Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Bồi dưỡng cho sinh viên cao đẳng sư phạm ngành giáo dục tiểu học năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học môn Toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 96 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH





NGUYỄN THỊ HÒA THANH


BỒI DƯỠNG CHO SINH VIÊN
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC
NĂNG LỰC THIẾT KẾ, CHẾ TẠO ĐỒ DÙNG
DẠY HỌC MÔN TOÁN


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC








NGHỆ AN, 2014

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH



NGUYỄN THỊ HÒA THANH


BỒI DƯỠNG CHO SINH VIÊN
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC
NĂNG LỰC THIẾT KẾ, CHẾ TẠO ĐỒ DÙNG
DẠY HỌC MÔN TOÁN



Chuyên nghành: Lí luận và phương pháp dạy học Toán
Mã số: 60.14.01.11



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. CHU TRỌNG THANH




NGHỆ AN, 2014

3

LỜI CẢM ƠN


Luận văn được thực hiện và hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Chu Trọng Thanh. Tác giả bày tỏ lòng biết ơn đến thầy về sự hướng dẫn tận
tình mà thầy đã dành cho tác giả trong suốt quá trình làm luận văn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trong khoa Sau Đại học, quý
thầy cô khoa trong Toán và các thầy cô trong trường đã dạy, tạo điều kiện,
hướng dẫn tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Ban giám hiệu, trong
khoa Tiểu học Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, các trường tiểu học trong
tỉnh Ninh Thuận đã tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn .
Cũng nhân dịp này, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp - những người luôn cổ vũ động viên tác giả trong quá trình học
tập và nghiên cứu đề tài luận văn.
Tuy tác giả đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện luận văn nhưng
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót cần được góp ý, sửa chữa. Tác giả
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy, cô và bạn đọc./.

Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 06 năm 2014
Tác giả








4
MỤC LỤC
Chương 1 6

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG CHO SINH
VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC NĂNG LỰC THIẾT KẾ, CHẾ TẠO
ĐỒ DÙNG DẠY HỌC MÔN TOÁN 6
1.1. Một số định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn toán tiểu học 6
1.1.1. Tính cấp thiết và những yêu cầu đặt ra của việc đổi mới phương pháp
dạy học 7
1.1.2. Các dịnh hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán 9
1.2. Một số vấn đề lý luận về phương tiện dạy học. 13
1.2.1. Khái niệm về phương tiện dạy học. 13
1.2.2. Các chức năng của phương tiện dạy học. 15
1.2.3. Phân loại phương tiện dạy học 16
1.2.4. Một số lưu ý về vấn đề sử dụng phương tiện dạy học 18
1.2.5. Phương tiện trực quan trong dạy học 19
1.2.6. Khái niệm về đồ dùng dạy học 30
1.3. Một số vấn đề lý luận về đào tạo giáo viên 31
1.3.1. Quan niệm về quá trình học 31
1.3.2. Một số quan niệm về đào tạo giáo viên 34
1.4. Đặc điểm của sinh viên ngành Giáo dục tiểu học và nhiệm vụ đào tạo
giáo viên tiểu học 37
1.5. Khảo sát thực tế 38
1.5.1. Mục đích điều tra khảo sát thực tế 38
1.5.2. Nội dung khảo sát thực tế 38
1.5.3. Phương pháp khảo sát thực tế 38
1.5.4. Địa bàn khảo sát thực tế 39
1.5.5. Đối tượng khảo sát 39
1.5.6. Kết quả khảo sát thực tế 39
1.5.7. Thực trạng đồ dùng dạy học được khảo sát trên các khía cạnh: 43
Kết luận chương 1: 48
Chương 2 49
BỒI DƯỠNG CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC NĂNG

LỰC THIẾT KẾ, CHẾ TẠO ĐỒ DÙNG DẠY HỌC MÔN TOÁN TIỂU HỌC49
2.1. Phân tích nội dung môn toán tiểu học và nhu cầu sử dụng phương tiện
dạy học 49
2.1.1. Vị trí của môn toán ở bậc Tiểu học 49
2.1.2. Mục tiêu của môn toán ở tiểu học 49
2.1.3. Các mạch kiến thức trong hương trình toán ở tiểu học 50

5
2.1.4. Nội dung cụ thể của môn toán tiểu học và nhu cầu cần sử dụng phương
tiện dạy học 50
2.2. Một số yếu tố trong năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học môn
toán tiểu học cho sinh viên cao đẳng ngành tiểu học. 54
2.2.1. Khái niệm về năng lực 54
2.2.2. Năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học 54
2.3. Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy
học môn Toán tiểu học cho sinh viên cao đẳng sư phạm ngành Giáo dục tiểu
học 62
2.3.1. Một số định hướng xây dựng các biện pháp 62
2.3.2. Một số biện pháp sư phạm bồi dưỡng năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng
dạy học môn Toán tiểu học cho sinh viên cao đẳng sư phạm ngành Giáo dục
tiểu học 63
2.4. Giới thiệu một số mẫu đồ dùng dạy học có thể sử dụng cho sinh viên
nghiên cứu chế tạo, cải tiến và sử dụng 68
2.4.1. Một số đồ dùng cầm tay của giáo viên có tích hợp một số chức năng 68
2.4.2. Một số đồ dùng dạy học kiến thức hệ thống số 69
2.4.3. Một số đồ dùng dạy học kiến thức các yếu tố hình học 72
2.4.4. Một số đồ dùng dạy học kiến thức về các yếu tố thống kê 74
Kết luận chương 2 75
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 76
3.1. Mục đích thực nghiệm 76

3.2. Tổ chức và nội dung thực nghiệm 76
3.2.1. Tổ chức thực nghiệm 76
3.2.2. Nội dung thực nghiệm 76
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm 87
3.3.1. Đánh giá định tính 87
3.3.2. Đánh giá định lượng 87
Kết luận chương 3 88
KẾT LUẬN 89

1
MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
1. Giáo dục tiểu học có chức năng hình thành nền móng tri thức, phát
triển năng lực trí tuệ và các phẩm chất tâm lý khác của thế hệ trẻ. Chất lượng
giáo dục tiểu học có ảnh hưởng lớn đến khả năng phát triển của học sinh trong
những năm học tập về sau. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục
phải được chú ý bắt đầu từ quá trình dạy học, giáo dục ở bậc tiểu học. Trong
thực tế hiện nay, nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng giáo dục
tiểu học nói riêng đang là một đòi hỏi bức thiết của xã hội đối với sự nghiệp
giáo dục ở nước ta.
Trong các môn học ở bậc tiểu học, môn Toán có một vị trí quan trọng.
Kết quả học tập môn toán của học sinh tiểu học luôn là một trong các tiêu chí
được dùng để đánh giá sự phát triển của học sinh, đánh giá sự thành công hay
yếu kém của hoạt động giáo dục trong nhà trường.
2. Đặc điểm tâm lý nhận thức của học sinh tiểu học là tư duy trực quan
hành động đang chiếm một vị trí quan trọng. Việc nhận thức các kiến thức có
tính trừu tượng, khái quát luôn cần đến sự hỗ trợ của các vật thật, đồ dùng,
hình vẽ làm phương tiện trực quan. Dựa trên nguyên lý phản ánh, chính quá
trình thao tác với các đồ vật, hình vẽ đó học sinh hình thành được các kiến

thức, kỹ năng, phẩm chất trí tuệ cần thiết theo mục tiêu dạy học của môn học.
Ở bậc tiểu học, phương tiện dạy học nói chung, phương tiện trực quan nói
riêng, đóng góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng dạy học. Chính vì
vậy trong định hướng đổi mới giáo dục bậc tiểu học luôn đề cập đến vấn đề
đổi mới phương tiện dạy học. Đồ dùng dạy học là thuật ngữ thường được sử
dụng để chỉ những phương tiện dạy học chủ yếu mang tính vật chất, đơn giản,
gọn nhẹ, dễ sản xuất và sử dụng trong quá trình dạy học. Đồ dùng dạy học
của giáo viên, với tư cách là bộ đồ hành nghề dạy học, góp phần đáng kể vào
việc nâng cao hiệu quả bài lên lớp. Việc thiết kế, chế tạo và khai thác, sử

2
dụng các phương tiện dạy học nói chung, đồ dùng dạy học nói riêng được xác
định là một trong những nhiệm vụ của giáo viên trong quá trình thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay.
3. Kiến thức môn toán có tính logic chặt chẽ, có tính trừu tượng cao độ
và có ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn. Chương trình môn Toán ở bậc tiểu
học tuy đơn giản về mặt nội dung nhưng có tính lô gic chặt chẽ và tăng dần
mức độ khó khăn, phức tạp theo từng lớp học nên việc hình thành một cách
vững chắc hệ thống kiến thức, kỹ năng cho học sinh cần được chú ý ngay từ
buổi đầu. Việc sử dụng đồ dùng dạy học và tổ chức hoạt động dạy học thích
hợp sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức một cách chuẩn xác, hình thành
được các kỹ năng cần thiết, phát triển được năng lực tư duy. Nói như vậy cho
thấy việc sử dụng hợp lý đồ dùng dạy học môn Toán sẽ góp phần thực hiện
yêu cầu nâng cao hiệu quả học tập của học sinh.
4. Trong nước cũng như trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên
cứu về viêc sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng dạy học môn
Toán cho bậc tiểu học nói riêng. Gần đây những công trình của Trần Trung,
Phó Đức Hòa và Ngô Quang Sơn, Phạm Đình Thực, đã đề cập đến vấn đề
này. Hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các Sở Giáo dục – Đào tạo đã tổ
chức nhiều Hội thảo, cuộc thi về sáng tạo đồ dùng dạy học. Đã có nhiều ý

tưởng mới được đề xuất và hiện thực hóa trong thực tiễn dạy học. Tuy nhiên,
so với yêu cầu của hệ thống giáo dục tiểu học, phương tiện dạy học vẫn còn
thiếu. Hơn nữa, nghề dạy học là một nghề đòi hỏi có sự sáng tạo không ngừng
của giáo viên. Mỗi giáo viên khi dạy học sử dụng các phương pháp, phương
tiện và kỹ thuật phù hợp với bản thân mình sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Do
đó trong quá trình đào tạo giáo viên nói chung, đào tạo giáo viên Toán nói
riêng, cần quan tâm đến việc bồi dưỡng cho sinh viên năng lực sáng tạo các
phương tiện dạy học, phục vụ cho công tác chuyên môn sau khi ra trường.
5. Hiện nay, qua khảo sát thực tiễn, chúng tôi nhận thấy đồ dùng dạy
học môn toán bậc tiểu học còn thiếu nhiều. Còn nhiều giáo viên chưa chủ

3
động trong việc tạo ra những đồ dùng dạy học cần thiết để sử dụng trong các
bài lên lớp. Khi phân tích chương trình dạy học ngành Giáo dục tiểu học ở
trường Cao đẳng sư phạm cũng thấy vấn đề bồi dưỡng năng lực thiết kế, chế
tạo và sử dụng đồ dùng dạy học môn toán tiểu học cho sinh viên cũng chưa
được chú trọng đúng mức cần thiết.
Vì những lí do trên, vậy chúng tôi chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình
là: Bồi dưỡng cho sinh viên Cao đẳng Sư phạm ngành Giáo dục Tiểu học
năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học môn Toán.
II. Mục đích nghiên cứu
Giúp sinh viên ngành Giáo dục tiểu học biết phân tích nội dung dạy học
môn Toán và vận dụng những hiểu biết lý luận về phương pháp dạy học có
được năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học môn Toán tiểu học thông qua
đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên tiểu học ở trường CĐSP.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Nghiên cứu lý luận dạy học môn toán, nghiên cứu chương trình toán tiểu
học, nghiên cứu lí luận phương tiện dạy học môn toán.
2. Khảo sát thực trạng việc sử dụng đồ dùng dạy học môn toán ở bậc tiểu học.
3. Đề xuất các hướng tổ chức cho sinh viên ngành cao đẳng sư phạm tiểu học

thiết kế, chế tạo và sử dụng đồ dùng dạy học môn Toán tiểu học.
4. Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các đề xuất.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn sử dụng đồ dùng dạy học môn Toán hiện
nay.
- Nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng năng lực nghề cho sinh viên cao đẳng sư
phạm ngành Giáo dục tiểu học.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề về bồi dưỡng năng lực thiết kế và sử dụng đồ dùng
dạy học Toán ở bậc tiểu học cho sinh viên cao đẳng sư phạm ngành Giáo dục

4
tiểu học.
- Khảo sát thực tế trên địa bàn các trường Tiểu học tỉnh Ninh Thuận;
V. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tổng hợp, hệ thống hóa các tư liệu về lý
luận dạy học, về phương tiện dạy học, về nội dung môn toán ở trường phổ
thông, về định hướng phát triển nên giáo dục Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ XXI,
2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn: Thu thập số liệu về thực trạng
dạy và học môn Toán ở bậc tiểu học, thực trạng công tác đào tạo giáo viên
tiểu học ở nước ta hiện nay, thực trang năng lực thiết kế, chế tạo và khai thác
đồ dùng dạy học của giáo viên toán tiểu học,
3. Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng
sự khả thi và tính hiệu quả của những đề xuất trong quá trình nghiên cứu.
4. Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê toán học.
VI. Giả thuyết khoa học
Trong dạy học các học phần nghiệp vụ sư phạm ngành Giáo dục tiểu học ở
trường Cao đẳng sư phạm nếu giáo viên quan tâm đến việc bồi dưỡng cho

sinh viên năng lực thiết kế, chế tạo và sử dụng đồ dùng dạy học theo các định
hướng thích hợp thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên tiểu
học.
VII. Đóng góp của luận văn
1. Hệ thống hóa tư liệu về lý luận dạy học toán, đặc biệt là các tư liệu về quá
trình nhận thức, tư liệu về phương tiện dạy học làm thành một tài liệu tham
khảo trong công tác chuyên môn.
2. Khảo sát và phân tích việc sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn
toán ở bậc tiểu học hiện nay, qua đó cung cấp một tài liệu tổng quan về hệ
thống đồ dùng dạy học trong chương trình môn toán tiểu học.
3. Thiết kế một số định hướng và phương pháp bồi dưỡng cho sinh viên sư
phạm ngành tiểu học năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học trong dạy học

5
toán tiểu học.
VIII. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Một số định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn toán tiểu học
1.2. Một số vấn đề lý luận về phương tiện dạy học
1.3. Thực trạng sử dung đồ dùng dạy học môn Toán Tiểu học hiện nay (khảo
sát tại một số trường Tiểu học ở Ninh Thuận)
Chương 2. Bồi dưỡng năng lực thiết kế, chế tạo bộ đồ dùng dạy học kiến thức
môn Toán tiểu học.
2.1. Phân tích nội dung môn toán tiểu học và những nhu cầu sử dụng phương
tiện dạy học
2.2. Một số yếu tố trong năng lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học toán tiểu
học cho sinh viên cao đẳng sư phạm ngành tiểu học.
2.3. Bồi dưỡng năng lực lực thiết kế, chế tạo đồ dùng dạy học toán tiểu học
cho sinh viên cao đẳng sư phạm ngành tiểu học.

Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
3.1.Xác định mục đích thực nghiệm
3.2.Tường trình quá trình thực nghiệm
3.3.Đánh giá kết quả thử nghiệm









6
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG
CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC NĂNG LỰC
THIẾT KẾ, CHẾ TẠO ĐỒ DÙNG DẠY HỌC MÔN TOÁN
1.1. Một số định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn
toán tiểu học
Khái niệm Phương pháp dạy học đã được đề cập đến trong nhiều tài
liệu về lý luận dạy học. Theo nghĩa rộng thì đó là toàn bộ những vấn đề lý
luận và thực hành liên quan đến việc xác định mục đích của quá trình dạy
học, về nội dung dạy học, về các điều kiện cần thiết để tiến hành quá trình dạy
học, về cách thức tổ chức quá trình dạy học, về cách tiến hành những hoạt
động của giáo viên nhằm làm cho học sinh thu nhận, kiến tạo những tri thức,
kỹ năng, phẩm chất nhân cách theo mục tiêu đã xác định. Theo nghĩa hẹp thì
phương pháp dạy học là con đường, là cách thức hoạt động của thầy và trò
nằm làm cho học sinh đạt được mục đích của quá trình dạy học.
Đã có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu vấn đề phương pháp dạy học.

Mỗi cách tiếp cận đó giúp đi sâu nghiên cứu những phương diện cụ thể của
phương pháp dạy học. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung
quanh việc xác định rõ nội hàm của khái niệm phương pháp dạy học, sự phân
loại các phương pháp dạy học, các thành tố cấu tạo nên phương pháp dạy
học, Trong luận văn này chúng tôi nói đến khái niệm Phương pháp dạy học
theo nghĩa được dùng phổ biến hiện nay: Phương pháp dạy học là con đường,
là cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh dưới sự chủ đạo của giáo
viên làm cho học sinh đạt được các mục đích phát triển về kiến thức, kỹ năng,
tư duy và thái độ. Nói như vậy có nghĩa là Phương pháp dạy học có chức
năng như là phương tiện, là công cụ mà giáo viện sử dụng để làm cho học
sinh hoạt động và phát triển theo mục đích đã được xác định. Phan Trọng Ngọ

7
trong [1, tr.184] cho rằng “Phương pháp dạy học giống như đồ nghề của
người thợ mộc, chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử dụng chúng tùy thuộc
vào mục đích và khả năng sử dụng của người dạy và học, tùy thuộc vào hoàn
cảnh dạy học cụ thể: đối tượng học viên môi trường sư phạm (lớp học, thiết bị
dạy học và không khí học tập,…). Trong thực tiễn không một giáo viên có
kinh nghiệm nào lại sử dụng đơn điệu một phương pháp trong hoạt động dạy
học của mình. Dạy học cũng như người thợ mộc, để thực hiện một thao tác
nhằm tạo ra một chi tiết thì chỉ cần một công cụ, nhưng muốn có một sản
phẩm trọn vẹn (ngôi nhà, bàn ghế, giường, tủ,…) thì phải phối hợp nhiều thao
tác sử dụng nhiều công cụ khác nhau. Nghệ thuật dạy học là nghệ thuật phối
hợp các phương pháp dạy học trong một tiết, một bài dạy của người giáo
viên.”
1.1.1. Tính cấp thiết và những yêu cầu đặt ra của việc đổi mới
phương pháp dạy học
Theo Chương trình hành động của ngành Giáo dục thực hiện Chiến lược
phát triển giáo dục Việt Nam 2011-2020, Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012
của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và Chỉ thị số

02/CT-TTg ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo (Ban hành kèm theo Quyết định số 1215/QĐ-BGDĐT
Ngày 04 tháng 4 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) Trong
đó: cụ thể trong giai đoạn 2013-2015 sẽ Hoàn thiện Đề án “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nhằm khắc phục những yếu
kém, bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo
trong thời gian qua.
Cũng trong giai đoạn này Chương trình hành động trên có nêu rõ việc
Đổi mới quản lý giáo dục và Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo

8
dục, trong đó:
“Triển khai thực hiện Chương trình phát triển ngành sư phạm và các
trường sư phạm đến năm 2020.
- Triển khai quy chế bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ
thông và giáo dục thường xuyên nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp của đội
ngũ theo yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên các cấp. Hướng dẫn cơ sở tự
xác định nhu cầu bồi dưỡng và xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ.” Và:
“Triển khai các dự án, đề án về đổi mới phương pháp dạy học”
Cũng bàn về đổi mới phương pháp dạy học, Một số tác giả đã cho rằng:
- Phương pháp dạy học liên hệ chặt chẽ với mục tiêu, nội dung, phương
tiện dạy học và các điều kiện khác nên chiến lược đổi mới phương pháp
không thể thực hiện một cách riêng lẻ. Phải đổi mới đồng bộ mà trước hết là
từ mục đích giáo dục, hệ thống giáo dục. Chiến lược đổi mới phương pháp
phải nằm trong chiến lược chung.
- Vai trò của người học nếu muốn được thay đổi về cơ bản thì trước hết
phải hình thành ở họ các phẩm chất, thói quen và năng lực ngay từ khi đến
trường, tức là phải đổi mới phương pháp dạy học ngay từ bậc tiểu học, hay

nói cách khác là từ lớp 1. Hình thành được thói quen, đặc biệt là thói quen và
cách thức suy nghĩ là rất khó khăn và cần được diễn ra trong cả một quá trình
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
- Đội ngũ giáo viên giữ vai trò quyết định trong công việc đổi mới
phương pháp dạy học.
Nói về đổi mới phương pháp dạy học, Phạm Đình Thực [4] đã đưa ra
một số ý kiến về việc cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng khả
thi khi đưa ra một ví dụ về một vận động viên mạnh khỏe dù chạy nhanh đến
đâu cũng không nhanh bằng một người ốm yếu lái một chiếc xe Hon da.
Trong triết học cũng cho ta biết một sự hơn hẳn về chất sẽ tạo ra một sức
mạnh áp đảo, một thế chiến thắng tuyệt vời. Tuy nhiên, tìm ra một phương

9
pháp dạy học tương tự như “chiếc xe Honda” nói trên để trang bị cho mỗi
giáo viên tiểu học trong điều kiện hiện nay cũng hơi khó, bởi vì chúng ta còn
nghèo, do đó phương án này không khả thi, Song không khả thi không có
nghĩa là chúng ta lại bó tay và quay lại lối cũ, loay hoay tìm cách để nâng cao
tốc độ chạy bộ, vì làm vậy tuy có nhanh hơn chút song chẳng đáng là bao.
Ở đây chúng ta cần nghĩ tới một phương pháp dạy học tương tự như
“một chiếc xe đạp” hay “một chiếc xe đạp điện” chẳng hạn. Như thế thì mỗi
giáo viên tiểu học hiện nay đều có thể tự trang bị được, vì nó vừa ít tốn kém,
vừa dễ sử dụng mà tốc độ cũng không thua kém nhiều lắm so với một chiếc
Hon da.
Do đó mục tiêu của chúng ta là tìm ra một phương pháp dạy học tương
tự như “chiếc xe đạp” vì có thể trang bị cho mọi giáo viên mà mà không gặp
khó khăn lắm, mặt khác nó cũng dễ thực hiện và ít tốn kém.
1.1.2. Các dịnh hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán
Những nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục nước ta như Phạm
Minh Hạc [12], Trần Kiều [18], Nguyễn Bá Kim [19], Đào Tam [44]…cho
thấy: Đổi mới phương pháp dạy học môn Toán trong trường phổ thông nước

ta hiện nay cần tập trung vào một số định hướng sau:
1.1.2.1. Xác lập vị trí chủ thể của học sinh, đảm bảo tính tự giác,
tích cực, chủ động và sáng tạo của hoạt động học tập
Người học là chủ thể kiến tạo kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành
thái độ chứ không phải là hoàn toàn làm theo lệnh của thầy giáo. Vai trò chủ
thể của người học được khẳng định trong quá trình họ học tập trong hoạt động
và bằng hoạt động tự giác, tích cực chủ động và sáng tạo của chính bản thân
mình.Tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh được đảm bảo
thông qua những hoạt động học tập được hướng đích và gợi động cơ để
chuyển hoá nhu cầu xã hội thành nhu cầu nội tại của bản thân. học sinh chỉ có
thể phát huy được tính sáng tạo khi được học tập trong hoạt động và bằng

10
hoạt động. Tuỳ theo mục tiêu và hoàn cảnh cụ thể, có thể tổ chức cho học
sinh hoạt động độc lập hoặc trong giao lưu, hợp tác. Cả hai hình thức tổ chức
này đều rất quan trọng đối với phương pháp dạy học hiện đại. Một mặt, mặc
dù trong quá trình học tập vẫn có cả những pha học sinh hoạt động dưới sự
dẫn dắt của thầy hoặc có sự hỗ trợ của bạn, nhưng hoạt động độc lập của học
sinh là thành phần không thể thiếu để đảm bảo thành công của quá trình dạy
học. Mặt khác, do bản chất xã hội của việc học tập, phương diện giao lưu
ngày càng được quan tâm và nhấn mạnh trong phương pháp dạy học. Những
hình thức học theo nhóm, học theo cặp, học và dạy học lẫn nhau… ngày càng
được tăng cường.
1.1.2.2. Tri thức được đặt trong những tình huống có dụng ý sư
phạm
Theo chủ nghĩa kiến tạo trong tâm lý học, học tập chủ yếu là một quá
trình trong đó người học xây dựng kiến thức cho mình bằng cách thích nghi
với môi trường sinh ra những mâu thuẫn, những khó khăn và những sự mất
cân bằng. Vì vậy, người giáo viên thường cài đặt tri thức vào những tình
huống thích hợp để học sinh chiếm lĩnh nó thông qua hoạt động tự giác, tích

cực, chủ động và sáng tạo của bản thân. Tất nhiên, một môi trường không có
dụng ý sư phạm là không thể đủ để chủ thể (học sinh) kiến tạo được tri thức
theo đúng yêu cầu xã hội đặt ra. Do đó, điều quan trọng là thiết lập những tình
huống có dụng ý sư phạm để học sinh học tập trong hoạt động, học tập bằng
thích nghi.
1.1.2.3. Dạy việc học và tự học thông qua toàn bộ quá trình dạy học
Mục đích dạy học không phải chỉ là kết quả điểm số cụ thể của môn
học, của quá trình học mà điều quan trọng hơn là ở bản thân của việc học, ở
cách học cũng như khả năng đảm nhiệm, tổ chức và thực hiện quá trình học
tập một cách có hiệu quả. Ý tưởng này ngày càng được nhấn mạnh trong lý
luận và thực tiễn dạy học trên quy mô quốc tế: Learning how to learn. Ý

11
tưởng này chỉ có thể thực hiện được trong những quá trình mà người học thật
sự hoạt động để đạt được những gì mà họ cần đạt. Khả năng tự học cần được
rèn luyện ngay trong khi còn là học sinh. Vì vậy, trọng tâm của quá trình dạy
học là phải dạy phương pháp học bao hàm cả dạy tự học. Việc dạy tự học
đương nhiên không chỉ có thể thực hiện được trong một cách dạy học mà học
sinh là chủ thể của nhận thức, tự họ hoạt động để đáp ứng nhu cầu của xã hội
đã được chuyển hoá thành nhu cầu của cá nhân. Việc nhấn mạnh vai trò của
tự học và dạy tự học không có ý nghĩa là phủ nhận bản chất xã hội của học
tập. Tự học không có nghĩa là cô lập người học khỏi xã hội, không có nghĩa
bao giờ cũng để người học đơn thương độc mã suy nghĩ từ A đến Z mọi thứ.
Biết tự học cũng có nghĩa là biết kế thừa những di sản văn hoá của nhân loại,
biết khai thác những phương tiện mà loài người cung cấp cho mình để thực
hiện quá trình học tập. Để hiểu nghĩa của một số thuật ngữ trong một bài văn,
học sinh có thể và biết cách tra từ điển. Để tự học giải bài tập toán học, khi
mà sự suy nghĩ của riêng cá nhân học sinh không thể giải quyết được vấn đề
đặt ra, học có thể và cần biết đọc sách, trong đó mức độ hỗ trợ có thể chỉ dừng
ở việc cho đáp số nhưng cũng có thể ở mức độ cao hơn: hướng dẫn cách giải.

1.1.2.4. Chế tạo và sử dụng phương tiện dạy học làm gia tăng sức
mạnh của giáo viên và học sinh trong quá trình tác động vào đối tượng nhận
thức của học sinh
Loài người có sự phát triển tiến bộ vượt xa loài vật ở chỗ loài người là
loài duy nhất trên trái đất biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Phương
tiện dạy học làm gia tăng sức mạnh của người sử dụng chúng. Từ những đồ
dùng dạy học đơn giản như thước, compa…đến phương tiện kỹ thuật hiện đại
như thiết bị nghe nhìn, công nghệ thông tin và truyền thông chứa đựng những
tình huống sư phạm giúp cho người thầy cô giáo tổ chức hoạt động dạy và
học một cách sinh động và đạt hiệu quả cao hơn, đặc biệt là việc ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông đang ngày càng phát huy thế mạnh của
nó trên toàn thế giới.

12
1.1.2.5. Tạo niềm lạc quan học tập dựa trên lao động và thành quả
của bản thân người học
Từ lạc quan đến hứng thú, từ hứng thú đến tích cực hoạt động và kết
quả thu được là nhận thức và tài năng đó là công thức của các chuyên gia về
giáo dục học đưa ra. Hoạt động học tập ngoài đòi hỏi tính tích cực, tự giác,
độc lập và sáng tạo của người học thì còn phải mang lại niềm vui, hứng thú
lạc quan cho người học. Niềm vui này có thể có được bằng nhiều cách khác
nhau, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là niềm lạc quan trong hoạt động lao động
và thành quả học tập của bản thân người học. Chính việc giải được một bài
tập khó, phát hiện ra một điều mới mẻ khơi ngợi nguồn cảm hứng học tập cho
học sinh. học sinh tự mình vật lộn tìm tòi, giải quyết được các tình huống có
vấn đề sẽ cảm thấy sung sướng và tự hào về bản thân mình hơn rất nhiều là
tiếp nhận thụ động những kiến thức từ người khác áp đặt sẵn cho mình. Cho
nên, cần tổ chức học tập cho học sinh sao cho học luôn cảm thấy mình gần tới
đích, chỉ cần nỗ lực gắng sức là có cơ hội thành công.
1.1.2.6. Xác định vai trò mới của người thầy với tư cách là người

thiết kế, uỷ thác, điều khiển và thể chế hoá.
Khẳng định vị trí chủ thể của học sinh dễ dẫn đến sự ngộ nhận về sự
giảm sút vai trò của GV. Thực ra, xác lập vị trí chủ thể của người học không
hề làm suy giảm, ngược lại còn nâng cao vai trò, trách nhiệm của người thầy.
Đối với học sinh diện phổ cập, không có vai trò của người thầy thì người học
không thể đảm nhiệm được vị trí chủ thể, không thể hoạt động tự giác, tích
cực và chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập.
Mặt khác, sẽ là bảo thủ nếu cho rằng tính chất vai trò của người thầy
giáo vẫn như xưa. Trong khi khẳng định vai trò của người thầy không hề suy
giảm, cần phải thấy rằng tính chất của vai trò này đã thay đổi: Thầy không
phải là nguồn phát tin duy nhất. Thầy không phải là người chỉ huy, ra lệnh
một cách khiên cưỡng, thầy không phải là người hoạt động chủ yếu ở hiện

13
trường. Trong quá trình dạy học, chính trò mới đóng vai trò trung tâm, vai trò
trách nhiệm của thầy bây giờ quan trọng hơn, nhưng cũng tế nhị hơn. Thầy là
người thiết kế, uỷ thác, điều khiển và thể chế hoá.
+ Thiết kế là lập kế hoạch, chuẩn bị quá trình dạy học cả về mục đích,
nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức.
+ Uỷ thác là biến ý đồ dạy của thầy thành nhiệm vụ học tập tự nguyện,
tự giác của trò, là chuyển giao cho trò không phải những tri thức dưới dạng có
sẵn mà là những tình huống để trò hoạt động và thích nghi.
+ Điều khiển, kể cả điều khiển về mặt tâm lí, bao gồm sự động viên,
hướng dẫn trợ giúp và đánh giá.
+ Thể chế hoá là xác nhận những kiến thức mới phát hiện, đồng nhất
hóa những kiến thức riêng lẻ mang màu sắc cá thể của từng HS, phụ thuộc
hoàn cảnh và thời gian của từng học sinh thành tri thức khoa học của nhân
loại, chuẩn hoá theo chương trình cả về mức độ lẫn yêu cầu và cách thức diễn
đạt, hướng dẫn vận dụng và ghi nhớ hoặc giải phóng khỏi trí nhớ nếu không
cần thiết.

1.2. Một số vấn đề lý luận về phương tiện dạy học.
1.2.1. Khái niệm về phương tiện dạy học.
Theo Phan Trọng Ngọ [1] thì Phương tiện dạy học là toàn bộ sự vật,
hiện tượng trong thế giới, tham gia vào quá trình dạy học, đóng vai trò là
công cụ hay điều kiện để giáo viên và học viên sử dụng làm khâu trung gian
tác động vào đối tượng dạy học. Phương tiện dạy học có chức năng khơi dậy,
dẫn chuyền và làm tăng sức mạnh tác động của người dạy và người học đến
đối tượng dạy học.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Châu [2] thì “các giáo viên thường bị trách
cứ là “nói quá nhiều”. Điều đó có nghĩa là giáo viên đã lạm dụng từ ngữ
trong việc biểu đạt ý nghĩa. Có một số giáo viên không bao giờ để ý đến việc
học sinh có thực sự hiểu và hứng thú với những gì mình nói hay không. Nhiều

14
giáo viên thường có xu hướng “nói cho” học sinh nghe chứ không phải là “nói
với” chúng.
Thực ra có thể sử dụng rất nhiều loại công cụ để làm cho bài giảng rõ
ràng hơn và hấp dẫn hơn. Những công cụ này thường được gọi là phương tiện
dạy học được dùng để hỗ trợ cho công việc của giáo viên. Tuy nhiên, việc sử
dụng các công cụ này một cách đơn điệu, cứng nhắc thường không thể mang
lại hiệu quả trong dạy học. Việc lựa chọn kĩ lưỡng và xử lý thuần thục của
giáo viên khi sử dụng các phương tiện dạy học trong giờ lên lớp mới mang lại
hiệu quả của các thiết bị này trong việc giúp học sinh nhận thức tốt bài học.
Với sự phát triển của công nghệ hiện đại, giờ đây phương tiện dạy học ngày
càng phong phú và tiện dụng. Khi lên lớp giáo viên có nhiều lựa chọn các
phương tiện hỗ trợ cho bài giảng của mình, học sinh có cơ hội được quan sát,
hành động trên nhiều loại phương tiện, công cụ để kiến tạo kiến thức, phát
triển tư duy và rèn luyện kỹ năng. Công cụ ngôn ngữ không còn là loại
phương tiện dạy học có tính độc tôn trong nhà trường nữa. Điều quan trọng
đối với giáo viên là làm quen với các loại phương tiện dạy học khác nhau

cũng cần có kiến thức về lựa chọn và đánh giá các thiết bị này cũng như các
nguyên tắc sử dụng chúng một cách có hiêu quả.
Khi đề cập đến phương pháp dạy học, ít nhất cần lưu ý các điểm sau:
Thứ nhất: Một vật (hoặc một hiện tượng) nào đó được coi là phương
tiện dạy học khi và chỉ khi nó được đặt trong mối quan hệ giữa nó với đối
tượng dạy. Đó là mối quan hệ phương tiện - mục đích.
Thứ hai: Một vật nào đó có thể trở thành phương tiện dạy học nếu nó
đảm nhận vai trò là công cụ hay là điều kiện để giáo viên hoặc học sinh tác
động vào đối tượng dạy học.
Thứ ba: phương tiện dạy học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làn
tăng sức mạnh tác động của giáo viên hoặc học sinh tới đối tượng dạy học.
Một phương tiện trở thành phương tiện dạy học theo đúng nghĩa của nó khi và
chỉ khi người giáo viên – học viên biết cách sử dụng nó.

15
Thứ tư: Trong quá trình dạy học tồn taị hai hoạt động vừa độc lập vừa
phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ biện chứng vơí nhau là hoạt động dạy và hoạt
động học. Vì vậy, trong thực tế có các phương tiện dạy của giáo viên và
phương tiện học của học sinh. Hai loại phương tiện này vừa độc lập vừa phụ
thuộc lẫn nhau và quan hệ chuyển hoá cho nhau.
Thứ năm: Theo C.Mác “yếu tố quyết định trình độ hoạt động không
phải là tạo ra cái gì, mà là tạo ra cái đó bằng cách nào và bằng phương tiện
nào?” chuyển luận điểm này vào trong dạy học sẽ là: Yếu tố quyết định trình
độ hoạt động dạy học không phải ở chỗ dạy và học cái gì, mà là dạy và học
cái đó bằng phương pháp và phương tiện nào.
1.2.2. Các chức năng của phương tiện dạy học.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Châu [2] và tác giả Nguyễn Bá Kim [8] thì
các giá trị giáo dục của các phương tiện dạy học là rất lớn. Giáo viên cần hiểu
rõ những chức năng quan trọng của chúng để phục vụ cho mục đích dạy học.
- Những chức năng này bao gồm:

1. Giúp kiến tạo tri thức
Một số mô hình và hình ảnh mô phỏng giúp học sinh nâng biểu tượng
lên khái niệm từ đó hình thành tri thức.
2. Giúp rèn luyện kỷ năng, giúp học sinh tăng cường trí nhớ, làm cho
việc học tập được lâu bền
Phương tiện dạy học có thể hổ trợ rèn luyện kỷ năng sử dụng một công
cụ, ví dụ như từ điển, máy vi tính…
Phương tiện dạy học cũng có thể giúp học sinh rèn luyện một kỷ năng
thực hiện một hoạt động nào đó, ví dụ những mô hình hình học hổ trợ rèn
luyện học sinh kỷ năng quan sát, so sánh, phân tích…
3. Giúp kích thích hứng thú học tập, thúc đẩy sự giao tiếp, trao đổi
thông tin, do đó giúp học sinh học tập có hiêu quả, khuyến khích và thúc đẩy
học sinh học tập.
4. Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực

16
tiễn xã hội và môi trường sống.
5. Giúp khắc phục những hạn chế của lớp học bằng cách biến cái không
thể tiếp cận được thành cái có thể tiếp cận được. Điều này thực sự đúng khi sử
dụng phim ảnh và các phương tiện tương tự.
6. Cung cấp kiến thức chung, qua đó học sinh có thể phát triển các hoạt
động học tập khác.
7. Giúp phát triển mối quan tâm về các lĩnh vực học tập khác.
8. Khuyến khích học sinh tham gia chủ động vào quá trình dạy học.
1.2.3. Phân loại phương tiện dạy học
Các phương tiện dạy học có phổ rất rộng và đa dạng. Bất kỳ cái gì, hiện
tượng nào cũng có thể trở thành phương tiện dạy học: một khái niệm khoa
học, một kinh nghiệm đã có của học sinh khi được dùng để tiếp thu kiến thức
mới; một cành cây, con vật, đồ dùng trong sinh hoạt…Vì vậy, việc phân loaị
các phương tiện dạy học rất phức tạp và tùy thuộc vào các tiêu chí để phân

loại chúng:
1.2.3.1. Phân loại theo nguồn gốc, xuất xứ của sự vật, hiện tượng
khi trở thành phương tiện dạy học:
Các phương tiện dạy học có nguồn gốc từ chính nội dung hoạt động
dạy học: Đó là các khái niệm khoa học, kinh nghiệm xã hội… được hiện thực
hóa trong các sách giáo khoa, tài liêụ giảng dạy. Ngay chính bản thân phương
pháp dạy của giáo viên và phương pháp nhận thức của người học khi tiếp
nhận kiến thức mới cũng là các phương tiện dạy học. Đây là các phương tiện
dạy học quan trọng nhất, là một trong những nhân tố quyết định trình độ và
hiệu quả dạy học.
Các phương tiện có nguồn gốc từ chính người dạy và người học, đó là
ngôn ngữ tư duy, kinh nghiệm, các thao tác, các kỹ năng dạy học, các hành vi.
cử chỉ phi ngôn ngữ, tác phong…
Các phương tiện dạy học có nguồn gốc từ sự chế tác của con người,
được đưa vào trong quá trình dạy học.

17
Các phương tiện dạy học có xuất xứ từ tự nhiên, được con người khai
thác và sử dụng vào trong quá trình dạy học. Chẳng hạn, các mẩu khoáng vật,
đất đá, sông ngòi, ao hồ, núi non, cây cỏ…
1.2.3.2. Phân loại theo chức năng của các phương tiện trong quá
trình dạy học.
Có hai loại: phương tiện thay thế và phương tiện hổ trợ:
Các phương tiện thay thế: là các phương tiện có chức năng đại diện,
thay thế cho đối tượng mà ngưòi dạy và ngưòi học phải tác động. Loại
phương tiện này có vai trò to lớn trong dạy học. Bởi lẻ, nguyên tắc quan
trọng nhất trong việc tối ưu hoá quá trình dạy học hiện đại là người học phải
được làm việc trực tiếp vơí đối tượng học tập, lợi thế của loại phương tiện này
ở chổ, vừa là đại diện trực quan cho đối tượng học tập, vừa có tính khái quát.
Các phương tiện hổ trợ trong uqas trình dạy học: đó là các phương tiện

có chức năng là giá đỡ, dẫn truyền và làm tăng cường sức mạnh tác động của
hoạt động dạy và học lên đối tượng, giúp cho người dạy và người học thuận
lợi hơn, tiện lợi hơn khi tác động lên đôí tượng dạy học. Tuy nhiên, mặt trái
của nó là nếu lạm dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích, chức năng của
các phương tiện sẽ thụ động hóa, đơn điệu hóa các hoạt động dạy và học dẫn
đến “lợi bất cập hại”.
1.2.3.3. Phân loại theo đối tượng tác động của phương tiện dạy
học.
Nhóm phương tiện dạy học theo lứa tuổi học viên.
Nhóm các phương tiện theo nội dung môn học: Do đặc thù của các bộ
môn khoa học khác nhau, đòi hỏi phải có những phương tiện thay thế hoặc hổ
trợ; chẳng hạn ngôn ngữ dạy Toán phải khác ngôn ngữ dạy Văn hay các môn
học khác…
Nhóm các phương tiện dạy học theo chiều hướng tác động chủ đạo vào
nội dung dạy học.


18
1.2.4. Một số lưu ý về vấn đề sử dụng phương tiện dạy học
1.2.4.1. Sử dụng phương tiện dạy học thích ứng linh hoạt với
những ý đồ về phương pháp dạy học.
Những phương tiện dạy học có khả năng đáp ứng những nhu cầu đa
dạng. Mỗi phương pháp dạy học không đơn thuần chỉ sử dụng một phương
tiện dạy học. Ví dụ phương pháp vấn đáp có khi vừa sử dụng sách giáo khoa,
vừa sử dụng vật thật. Ngược lại một phương tiện dạy học có thể được sử dụng
cho nhiều phương pháp khác nhau, ví dụ một phương tiện trực quan như hình
vẽ hay mô hình có thể sử dụng vừa cho phương pháp trực quan vừa cho
phương pháp vấn đáp. Như vậy chúng ta cần khai thác khả năng thích ứng
linh hoạt này để nâng cao hiệu quả của phương tiện dạy học.
Tăng cường sử dung những phương tiện dạy học tạo môi trường tương

tác cho học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực,
chủ động và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu. Ví dụ :
trong bộ ghép hình của học sinh tiểu học, những phần mềm vi thế giới, là một
môi trường bao gồm những đối tượng, những thao tác và những quan hệ cho
phép người học tạo ra những đối tượng mới, những thao tác mới, những quan
hệ mới, thông qua đó người học có thể học tập trong hoạt động, học tập bằng
thích nghi.
1.2.4.2. Phối hợp sử dụng những phương tiện dạy học khác nhau
Trong cùng một tình huống, những phương tiện dạy học thường được
sử dụng phối hợp với nhau và nói chung thường thực hiện nhiều chức năng
đồng thời. Mỗi phương tiện dạy học đều có chỗ mạnh và chỗ yếu, cần biết lấy
chỗ mạnh của phương tiện này để hạn chế chỗ yếu của phương tiện kia, nhằm
phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của hệ thống phương tiện dạy học, góp
phần đạt được mục tiêu được đề ra trong chương trình.
1.2.4.3. Xây dựng và sử dụng những phòng học bộ môn
Dạy học theo phòng bộ môn phản ánh xu thế mới mà một số nước trên

19
thế giới đã áp dụng, đặc điểm nổi bật của nó là nâng cao tính tự giác, tích cực
chủ động và sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học.
Tổ chức dạy học theo hệ thống phòng bộ môn có những ưu điểm sau:
- Thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động học tập đa dạng của học
sinh một cách hiệu quả.
- Nâng cao hiệu quả lao động sư phạm của giáo viên.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động ngoại khóa đa dạng.
- Kích thích giáo viên đổi mới PPDH, nhất là việc thiết kế đồ dùng dạy
học, sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật, phát triển nhiều loại hình học tập
của học sinh.
1.2.5. Phương tiện trực quan trong dạy học
1.2.5.1. Khái niệm về phương tiện trực quan

Theo Phan Trọng Ngọ [1] thì Phương tiện trực quan là những phương
tiện được sử dụng trong hoạt động dạy học, có vai trò là công cụ để giáo viên
và học viên tác động vào đối tượng; có chức năng khơi dậy, dẫn truyền, tăng
cường khả năng hoạt động của các giác quan, góp phần tạo nên chất liệu
cảm tính của đối tượng nhận thức nhằm đạt được các mục đích dạy học cụ
thể”
Khái niệm trực quan: Hiện nay trong dạy học, ta thấy có hai quan niệm
về trực quan, và tạm quy ước là quan niệm truyền thống và quan niệm hiện
đại:
Quan niệm truyền thống: Theo quan niệm này, trực quan là chủ thể sử
dụng một hay nhiều giác quan để quan sát, từ đó tạo ra các hình ảnh bên ngoài
cuả đối tượng nhận thức. Công thức chung là: quan sát trực tiếp đối tượng để
tạo ra hình ảnh cảm tính về chúng → khái quát hóa (trừu tượng hóa) các hình
ảnh đó trở thành biểu tượng chung (tức là khái niệm về một lớp các biểu
tượng cùng loại được xét theo những tiêu chí xác định). Quan niệm này được
hình thành dựa trên hai cơ sở chủ yếu là xã hội học và triết học. Mặc dù mang
tính duy cảm, nhưng cách hiểu trực quan và phương pháp trực quan theo

20
quan niệm truyền thống là một tiến bộ so với dạy học thuyết giáo kinh viện
trước đây. Theo đó, học tập được bắt đầu từ quan sát thế giới bên ngoài.
Thông qua quan sát người học thu được những bằng chứng về sự vật, hiện
tượng, tạo ra niềm tin đối với tri thức được truyền thụ, chống lại lối dạy học
giáo điều, theo kiểu nhồi nhét tri thức cho người học.
Quan niệm hiện đại: trực quan theo đúng nghĩa của nó không đơn giản
chỉ là quan sát sự vật bằng các giác quan, mà là bằng những hành động, tác
động lên sự vật, làm biến đổi các dấu hiệu bên ngoài của chúng, làm cho cái
bản chất các mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của chúng được bộc lộ,
được phơi bày một cách cảm tính, mà nếu không có sự tác động đó thìchúng
mãi còn là bí ẩn đối với nhận thức của con người.

Quan điểm về trực quan như vậy có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động
dạy học. Nó là cơ sở để xác định rõ vai trò trực quan trong dạy học.
Phương pháp dạy học trực quan, theo đúng nghĩa của nó không phải là
giáo viên giới thiệu, trình bày các phương tiện trực quan, nhằm cung cấp cho
người học nhiều hình ảnh cảm tính về sự vật, mà phải giúp người học hành
động tốt nhất với sự vật. Dạy học trực quan – tức là dạy học phải được bắt
đầu từ việc hướng dẫn người học hành động cảm tính với đối tượng học, tạo
cơ hội để học sinh trực tiếp tác động lên các vật thể, các mô hình, các vật
được lựa chọn làm phương tiện thay thế hay truyền dẫn kiến thức để từ đó
từng bước hình thành kiến thức bài học một cách vững chắc.
Ví dụ: Ta xét trường hợp khái niệm phân số.
Trực quan theo quan niệm truyền thống: giáo viên có thể tiến hành quá
trình dạy học như sau: Cho học sinh quan sát 2 vật thể hay hai hình vẽ gồm 1
quả cam và một quả cam được chia làm 2 phần đều nhau. Trên cơ sở sự quan
sát đó, giáo viên đưa ra thông báo khái niệm một phần hai và kí hiệu
2
1
.
Lặp lại cách làm tương tự đối với một vài thứ đồ vật khác để củng cố
quan niệm về phân số
2
1
và hình thành một số phân số khác.

×