chấp hành nội
quy, quy chế của nhà trường, ví dụ như việc sinh viên đã không đeo thẻ khi vào
trường mà còn có những hành vi dối trá, lừa dối các nhân viên bảo vệ để được vào
trường. Trong quá trình tiếp thu văn hóa nước ngoài, họ thấy những bạn trẻ nước
ngoài sống tự lập, tự do và có quyền tự quyết về tương lai của mình cho nên các bạn
sinh viên đã học theo điều đó. Việc đó là hoàn toàn đúng nếu như họ biết việc tự
lập, tự do đó phải dựa trên sự tuân thủ các quy định, quy tắc của xã hội, các bạn trẻ
nước ngoài làm được điều đó nhưng một bộ phận không nhỏ sinh viên không làm
được điều đó, họ chỉ biết đòi hỏi quyền lợi mà không muốn chịu trách nhiệm. (Cần
có số liệu khảo sát, đánh giá)
Thứ ba: Những ảnh hưởng tiêu cực trong nhân cách và lối sống:
24
24
Đa số sinh viên trường Đại Học Giao Thông Vận Tải đều từ các tỉnh ngoài
đến nhập học nên phải thuê nhà trọ hoặc xin vào ký túc xá của trường để ở. Đang từ
môi trường gia đình được bố mẹ quan tâm, quản lý nghiêm ngặt , bây giờ sinh viên
phải học cách sống tự lập. Để có thể thích nghi với môi trường sống mới đòi hỏi
sinh viên cần phải xácđịnh quan điểm sống đúng đắn, lành mạnh và có tính tự chủ
cao. Điều này dễ dàng hơn với sinh viên nữ còn đối với sinh viên nam đặc biệt là

với số sinh viên nam đông đảo như của trường Đại Học Giao THông Vận Tải thì
việc này gặp nhiều khó khăn hơn. Cụ thể là : con trai hiếu động, tính tò mò cao
,thích chinh phục những thử thách khó và giành nhiều thời gian cho việc vui chơi
hơn là học tập, nhiều bạn bè mà khi chơi không có sự tìm hiểu và chọn bạn chơi cẩn
thận nên dễ bị bạn xấu lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, sống buông thả hơn. Chính
những điều này làm cho sinh viên Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải chịu một số
ảnh hưởng tiêu cực từ hội nhập văn hóa .
Một bộ phận không nhỏ sinh viên Trường Đại học giao thông vận tải có biểu
hiện cá nhân thực dụng trong quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử. Cái cá nhân
nhiều khi đã lấn át cái cộng đồng, lợi ích cá nhân quan trọng hơn tất cả, có thái độ
bàng quan đối với những người xung quanh. Sự hy sinh và quan tâm đến người
khác thấp đi, và nếu có thì thường được đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn
là tình cảm và sự chia sẻ. Sự du nhập lối sống và sản phẩm công nghệ hiện đại từ
các nước phát triển, đã dần dần làm không ít sinh viên xa rời các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp vốn vẫn luôn phù hợp với thời kỳ hiện đại. Hình thành tư tưởng
hưởng thụ ăn chơi đua đòi, chịu tác động của tệ nạn xã hội, dễ bị dao động về mặt
định hướng đạo đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế - xã hội mở cửa.
Quan niệm đạo đức trong một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt là ở
quan niệm cho rằng đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất mọi lúc mọi
nơi.
Hội nhập văn hóa đã tạo ra môi trường thuận lợi để những kẻ xấu lợi dụng,
nhằm mục đích nói xấu, bôi nhọ người khác, hoặc kích động, phản động… không
25
25

×