Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Động lực phát triển của kinh tế thị trường (phân tích từ giác độ quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.11 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật và phép biện chứng duy vật khẳng định rằng: Mọi sự vật và hiện
tượng trong tự nhiên đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại
khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội
và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật
kết thúc. Trong mỗi một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong
cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi là mâu thuẫn
khác lại hình thành.
Mâu thuẫn là một động lực thúc đẩy sự phát triển. Trong nền kinh tế thị
trường, sự xuất hiện và giải quyết những mâu thuẫn phát sinh là một trong
những yếu tố không thể thiếu để phát triển nó. Với mong muốn tìm hiểu thêm
về phép biện chứng , về những mâu thuẫn là động lực phát triển nền kinh tế
thị trường và những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình phát triển nển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, em đã chọn đề tài:
“Động lực phát triển của kinh tế thị trường ( phân tích từ giác độ quy luật
mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật ) “ .

1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I . Lý luận chung về mâu thuẫn.
1. Khái quát chung về mâu thuẫn và nội dung của qui luật mâu thuẫn.
a) Khái quát chung về mâu thuẫn.
Từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán về sự tác động qua lại của các
mặt đối lập và xem xét sự tác động qua lại đó là cơ sở vận động của thế giới.
Nhiều đại biểu triết học cổ đại phương đông đã xem vận động là do sự hình
thành các đối lập và các đối lập ấy cũng luôn vận động. Tư tưởng biện chứng
về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của phép biện
chứng trước Mac là học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức,


tiêu biểu là Gioocgio Vinhem phridrich Heghen nhà biện chứng đồng thời là
nhà triết học duy tâm khách quan. Ông là người sớm nhận ra vai trò của mâu
thuẫn trong quá trình vận động và phát triển “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất
cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống. Chỉ trong chừng mực một vật
chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, có xung lực
và hoạt động”
Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư tưởng về mâu
thuẫn , bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mac cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển
của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật.
Quan điểm đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập ( Quy luật mâu thuẫn ) - hạt nhân của phép biện chứng
Các khái niệm chung về mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn: là mối liên hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập
- Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính,
những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau .
- Thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa vào nhau, không
tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại
của mặt kia làm tiền đề.
- Đấu tranh của các mặt đối lập: là sự bài trừ gạt bỏ phủ định lẫn
nhau, chuyển hoá lẫn nhau của các mặt đối lập.
b) Nội dung của quy luật mâu thuẫn.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là một trong
những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Lenin gọi nó là “ hạt
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhân “ của phép biện chứng, vì nó là cơ sở để hiểu rõ mối quan hệ giữa các
phạm trù khác nhau cũng như các quy luật cơ bản khác trong phép biện chứng
duy vật.

Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau.
“Sự thống nhất “ trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập liên hệ
với nhau, ràng buộc , quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề cho
sự tồng tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính
tạo thành sự vật, thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự
thống nhất của các mặt đối lập là điều kện không thể thiếu được cho sự tồn
tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này là sự thống nhất từ
bên trong, do nhu cầu tồn tại, nhu cầu vận động và phát triển của chính bản
thân các mặt đối lập. Ví dụ , Nhà tư bản sở dĩ cần đến người công nhân chính
là vì người công nhân là lực lượng đem lại lợi nhuận cho nhà tư bản. Người
công nhân sở dĩ phải làm thuê cho nhà tư bản vì đó là do nhu cầu sống của họ,
nhu câu tồn tại của họ trong điều kiện họ không có tư liêu sản xuất. Nếu
không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách là một giai cấp bán sức lao động
cho Nhà tư bản thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một
giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thăng du.
Theo quan điểm của phép biện chứng, sự thống nhất không tách rời với
sự khác nhau, sự đối lập. Lenin viết “Sự đồng nhất của các mặt đối lập, đó là
sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau, đối lập, trong
tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tư nhiên”.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập
bài trừ phủ định nhau trong thế giới vật chất được thể hiện dưới những dạnh
khác nhau, cùng tồn tại trong một sự thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn
nhưng không nằm yên bên ngoài nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo
thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Ví dụ: sự đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với nhau về
nhiều mặt rất gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thể thông qua cách mạng xã hội
bằng nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết được mâu thuẫn này một
cách căn bản.

Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy
có thể chia ra từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng. Khi
mới xuất hiện mâu thuẫn hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt,
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mà được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt đối lập – giai đoạn hình thành
mâu thuẫn. Song không phải bất cứ sự khác nhau nào của các mặt cũng là
mâu thuẫn. Chỉ có hai mặt khác nhau nào có liên hệ hữu cơ với nhau trong
một chỉnh thể và có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau mới hình thành
bước đầu của mâu thuẫn.
2. Động lực của sự phát triển dưới góc độ quy luật mâu thuẫn.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập điễn ra có giới
hạn, có khởi đầu, có kết thúc. Giới hạn đó chính là sự tồn tại của vật. Vì thế
nó chỉ là hiện tượng tương đối tạm thời nhưng sự thống nhất giữa các mặt đối
lập đã tạo ra mâu thuẫn, tạo ra địa bàn cho sự đấu tranh giữa chúng và đấu
tranh giữa các mặt đối lập.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có sự thống nhất giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất, tích luỹ và tiêu dùng, giữa cung cà cầu… thì
khó có thể thúc đẩy kinh tế phát triển. Nghiên cứu về tính thống nhất giữa các
mặt đối lập giúp chúng ta có một thế giới quan đúng đắn trong việc nhận thức
thực tiễn và áp dụng trong việc xây dựng nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên tính thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ là tạm thời, tương
đối còn sự đấu tranh giữa chúng mới là cái thường xuyên diễn ra . Lenin viết
“ Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua,
tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng
như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối “. Khi xung đột giữa hai mặt đối
lập trở nên gay gắt, có điều kện chín muồi thì chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau,
mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự vật mới là
một thể thống nhất mới của hai mặt đối lập và quá trình đấu tranh lại diễn ra,
sự chuyển hoá cuối cùng lại được thực hiện và một sự vật mới hơn lại hình

thành làm cho sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh
giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của sự vận động và
phat triển.
Tóm lại, với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại
giữa hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập coa quan
hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có tính tương đối, tam thời, tạm thời,
nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của các sự vật hiện
tượng. Còn sự đấu tranh của mối quan hệ có tính tuyệt đối, nó phá vỡ sự ổn
định dẫn đến sự chuyễn hoá về chất của các mặt đối lập gắn liền với sự tự
thân vận động, tự thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiện
tượng trong thế giới vật chất.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Kinh tế thị trường và nhữn động lực phát triển của nó.
1. Những đặc điểm chung của kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế trong đó các mối quan hệ kinh
tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là
thông qua việc mua – bán , trao đổi hàng hoá - tiền tệ . Trong kinh tế thì
trường, các quan hệ hàng hoá - tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát nhiều lĩnh
vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy
sinh và hoạt động một cách khách quản trong những điều kiện lịch sử nhất
định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã
hội. Trong mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, sự vận hành của nền kinh tế chủ
yếu dựa vào mệnh lệnh, kế hoạch của Nhà nước và hệ thống bao cấp tư sản
xuất đến tiêu dùng. Cơ chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh được sự phân
cực xã hội nhưng lại bộc lộ nhiều nhược điểm cơ bản như: các quy luật kinh
tế bị coi thường, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của người lao động cũng
không được phát huy. Sự xuất hiện của nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường đã thể hiện được những ưu điểm vượt trội của nó như là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã

hội … Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết điểm như tính tự
phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp …
•KTTT là kinh tế hàng hóa, với đặc trựng phổ biến là người sản xuất
làm ra sản phẩm với mục đích để bán , để trao đổi chứ không phải để tự tiêu
dùng.
•KTTT là nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu về thành phần
kinh tế, về hình thức phân phối.
•KTTT được sử dụng như một công cụ, một phương tiện để phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao
động nhằm mục tiêu đân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh.
•KTTT luôn luôn vận động, phát triển. Do đó để nâng cao hiệu lực quản
lý của nhà nước, các chính sách kinh tế vĩ mô phải thường xuyên được bổ
xung hoàn thiện.
•KTTT gắn liền với Nhà nước pháp quyền và Nhà nước sẽ quản lý chủ
yếu bằng pháp luật.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Một số đặc điểm nổi bật của nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới được tiến hành hơn 10 năm qua ở nước ta gắn liền với
việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, nền
kinh tế mà nước ta đang xây dựng là nền KTTT định hướng XHCN. Đặc biệt,
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH được Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua năm
1991 đã nêu lên những đặc trưng cơ bản của nền KTTT và phát triển nền
KTTT định hướng XHCN. Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước theo định hướng XHCN, đó là nền KTTT theo định hướng XHCN”

•Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng
có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế - hội đất nước. Nền kinh tế
hàng hoá, nền KTTT là 1 nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu.
•Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị
trường với sự tham gia quản lí, điều tiết của nhà nước.
•Nền KTTT định hương XHCN ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập
trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tiến trình
xã hội hoá trên cơ sở phát triển của KTTT là không có biên giới quốc gia về
phương diện kinh tế.. Vì vậy mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và
kinh tế thế giới là tất yều đối với nước ta.
•Bên cạnh đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm
công băng xã hội cũng là một nội dung quan trọng trong nền KTTT nước ta.
Khác với nhiều nước, nước ta phát triển KTTT nhưng chủ trương bảo đảm
công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta.
Mức độ bảo đảm công băng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả
năng và sức mạnh kinh tế quốc gia.
Tóm lại, quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta
phải là “ quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một
xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá , có kỉ cương, xoá bỏ áp bức bất
công tạo điều kiện cho mọi ngườ có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc ”.
6

×