Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Đặc điểm nghệ thuật thơ Phùng Ngọc Hùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.93 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ HÒA
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ
PHÙNG NGỌC HÙNG
Chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 60.22.01.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Biện Minh Điền
NGHỆ AN, 2014
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ ca, đặc biệt là thơ trữ tình là món ăn tinh thần không thể thiếu
đối với bất cứ dân tộc nào, đặc biệt đối với Việt Nam - một dân tộc yêu thơ,
sống thiên về tình cảm, trọng tình cảm… Thơ trữ tình Việt Nam đã có một
quá trình sinh thành, phát triển lâu dài, ngay từ thế kỷ X. Bước sang thế kỷ
XX - thế kỷ lên ngôi của cái tôi cá nhân cá thể (individu), thơ trữ tình càng
phát triển mạnh. Sang thế kỷ XXI, thơ trữ tình vẫn giữ vị thế không thể thay
thế…
Bức tranh thơ trữ tình Việt Nam đương đại (xin giới hạn từ 1986 đến
nay) phong phú, đa dạng, với một đội ngũ nhà thơ đông đảo, nhiều thế hệ. Có
thể nói đến một dòng thơ trữ tình đương đại - dòng thơ có vai trò hết sức quan
trọng trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam, với nhiều phong cách,
nhiều tiếng nói khác nhau. Mỗi người một giọng nói riêng, góp phần tạo nên
âm hưởng, tinh thần mới mẻ của thơ trữ tình Việt Nam đương đại. Trong số
những giọng nói riêng đó, có tiếng thơ khiêm tốn, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng,
dễ thấm sâu vào lòng người của Phùng Ngọc Hùng
1.2. Nếu như trong bức tranh chung của thơ Việt Nam đương đại, thơ


trữ tình có vị trí ưu thế, thì mảng thơ viết cho thiếu nhi không phải ai cũng
biết đến. Ai cũng đã từng là trẻ con, nhưng rất lạ, lớn lên, ai cũng dùng từ “trẻ
con” để dè bỉu, mỉa mai, coi thường người đời!
Văn học cho thiếu nhi nói chung, thơ nói riêng, rõ ràng không thể chối
cãi, có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn học của đất nước. Mảng
văn học thiếu nhi không quá xa lạ, cũng không khan hiếm, nhưng phải nói,
trong nhịp sống hiện đại, thơ thiếu nhi dễ bị lãng quên do nhiều yếu tố tác
động của xã hội, và của người lớn… Thơ thiếu nhi đương đại, số lượng tác giả
đã có sự tăng lên đáng kể, nhiều cây bút tài hoa xuất hiện Trong số đó, có
Phùng Ngọc Hùng – nhà thơ của “Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai”…
1.3. Phùng Ngọc Hùng (sinh 1950, quê quán Nghi Hương - Cửa Lò -
Nghệ An, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam) được độc giả chú ý và biết đến qua
hai mảng thơ viết cho thiếu nhi và thơ trữ tình viết cho người lớn. Ông đã có 8
tập thơ được xuất bản… Phùng Ngọc Hùng là tác giả phần lời các ca khúc
được phổ nhạc nổi tiếng: Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai - được bình chọn
là một trong 50 ca khúc hay nhất viết cho thiếu nhi thế kỷ XX, Giận mà
thương (do Trọng Hoàn phổ nhạc), Thì thầm
Phùng Ngọc Hùng đã đạt nhiều giải thưởng văn học: Giải thưởng thơ
viết cho nhi đồng (Hội Nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn, 1987); Giải
thưởng văn học thiếu nhi (Hội Nhà văn Việt Nam, 1989), Giải thưởng cuộc thi
thơ (Báo Văn nghệ, 1990); Giải thưởng cuộc thi thơ, (Báo Phụ Nữ Việt Nam,
1995); Giải thưởng cuộc thi thơ (Báo Văn Nghệ 1995 – 2000).
Vậy mà, vẫn chưa có một công trình nào tìm hiểu, nghiên cứu đầy đủ,
hệ thống về thơ Phùng Ngọc Hùng mà chỉ có một số bài phê bình đăng ở các
trang báo, chủ yếu tập trung ở mảng thơ thiếu nhi. Phải chăng, chúng ta chỉ
chú ý những tác gia lớn, vĩ đại, mà bỏ quên nhiều tác giả vốn dĩ thơ văn của
họ không kém phần hấp dẫn, nhiều giá trị.
Việc khai thác, nghiên cứu, đánh giá thơ Phùng Ngọc Hùng là điều cần
thiết. Đề tài vì vậy mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Phùng Ngọc Hùng bắt đầu sáng tác khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Năm 1987, ông cho xuất bản tập thơ viết cho thiếu nhi đầu tiên là Bé Hương
4
và mèo con, sau đó các tập thơ khác lần lượt được xuất bản, các tập thơ ra đời
được công chúng bạn đọc bao gồm lứa tuổi thiếu nhi và bạn đọc lớn tuổi đón
nhận. Các bài đánh giá, phê bình về thơ ông chủ yếu đăng trên các báo Hoa
học trò, báo Văn nghệ cho thiếu nhi.
Trên báo Nhân dân cuối tuần, số 39, năm 1999, xuất hiện bài viết “Một
tập thơ giàu chất trẻ thơ” của tác giả Võ Gia Trị. Bài viết chỉ ra những đặc sắc
nghệ thuật của thơ viết cho thiếu nhi của Phùng Ngọc Hùng. Tuy nhiên, bài
viết chỉ mang tính chất giới thiệu, phạm vi nghiên cứu còn nhỏ, hẹp, chưa bao
quát thơ viết cho thiếu nhi của Phùng Ngọc Hùng. Trương Hữu Lợi với bài
viết “Gọi bạn, cuộc dạo chơi thú vị với nhà thơ Phùng Ngọc Hùng”, nhận thấy
có một thế giới trẻ thơ vô tư hồn nhiên và những người bạn rất đỗi thú vị của
trẻ thơ, những bức tranh sinh động về thiên nhiên, về con người trong thơ
Phùng Ngọc Hùng. Trương Hữu Lợi cũng đã đề cập đến bút pháp, ngôn từ,
nhạc điệu thơ Phùng Ngọc Hùng. Tuy nhiên, bài viết này cũng chỉ mới đề cập
đến một tập thơ của Phùng Ngọc Hùng.
Nhà thơ và là nhà phê bình Vũ Quần Phương khi đọc tập thơ Bé Hương
và mèo con, đã nhìn thấy tâm hồn đôn hậu của nhà thơ Phùng Ngọc Hùng
dành cho thiếu nhi… Mai Hạnh với bài “Triết lý lãng mạn trong Khoảng trời
thầm”, đã chỉ ra các khía cạnh khác của thơ Phùng Ngọc Hùng: chất lãng mạn,
những triết lý đời thường trong thơ Phùng Ngọc Hùng. Bài viết cũng khẳng
định giá trị mảng thơ dành cho người lớn của Phùng Ngọc Hùng. Mai Hạnh
có những phát hiện lý thú. Theo tác giả bài viết, “có thể còn nhiều góc cạnh
cần được khám phá, đề cập tới nữa, nhưng tôi muốn cảm nhận một mạch thi
tứ xuyên suốt cả tập thơ, đó là triết lý lãng mạn trong Khoảng trời thầm”.
Mặc dầu đã có khá nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá và một số bài phê
bình về thơ Thơ Phùng Ngọc Hùng, nhưng nhìn chung, còn mỏng, chưa tương
xứng với những gì mà Phùng Ngọc Hùng dành cho con người, cho cuộc đời,

đặc biệt cho đối tượng thiếu nhi - “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, và
5
những ai trong cuộc đời thường với những giăng mắc “giận mà thương” của
tình người, tình đời…
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Đặc điểm nghệ thuật thơ Phùng
Ngọc Hùng
3.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài bao quát toàn bộ thơ Phùng Ngọc Hùng, gồm 8 tập thơ đã được
xuất bản.
Văn bản thơ dùng Phùng Ngọc Hùng dùng để khảo sát, luận văn dựa
vào các tập thơ của tác giả:
Phùng Ngọc Hùng, Bé Hương và mèo con, Nxb Hà Nội, 1989.
Phùng Ngọc Hùng, May áo cho mèo, Nxb Kim Đồng, 1992
Phùng Ngọc Hùng, Khoảng trời thầm, Nxb Văn học, 1996
Phùng Ngọc Hùng, Chùa tiên- Giếng tiên, Nxb Văn hóa Dân tộc, 1997.
Phùng Ngọc Hùng, Gọi bạn, Nxb Hội Nhà văn, 1999.
Phùng Ngọc Hùng, Trẻ em và biển, Nxb Thanh niên, 2001.
Phùng Ngọc Hùng, Ngày xửa ngày xưa, Nxb Kim Đồng, 2008.
Phùng Ngọc Hùng, Mùa thơ Hà Nội, Nxb Hội Nhà văn, 2008.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát, tìm hiểu thơ Phùng Ngọc Hùng, luận văn nhằm xác định
đặc điểm nghệ thuật thơ của Phùng Ngọc Hùng, xác định ý nghĩa xã hội - thẫm
mỹ, giá trị nhân văn nhân bản, và những đóng góp của Phùng Ngọc Hùng cho
thơ Việt Nam đương đại nói chung, đặc biệt thơ viết cho thiếu nhi. Cũng từ
đây đề xuất một vấn đề về việc tìm hiểu thơ Việt Nam đương đại, đặc biệt là
thơ thiếu nhi.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

6
4.2.1 Đưa ra ra cái nhìn chung về thơ Phùng Ngọc Hùng trong bối cảnh
thơ đương đại, đặc biệt là mảng thơ dành cho thiếu nhi.
4.2.2 Đi sâu, khảo sát, phân tích xác định những đặc điểm thơ Phùng
Ngọc Hùng trên phương diện nội dung, cảm hứng (hình tượng trữ tình, cái tôi
trữ tình).
4.2.3 Đi sâu khảo sát phân tích xác định những đặc điểm thơ Phùng
Ngọc Hùng trên phương diện nghệ thuật thể hiện (cấu tứ, nghệ thuật tổ chức
ngôn từ thơ, giọng điệu thơ).
Cuối cùng rút ra một số kết luận về về thơ Phùng Ngọc Hùng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê - phân loại, Phương pháp phân tích -
tổng hợp, Phương pháp so sánh - đối chiếu, Phương pháp cấu trúc, hệ thống…
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp
Có thể xem luận văn là công trình đầu tiên tìm hiểu, nghiên cứu thơ
Phùng Ngọc Hùng một cách tập trung với cái nhìn hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc tìm hiểu thơ Phùng Ngọc Hùng nói riêng, thơ hiện đại nói chung…
6.2. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Thơ Phùng Ngọc Hùng trong dòng thơ trữ tình đương đại và
thơ viết cho “Trẻ em hôm nay”…
Chương 2. Cái tôi trữ tình và hệ thống hình tượng trong thơ Phùng
Ngọc Hùng
Chương 3. Nghệ thuật tổ chức ngôn từ thơ Phùng Ngọc Hùng
7
Chương 1

THƠ PHÙNG NGỌC HÙNG TRONG DÒNG THƠ TRỮ TÌNH
ĐƯƠNG ĐẠI VÀ THƠ VIẾT CHO “TRẺ EM HÔM NAY’’…
1.1. Thơ Phùng Ngọc Hùng trong dòng thơ trữ tình Việt Nam
đương đại
1.1.1. Thơ trữ tình Việt Nam đương đại (từ 1986 đến nay)
Thơ Việt Nam đương đại là một bức tranh sinh động, với muôn hình
muôn vẻ những phong cách, cá tính, tên tuổi. Khó mà xác định một dòng chủ
đạo nào chiếm ưu thế cũng như một tên tuổi xuất sắc như trước. Nói như thế
không có nghĩa thơ Việt Nam giai đoạn này lại không có đỉnh cao hay không
có những thành công nhất định, vì dù sao, trên bước hành trình còn nhộn nhịp
những bước chân thơ thì đó quả cần có thời gian để nhìn nhận lại.
Nói đến thơ đương đại là nói đến sự cách tân thơ truyền thống, sự tìm
tòi đổi mới thi pháp cũ. Theo Lưu Khánh Thơ, có hai nhóm xu hướng cách tân
thơ hiện nay. Nhóm thứ nhất là những cây bút đã có quá trình sáng tác từ
trước 1975 như: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương
Tường, Hoàng Hưng,… Họ được coi là những người đầu tiên đánh dấu sự
xuất hiện của một dòng thơ mới gây nhiều tranh cãi. Phần lớn tác phẩm của họ
được sáng tác khá lâu trước thời kì đổi mới. Nhóm thứ hai là những cây bút
xuất hiện và trưởng thành sau 1975 như: Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều
Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Mai Văn Phấn, Trần Anh Thái, Nguyễn Quyến,
Dư Thị Hoàn, Tuyết Nga, Trần Quang Đạo, Đặng Huy Giang,… Sau đó
8
những cây bút đương đại được nhắc đến nhiều nhất có thể kể đến: Vi Thuỳ
Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng
Minh, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Vĩnh Tiến, Trương Quế Chi,… “Quan sát trên thi
đàn Việt những năm gần đây có thể thấy các tác giả trẻ đang khao khát thể
hiện tiếng nói của thế hệ mình như một giá trị. Giá trị ấy được đảm bảo bằng
cái mới, cái hiện đại trong quan niệm về thơ, trong giọng điệu, bút pháp, hình
thức thể hiện… Dù có thể những tìm tòi, cách tân chưa trở thành xu hướng
chủ đạo, chưa dễ tìm được sự đồng thuận trong đánh giá và tiếp nhận của

người đọc nhưng vẫn có thể cảm nhận được một nguồn sinh lực mới đang
tiềm ẩn trong thơ hiện nay”[72].
Bên cạnh dòng thơ cách tân đó, một mạch ầm vẫn âm thầm chảy trong
nền văn học là sự tiếp nối của thơ ca truyền thống, nó như “khuôn vàng thước
ngọc” đánh giá phẩm chất thơ mà rất nhiều nhà thơ sau khi bôn ba trên chặng
đường đổi mới lại quay trở về. Trở về không phải là sự lặp lại hay lùi bước so
với sự phát triển mà từ độ lùi của thời gian, con người ta lại lắng lại với cảm
xúc, với những suy nghĩ, cảm xúc chín muồi của mình, trở lại với cái êm đềm,
nhẹ nhàng của cảm xúc Tiếp nối thơ ca truyền thống là để tôn vinh và đảm
bảo rằng, giá trị truyền thống còn có rất nhiều ý nghĩa trong quá trình phát
triển và hội nhập.
Trong dòng thơ đương đại, mảng thơ tình là mảng thơ phát triển rầm
rộ. Thơ tình đương đại vừa mãnh liệt, vừa mang yếu tố tình dục của những
cây bút táo bạo, những khát khao nhục thể được phơi bày trần trụi, không
còn cái e ấp ngày xưa như trong thơ Nguyễn Bính, không còn xa lạ và hư ảo
như thơ Hàn Mặc Tử, cũng không tuyệt mỹ như trong thơ Chế Lan Viên: Em
đi như chiều đi/ Gọi chim rừng bay hết/ Em về như chiều về/ Rừng non xanh
lộc biếc Tình yêu trong thơ đương đại thiên về cảm xúc hoài nghi, đổ vỡ,
thiên về cảm giác trực quan được thể hiện bằng những hình thức thơ mới
lạ, độc đáo, hình ảnh mang tính biểu tượng cao…
9
1.1.2. Dấu ấn Phùng Ngọc Hùng trong dòng thơ trữ tình Việt Nam
đương đại
Khi nói Phùng Ngọc Hùng trong hành trình thơ trữ tình đương đại,
người viết muốn đề cập đến mảng thơ viết về tình yêu, tình cảm gia đình, viết
về thiên nhiên đất nước của Phùng Ngọc Hùng. Bởi trong quá trình sáng tác,
ông không chỉ miệt mài trong mảng đề tài viết cho thiếu nhi mà còn có những
bài thơ bộc bạch tâm tình của mình. Viết như một cách tìm lại mình và đổi
mới mình, Phùng Ngọc Hùng không ngừng sáng tạo để thoả mãn niềm đam
mê viết cũng như để giải toả những tâm tình riêng.

Thơ về tình yêu, về con người, về Hà Nội, về quê hương đất nước…
của Phùng Ngọc Hùng cũng không kém phần hấp dẫn. Nó thu hút người đọc
không phải bằng những vần thơ gai góc, sắc nhọn mà bằng những vần thơ nhẹ
nhàng, ý vị, hiền từ, xúc động, bùi ngùi, dễ chạm vào trái tim của người đọc.
Phùng Ngọc Hùng đến với thơ trước hết từ tiếng gọi của tình yêu, từ cảm
hứng tình yêu. Trong một cuộc nói chuyện thân tình và cởi mở với Thiên
Kim, Thiên Kim cho biết: “Ông (Phùng Ngọc Hùng) nói rằng, khởi nghiệp,
ông làm thơ tình, và cho đến nay, ông vẫn chưa bao giờ ngừng viết về tình
yêu, nhưng vì mảng thơ trẻ em của ông nổi trội hơn nên người ta vẫn quen với
một Phùng Ngọc Hùng “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Rồi ông đọc
cho tôi nghe bài thơ tình “Giận mà thương” (Bài thơ đã được nhạc sĩ Trần
Hoàn phổ nhạc): Anh xa em nghe câu dân ca/ Giận mà thương sao da diết
thế/ Ơi câu ca nặng tình nặng nghĩa/ Có lúc nào em giận anh không?/ Có lúc
nào em giận anh không?/ Để anh thương suốt cả ngày em giận/ Khi xa nhau
đến hàng nghìn dặm/ Giận chẳng còn mà thương rộng dài thêm…”[38].
Phùng Ngọc Hùng viết về tình yêu bằng một trái tim chân thành, nhiệt
tình. Tiếng nói trong thơ ông là tiếng nói của cảm xúc, tiếng nói của nhịp đập
con tim, của tình yêu. Chính vì thế, với Phùng Ngọc Hùng, dù đi đâu, về đâu,
dù là quan chức hay nhà thơ, tất cả đều không ngoài một triết lý giản dị mà
sâu sắc mà ông đã chiêm nghiệm, đúc kết: Giận thì giận mà thương thì
10
thương… Có giận rồi, cũng chỉ để thương thôi…
Phùng Ngọc Hùng không biểu hiện tình yêu qua những hành động
mang yếu tố tính dục, cũng không cách tân hình thức, vẫn là lối thể hiện
truyền thống, nhưng lại phả vào thơ tình yêu của người hiện đại…
Khoảng trời thầm là tập thơ thơ viết nhiều về tình yêu đôi lứa, tình yêu
thiên nhiên và tình cảm gia đình.
Khoảng trời thầm như tên gọi của tập thơ, vừa giản dị, khiêm nhường,
vừa sâu lắng, gợi bao liên tưởng… Đó là những cảm xúc của một người có
trái tim nhạy cảm, vừa yêu cuộc sống, yêu đời, có những phút giây thăng hoa

trong tình yêu, vừa tiếc nuối một khoảng trời tuổi thơ, vừa sống với những
trăn trở của nhịp sống hiện tại Đọc Khoảng trời thầm, Dương Thuấn trong
bài Có một khoảng trời thầm nhận xét: “Nếu như ở các tập trước, thơ Phùng
Ngọc Hùng viết cho thiếu nhi là sự hóm hỉnh đùa vui của con trẻ trong các trò
chơi thì ở tập thơ người lớn này lại thấy một Phùng Ngọc Hùng từng lên núi
uống rượu cần với già làng, cùng người bản múa xòe với các cô gái dân tộc
đẹp như hoa. Và cũng có lúc lại thấy anh bâng khuâng với con dã tràng ở
biển” [74]. Theo Dương Thuấn, “Điểm đáng chú ý trong thơ Phùng Ngọc
Hùng là anh thường tả, các sự vật qua thơ anh đều trở nên sắc cạnh, rõ
nét”[74].
Hướng về thiên nhiên sau những bận rộn đời thường, Phùng Ngọc
Hùng lại mở ra một không gian nên thơ của Hà Nội - Thủ đô của đất nước.
Mùa thơ Hà Nội là tập thơ tác giả viết, gần như để tri ân mảnh đất đẹp đẽ mà
nhà thơ lựa chọn lập nghiệp.
Đến với Mùa thơ Hà Nội, người đọc sẽ được tận hưởng tiết trời mùa
thu, tiết trời đẹp nhất trong năm bởi không khí dịu dàng của nắng, se se của
gió, có hương cốm mới, có lá vàng rơi và ngọt ngào hương hoa sữa… Hà Nội
gắn bó với nhà thơ như một duyên nợ trong đó có ánh mắt của người thương,
có tiếng rao đêm khản giọng của những gánh hàng rong, có những làng trẻ em
mồ côi, có cả những phận đời còn mang nhiều nỗi bất hạnh. Mùa thơ Hà Nội
11
như một góc quay cận cảnh, len lỏi từng con đường, ngõ phố vừa gần gũi, vừa
đẹp lãng mạn và cũng rất hiện thực. Tập thơ mang nhiều giá trị nhân văn nhân
bản mà Phùng Ngọc Hùng gửi đến độc giả. Mỗi bài thơ như chùm hoa mang
nỗi niềm thiết tha sâu lắng và nét duyên kín đáo của nhà thơ xứ Nghệ trên
mảnh đất nghìn năm văn hiến:
Cốm xanh đùm lá sen xanh
Thương nhau thì cứ để dành cho nhau
Dẫu đi đâu, dù về đâu
Cốm xanh còn để mùa sau vẫn chờ

(Mùa cốm)
Có thể thấy “Bóng Hồng” xuyên suốt trong thơ tình của Phùng Ngọc
Hùng là cô Ngọc Lan (ngoài đời là người tình và là người vợ thủy chung,
thương yêu của nhà thơ). Một mối tình thật đẹp, nẩy sinh từ một vùng quê
nghèo, trải qua bao ngọt bùi, cay đắng, sẻ chia, càng thêm thắm nồng, son
sắt Ngọc Lan là nàng thơ của Phùng Ngọc Hùng, đảm đang, chịu khó, thuỷ
chung son sắt, một lòng lo lắng cho gia đình, cho chồng con… Có thể nói sức
hấp dẫn, quyến rũ, lay động của thơ trữ tình Phùng Ngọc Hùng “ăn nhờ” rất
nhiều vào hình tượng người phụ nữ này và tình yêu nồng cháy, bền vững của
nhà thơ.
Cũng dễ nhận thấy, thiên nhiên (của nhiều không gian khác nhau: biển
Cửa Lò, xứ Nghệ; núi rừng Tây Nguyên; không gian Hà Nội, Moskva,…),
cây cỏ, bốn mùa – đặc biệt là mùa thu… giăng đầy trong thơ Phùng Ngọc
Hùng. Thiên nhiên vừa như một đối tượng chiếm lĩnh của thơ ông, vừa như là
phông nền cho tình yêu, tình người tình tự, gắn kết, giao hoà.
Hà Nội với những Hồ Gươm, Hồ Tây, Văn Miếu, Ba Đình, những hàng
me, hàng sấu, Đêm Noen,… cũng xuất hiện nhiều trong thơ Phùng Ngọc
Hùng. Điều quan trọng đáng nói nhất là Phùng Ngọc Hùng cảm được, nghe
được một cách tinh tế cái hồn của các sự vật, hiện tượng mà mình nói đến.
12
Những con chữ của Phùng Ngọc Hùng có nét tương đồng gặp gỡ những con
chữ của Thạch Lam: nhẹ nhàng, sâu lắng, có hồn…
Dễ nhận thấy thơ Phùng Ngọc Hùng trong sáng, giản dị, thuần khiết:
Thế là có một chiều Hồ Tây
Em buộc hồn tôi vào góc trời ấy
Rồi em đi Hồ Tây cơn sóng dậy
Cứ lăn tròn những giọt nắng rơi rơi.
Phùng Ngọc Hùng xuất hiện, không gây sự ngạc nhiên đến bất ngờ cho
độc giả bằng những cú sốc, những sự “lạ hóa” và kiểu cách. Thơ ông như một
tiếng nói trầm ấm, bình tĩnh và có độ tin tưởng, góp thêm một giọng điệu thơ

trữ tình trong hành trình sáng tạo của thơ ca Việt Nam đương đại. Trong quá
trình sáng tác, nhà thơ có những tứ thơ mới lạ, độc đáo, độc đáo trong cái
tưởng chừng như rất bình thường:
Có gì đâu mà em vội khen
Nét độc đáo ngày anh về biển
Anh kéo lưới giúp cụ già xóm bến
Phải kéo lùi bàn chân vẫn đi lên.
Sau lưng tôi là bãi cát nối liền
Trước mắt tôi là biển trời xanh thẳm
Ơi dấu những bàn chân in trên cát trắng
Hướng về phía biển mênh mông
(Dấu những bàn chân)
Phùng Ngọc Hùng có cái nhìn đa chiều, tỉnh táo hơn sau khúc ca say
mê với những chiến thắng hào hùng của cuộc chiến tranh trong thơ cách
mạng. Đó là nỗi đau của người ở lại về những hy sinh mất mát:
Những lá thông già rơi trên nghĩa trang
Những đám cỏ lên xanh quanh hàng mộ chí
Khói hương bay thơm hồn liệt sỹ
13
Những tàn nhang để lại dấu hỏi vô tình
(Tìm con ở nghĩa trang Trường Sơn)
Bằng giọng điệu trữ tình, với phong cách nhẹ nhàng, bình tĩnh, trầm
lắng Phùng Ngọc Hùng muốn gìn giữ, bảo vệ những giá trị sâu lắng của thơ
truyền thống cho thơ hiện đại. Dẫu chưa phải là một nhà thơ đạt đến đỉnh cao
thành tựu, nhưng những đóng góp của Phùng Ngọc Hùng cho bức tranh thơ
Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở dòng thơ trữ tình là rất đáng trân trọng.
1.2. Thơ Phùng Ngọc Hùng trong dòng thơ dành cho thiếu nhi –
“Trẻ em hôm nay”
1.2.1. Dòng thơ dành cho thiếu nhi – “Trẻ em hôm nay”
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã có thơ viết cho

thiếu nhi. Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn của La Phông ten (từ tiếng
Pháp sang tiếng Việt, được trẻ em và cả người lớn thích thú), từng tập hợp
nhiều câu ca dao, những bài hát dân gian thành quyển Trẻ con hát trẻ con
chơi ư; Nguyễn Văn Ngọc có làm sách giáo khoa cho trẻ em; Tú Mỡ viết
truyện thơ Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Tấm Cám; Hồ Chí Minh từ năm
1941 đã có hai bài thơ: Kêu gọi thiếu nhi và Trẻ chăn trâu
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, văn học thiếu nhi mới phát triển,
trở thành một bộ phận văn học đáng chú ý. Năm 1948, Hội Văn nghệ Việt
Nam thành lập đã có một bộ phận chuyên về văn học thiếu nhi (do Tô Hoài
cùng Hồ Trúc đảm nhiệm). Võ Quảng và Phạm Hổ đã đến với các em sớm
nhất bằng những tập thơ mới, như Gà mái hoa, Em thích em yêu.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, văn học thiếu nhi
phát triển mạnh, đặc biệt là thơ. Nhiều tập thơ hay viết cho thiếu nhi xuất
hiện. Tiêu biểu như: Măng tre của Võ Quảng, Chú bò tìm bạn của Phạm Hổ,
Chồng nụ chồng hoa của Định Hải, Hai bàn tay em của Huy Cận, Ông và
cháu của Tú Mỡ, Đôi tai mèo của Trần Thanh Địch, Mười nàng tiên của Vũ
Ngọc Bình, Tiếng hát chim non của Thi Ngọc,… Nhiều tập thơ của các tác giả
khác (Xuân Tửu, Ngô Viết Dinh, Thanh Hào, Lữ Huy Nguyên, Trần Nguyên
14
Đào, ), và khá nhiều tập thơ in chung của nhiều tác giả được tuyển chọn vào
các tập như: Đèn kéo quân, Chú ngựa bay, Mặt trời xanh, Hương cốm, Các
tác giả là thiếu nhi (thời đó) như Trần Đăng Khoa, Khánh Chi, Hoàng Hiếu
Nhân, Nguyễn Hồng Kiên, Chu Hồng Quý, Cẩm Thơ, Ngô Bích Hiền, đã
đem đến cho văn học thiếu nhi trong những năm chống Mỹ một diện mạo
mới, sắc màu mới, trong trẻo, hồn nhiên, ngộ nghĩnh nhưng cũng không kém
phần tinh tế sâu lắng, v.v…
Từ sau 1975 đến nay, thơ viết cho thiếu nhi càng phát triển mạnh. Bên
cạnh các bậc đàn anh Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải,… xuất hiện các cây bút
mới như Xuân Quỳnh với tập thơ Bầu trời trong quả trứng, Quang Huy với
Dòng suối thức, Thanh Hào với tập Bóng mây, Quang Huy với Chim gọi mùa,

Nguyễn Bao và Võ Văn Trực với Gió thơm đồng cỏ, Trần Mạnh Hảo và Tô
Hà với Hoa vừa đi vừa nở, Thạch Quỳ với Nguồn gốc cơn mưa, Nguyễn Bùi
Vợi với Trống trận đêm xuân, v.v…
Từ những năm 90 trở lại đây, văn học thiếu nhi nói chung đã khởi sắc,
đa dạng về chủ đề, tác giả và thể loại. Bên cạnh những nhà thơ viết cho thiếu
nhi lâu năm, có thêm những tác giả sớm có phong cách riêng như Nguyễn
Hoàng Sơn với Dắt mùa thu vào phố, Mai Văn Hai với Bờ ve ran, Dương
Thuấn với Cưỡi ngựa đi săn, Phùng Ngọc Hùng với May áo cho mèo, Hoàng
Tá với Cái sân chơi biết đi, Đặng Hấn với Cầu chữ y”, Lê Hồng Thiện với
Trứng treo trứng nằm,
Một loạt tuyển tập thơ được ra mắt bạn đọc như Tuyển tập thơ của các
nhà thơ thời kì chống Mỹ cứu nước (Võ Quảng, Phạm Hổ, Thy Ngọc, Vũ
Ngọc Bình, Định Hải, Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa,…). Có những bộ tuyển
với bề dày đáng kể như Văn học cho thiếu nhi Việt Nam - Tập I, gồm 217 tác
giả với 1083 trang (Nxb Văn học, 1995); Văn học thiếu nhi Việt Nam, Tập II:
Thơ tuyển (Nxb Từ điển Bách khoa, 2004) có 427 nhà thơ với 723 trang.
Trong bộ phận văn học viết cho thiếu nhi, thơ là thể loại có vai trò đặc
15
biệt quan trọng. Thực tiễn của sang tác văn học dành cho thiếu nhi cho thấy,
rõ ràng có một dòng thơ viết cho thiếu nhi. Trong dòng thơ viết cho thiếu nhi,
xuất hiện nhiều tác phẩm xuất sắc của nhiều tác giả: Cưỡi ngựa đi săn của
Dương Thuấn (Giải thưởng Văn học thiếu nhi 1990), May áo cho mèo của
Phùng Ngọc Hùng (Giải thưởng Văn học thiếu nhi 1991), Bờ ve ran của Mai
Văn Hai (Giải thưởng Văn học thiếu nhi 1992), Dắt mùa thu vào phố của
Nguyễn Hoàng Sơn (Giải thưởng Văn học thiếu nhi 1993), Cái sân chơi biết
đi của Hoàng Tá (Giải thưởng văn học thiếu nhi 1994), Trứng treo trứng
nằm của Lê Hồng Thiện (1994), Tắc kè hoa (1996) và Đất đi chơi biển (2007)
của Phạm Đình Ân, Tí tách mưa rơi (2009) của Nguyễn Ngọc Quế, Bữa tiệc
của loài vật (2009) của Trần Quốc Toàn Tiếp đến là thơ của những tác giả
có tuổi đời và tuổi nghề “đang chín” như Hoàng Dạ Thi, Nguyễn Thị Thu

Thuỷ, Nguyễn Thị Châu Giang, Thu Trân, Quế Hương, Nguyễn Thúy Loan
Họ là những người vừa chia tay với tuổi thơ, đang hăm hở bước vào đời, đến
với thơ trẻ em như một cảm giác nhìn lại chính mình thời gian qua, và “xin
một vé” để trở về tuổi thơ sau những mệt mỏi của cuộc sống tự lập khi trưởng
thành. Lớp người viết trẻ này đã đem đến cho văn học thiếu nhi những nét
mới trẻ trung, tươi tắn, đầy nhiệt huyết.
Một lực lượng nữa cũng góp phần làm phong phú thêm cho đội ngũ
sáng tác văn học thiếu nhi, đó là chính các em, các em được thể hiện những
cảm xúc của mình qua sân chơi của các báo Tuổi xanh, Mực tím, báo Thiếu
niên tiền phong, Hoa học trò, Văn học với tuổi thơ
Có thể thấy, văn học thiếu nhi càng ngày càng mang tính chuyên
nghiệp. Các nhà thơ đã dành hẳn thời gian cũng như chú trọng vào mảng đề
tài thiếu nhi, không viết dăm ba bài cho qua chuyện mà khai phá mảnh đất này
một cách nghiêm túc. Điểm qua “đội ngũ” các nhà thơ viết cho thiếu nhi
(chặng đường cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI), người viết muốn đưa cái
nhìn khái quát về dòng thơ viết cho thiếu nhi – “Trẻ em hôm nay / Thế giới
16
ngày mai” (Lời thơ Phùng Ngọc Hùng).
Trước hết, cần nói đến Trương Hữu Lợi. Nhà thơ Trương Hữu Lợi sinh
năm 1948 tại xã Bắc lý, Lý Nhân, Hà Nam, vùng đất gắn liền với tên tuổi rất
nhiều văn sỹ nổi tiếng. Trong một bài phỏng vấn, ông trả lời về đặc điểm thơ
thiếu nhi: “Thơ thiếu nhi viết có ưu điểm là hồn nhiên, có nét độc đáo và khơi
gợi lên nỗi đau trong xã hội nhưng lại có khuyết điểm là hay mắc tật mô
phỏng lối viết của nước ngoài, giống (ở một chừng mực nào đó có thế gọi là
đạo văn) của người khác một cách có ý thức và không có ý thức. Thơ của
người lớn viết cho thiếu nhi có ưu điểm là trong sáng, có tính giáo dục nhưng
có khuyết điểm là nhàm chán, trùng lặp, dễ dãi, đơn điệu, không gắn bó với
thiếu nhi và không được thiếu nhi thích. Tôi có cảm giác: Các tác giả người
lớn thiếu cách nghĩ, cách cảm của trẻ em. Khi sáng tác “Phải bay bổng, không
lệ thực, có tính ước lệ cao, dí dỏm và có trí tuệ. Riêng về thơ, dứt khoát phải

có vần, có điệu, dễ nhớ, dễ thuộc”. Có thể thấy rõ quan điểm đó trong tác
phẩm cụ thể của Trương Hữu Lợi: Ông ơi bà ơi/ Cho xin hạt gạo/ Gạo đem
nấu cháo/ Khao lũ kiến con/ Bờ đê chon von/ Gió mưa sùi sụt/ Cửa nhà ngập
lụt/ Lạc mẹ lạc cha/ Thất thểu thất tha/ Kiến con đang đói/ Mai ông bà đòi/
Kiến mong trả hậu/ Mỗi cô mỗi cậu/ Tha một hạt son/ Đắp núi đắp non/ Thóc
gạo thừa thãi/ Ai vung ai vãi/ Khắp chốn khắp nơi/ Ông ơi bà ơi/ Cho xin hạt
gạo… (Bài hát con kiến).
Bài thơ có sự tưởng tượng phong phú, vần điệu cũng hấp dẫn. Nhà thơ
Trương Hữu Lợi còn có ba tập truyện cổ tích, đồng thoại và thơ viết cho thiếu
nhi, được các em yêu thích.
Dương Thuấn là nhà thơ dân tộc Tày, sinh năm 1959 tại bản Hon, xã
Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng hồn
thơ ông: Bắc Kạn có suối đãi vàng/ Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh. Là nhà thơ
dân tộc, xuất hiện từ thời kỳ đất nước đổi mới, Dương Thuấn đã tìm được cho
mình một phong cách độc đáo, với “một giọng thơ thật trẻ, trong sáng, dung
17
dị, vừa đủ để giãi bày, anh không thích những cách cắt nghĩa to tát, những
ngôn từ quá phận. Anh làm chủ mạch thơ nhẹ nhàng giàu cảm xúc kéo mình
đi từ bài này qua bài khác, đưa tâm trí người đọc đạt tới sự bình tâm, tin cẩn
cần thiết khi đi vào thế giới phong phú và dị biệt của anh” (Nguyễn Khoa
Điềm). Tập thơ Cưỡi ngựa đi săn (1991) là tập thơ đầu tay viết cho thiếu nhi
của Dương Thuấn, được Hội Nhà văn cùng Hội Giao lưu văn hoá Việt Nhật
trao tặng giải A. Viết cho thiếu nhi, Dương Thuấn giới thiệu với các em một
vùng cao nguyên kỳ thú, đẹp đẽ và muôn vàn điều mới lạ, nơi đó có dự giao
hoà, ôm ấp giữa thiên nhiên và con người, cuộc sống trong vắt như tiếng suối
và ấm áp tình núi rừng: Nơi đó chỉ có mây và suối/Người ngủ cùng mặt trăng”
(Mách với trẻ con) và vẻ đẹp tâm hồn cùng với sự hóm hỉnh của người dân tộc
Tày trên xứ sở Việt Nam: Đi đường sẽ mỏi/Đem sỏi lên nghe/Thì chân sẽ
khoẻ (Hòn sỏi thần kỳ)
Bước sang thế kỷ XXI, một số nhà thơ trẻ có tài năng cũng đã có những

tác phẩm xuất sắc dành cho thiếu nhi, tiêu biểu như Nguyễn Lãm Thắng, Vi
Thuỳ Linh, Đặng Chân Nhân, Ngô Gia Thiên An,
Với 1008 bài thơ viết cho thiếu nhi, Nguyễn Lãm Thắng đã bày tỏ chân
thành tình yêu vô hạn với con trẻ. Thơ anh trong sáng, vui tươi, gần gũi với
thiên nhiên, đặc biệt là mang cái nhìn, cách cảm của trẻ: Cô tập em viết, Màu
ước mơ, Bài hát thày dạy, Ông trăng ơi, Mẹ ơi con ngủ, Lồng đèn, Quạt bà
quạt bố, Mùa xuân đã về, Nơi tuổi thơ em, Cháu vẽ, Mưa xuân, Mời bạn về
thăm xứ Huế, Chợ Xuân (Những bài thơ này cũng đã được phổ nhạc).
Những kỉ niệm về tuổi thơ, về gia đình, về ông nội đã được Vi Thuỳ
Linh thể hiện trong tập thơ cho thiếu nhi: Chu du cùng ông nội. Sự trở lại với
tuổi thơ là chuyến ngược dòng thời gian trở về với sự ngây thơ, trong vắt và
dạt dào tình thương của một nhà thơ nữ hiện đại.
Đặng Chân Nhân (sinh năm 1993) với Giấc mơ và Ngô Gia Thiên An
(sinh năm 1999) với tập thơ đầu tay Những ngôi sao lấp lánh là hai gương
18
mặt trẻ của nền văn học thiếu nhi kể từ sau khi Trần Đăng Khoa - thần đồng
thơ Việt Nam bước lên đỉnh cao. Thiên An viết về cuộc sống với những sự
việc xảy ra xung quanh cùng những điều em băn khoăn và mơ ước. Thơ Chân
Nhân cũng là những câu chuyện về gia đình, về vũ trụ, cuộc sống, thiên nhiên
và cây cỏ nhưng mang vẻ hồ nghi, già dặn so với tuổi của em. Trở đi trở lại
trong nhiều bài thơ là những suy nghĩ của cậu bé hơn 10 tuổi về cuộc sống, về
bản thể tự do: Nếu cuộc sống hoàn hảo/ Sẽ không có sự sợ hãi, lo lắng hay
chiến tranh/ Sẽ không có cả những điều ước, hi vọng hay giấc mơ/ Cuộc sống
sẽ quá dễ để đoán trước (Cuộc sống ở một cái nhìn khác); Cuộc sống chỉ là
một trò chơi/ Và thế giới là sân chơi của tôi/ Tôi đặt ra luật riêng cho tôi/ Tôi
có đồ chơi riêng của tôi/ Đừng làm phiền tôi/ Vì tôi đang thích thú/ Cuộc
sống là sự tự do của tôi (Trò chơi)…
Góp phần vào dòng thơ thiếu nhi, còn có các em đạt được giải thưởng
trong các cuộc thi trên báo Nhi đồng, tạo nên bức tranh thơ thiếu nhi đương
đại sinh động và hấp dẫn hơn.

Quan tâm đến thơ thiếu nhi, Lã Thị Bắc Lý có cái nhìn khái quát về
những thành tựu đạt được của văn học thiếu nhi thế kỷ XXI: “Sự đa dạng
trong phong cách, trong giọng điệu làm nên sức hấp dẫn của văn học thiếu nhi
giai đoạn này. Cũng không phải mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm chỉ có một giọng
điệu mà đôi khi còn có sự phối hợp, xen kẽ, tạo nên sự đa dạng ngay trong
một tác giả. Nếu ở giai đoạn trước năm 1975, cảm hứng sử thi tạo cho văn học
giọng điệu trang nghiêm; thời kì Đổi mới nổi lên cảm hứng đời tư - thế sự với
giọng suy tư, triết lí thì ở giai đoạn này, với hiện thực đời sống bình thường,
văn học cho các em mang giọng gần gũi, tự nhiên, bình đẳng với bạn đọc hơn.
Bên cạnh đó là giọng trữ tình tiếp nối văn mạch truyền thống đậm tính nhân
văn, hướng về những kiếp người, những cảnh ngộ bi thương; những tình cảm
sáng trong, cao đẹp của con người và những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của
đất nước, quê hương. Đặc biệt là giọng tinh nghịch, hóm hỉnh, mang tính đặc
19
thù của văn học thiếu nhi vẫn được phát triển”[46]. Về văn học thiếu nhi, đặc
biệt là thơ thiếu nhi sau 1986, các tác giả Bùi Thanh Tuyền và Trần Quỳnh
Nga trong bài viết “Đặc trưng thơ thiếu nhi sau 1986” cũng chỉ ra những đặc
trưng cơ bản về sự đổi mới trong thơ thiếu nhi: thơ thiếu nhi sau 1986 có sự
đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người; sự mởi mẻ về đề tài; ngôn từ và
nhịp điệu thơ - sự cộng hưởng của âm thanh cuộc sống; kết cấu đối thoại và
con đường khám phá cuộc sống.
Có thể thấy, từ 1986 đến nay, thơ thiếu nhi không chỉ phát triển về số
lượng (tác giả, tác phẩm), mà còn có sự thay đổi về chất lượng nghệ thuật.
1.2.2. Thơ Phùng Ngọc Hùng trong dòng thơ dành cho thiếu nhi –
“Trẻ em hôm nay”…
1.2.2.1. Con đường đến với thơ và “Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày
mai…” của Phùng Ngọc Hùng
Phùng Ngọc Hùng sinh năm 1950, quê ở xã Nghi Hương, Thị xã Cửa
Lò, tỉnh Nghệ An. Cửa Lò – một vùng đất cửa biển với nghề ngư nghiệp và du
lịch sôi động, là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách muôn phương… Đây

là mảnh đất giàu truyền thống hiếu học và bề dày văn hoá, là mảnh đất thai
nghén và nuôi dưỡng nên biết bao anh hùng, hiền tài, là nguồn cảm hứng vô
tận cho nhiều văn nghệ sỹ, trong đó có Phùng Ngọc Hùng.… Tất cả đó thấm
đẫm một cách tự nhiên vào tâm hồn Phùng Ngọc Hùng tự ngày nào, để rồi
góp phần hình thành một tiếng thơ, một hồn thơ thật đôn hậu, đậm chất xứ
Nghệ.
Phùng Ngọc Hùng “tự giới thiệu”:
Mẹ sinh con ở biển
Muối thấm vào máu, mồ hôi
Từng giọt nước mắt rơi
Cũng là từng giọt muối
(Ở biển - Trẻ em và biển).
20
Ông bộc bạch cuộc sống chân thực nơi quê hương cát trắng: Gió/ Biển
xanh/ Chang chang nắng/ Muối, nước mắt, mồ hôi kết biển” của những người
dân chài vất vả bươn chải với nghề kéo lưới ngày đêm bám biển. Trong tâm
thế đó, họ vẫn ngày đêm bám lấy quê hương, lạc quan yêu đời trong công
cuộc chinh phục biển: Gió/ Trai làng ngực căng tròn/ Cười vui kéo biển
(Gió biển, Khoảng trời thầm). Quê hương chính là nơi sinh ra, nuôi dưỡng và
bồi đắp những hành trang trong cuộc đời người nhà thơ xứ Nghệ đáng yêu và
rất đáng nể trọng này.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống hiếu học, giàu
tinh thần cách mạng, nhà thơ có ba người anh đi bộ đội, chiến đấu vì độc lập
tự do của tổ quốc. Đó là niềm tự hào lớn lao của gia đình. Nhưng các anh đều
hy sinh trên chiến trường, hai người không tìm thấy mộ… Nỗi đau lớn này ám
ảnh không nguôi trong tâm hồn Phùng Ngọc Hùng. Mẹ ông là một người nổi
tiếng hát hay những điệu dân ca, ví dặm… Sinh ra và lớn lên trong một gia
đình như thế, một quê hương như thế (mảnh đất nghèo nhưng hiếu học, có bề
dày lịch sử, văn hoá, là xứ sở của dân ca xứ Nghệ,…), lại có tâm hồn nhạy
cảm, có năng khiếu văn nghệ, Phùng Ngọc Hùng đến với thơ như là sự sắp

xếp của số phận…
Sau khi tốt nghiệp khoa Văn, trường Đại học Sư phạm Vinh (nay là Đại
học Vinh), năm 1972, ông là giáo viên, giảng dạy văn học tại trường THPT
Cẩm Bình (thuộc huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh). Song song với hoạt động
giảng dạy, ông tham gia công tác đoàn và bắt đầu sáng tác thơ. Năm 1987,
ông làm bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Trong cương vị này,
ông là người hoạt động sôi nổi, tiếp xúc với nhiều lớp trẻ năng động, giàu năng
lượng sống tạo nên sự khoẻ khoắn, tươi tắn trong thơ ông. Năm 1992, ông giữ
chúc Phó chủ nhiệm Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam. Năm 2003,
ông là Phó chủ nhiệm Uỷ ban Dân số gia đình và trẻ em. Ông đã đến nhiều
vùng đất khác nhau, tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau, nhiều nhất là với
21
lớp trẻ, thiếu nhi. Năm 2010, do sức khoẻ không ổn định, nhà thơ Phùng Ngọc
Hùng xin nghỉ hưu sớm và tĩnh dưỡng tại gia đình (Hà Nội).
Sáng tác cho thiếu nhi của Phùng Ngọc Hùng bắt đầu từ những bài thơ
nhỏ gọn, thường là 4 câu, nội dung giản dị, dễ hiểu, rất phù hợp với lưa tuổi
thiếu nhi. Sau khi đã cho in một số tập thơ, Phùng Ngọc Hùng tiếp tục không
ngừng nghỉ hướng về các em, ông cho ra đời lần lượt các bài thơ dài hơi hơn,
nội dung cũng dần dần lớn hơn. Ông nhận thấy, “cuộc sống của các em bây
giờ có nhiều điểm khác trước. Điều quan trọng nhất là sự hoà nhập với cuộc
sống thực của trẻ em. Thế giới của trẻ em bao giờ cũng phong phú và xa lạ đối
với người lớn, dù người lớn đã từng là trẻ con. Sự thâm nhập với đời sống
thường ngày của trẻ em tuỳ thuộc mức độ khác nhau mà có những bất ngờ
trong sáng tạo ”(Viết cho trẻ em – Phùng Ngọc Hùng). Nhà thơ mở rộng trí
tưởng tượng của con trẻ bằng những bài thơ về thiên nhiên, về loài vật, chỉ
cho các em những điều thú vị trong cuộc sống xung quanh. Ông luôn để ý
quan sát và miêu tả các em một cách hồn nhiên. Những bài thơ như Tập bước,
Lên gác ba, Ly ly múa là những bài thơ viết về những đứa con, đứa cháu rất
đáng yêu…
Yêu trẻ, mến trẻ là luôn đặt cái nhìn của mình trong cái nhìn của trẻ,

không thể áp đặt chúng. Đấy là quan điểm của Phùng Ngọc Hùng… Viết cho
trẻ con cũng chính là viết cho mình, là một hành trình trở về với chính mình,
tìm lại mình trên những cánh đồng quê, trong những kỷ niệm cũ… Không
những mang đến cho trẻ thơ những bài thơ nhỏ xinh kể về những câu chuyện
thiên nhiên xung quanh, những trò chơi, những cảm nghĩ của trẻ, Phùng
Ngọc Hùng còn xót xa trước những hoàn cảnh đáng thương của trẻ. Nhìn
những đứa trẻ phải lang thang, cơ nhỡ, không mẹ không cha, những cảnh đời
bất hạnh tại làng trẻ em Hà Nội, ở trại trẻ mồ côi, những đứa bé đánh giày,
Phùng Ngọc Hùng không thể cầm lòng. Hướng về trẻ thơ là nguồn cảm hứng
22
chủ đạo trong thơ Phùng Ngọc Hùng. Ông chân thành tâm sự: “Tôi mồ côi bố
sớm. Trăm chuyện nhờ vào bàn tay tần tảo của mẹ. Thuở nhỏ công việc chính
của tôi là chăn bò (một buổi đi học). Tôi gắn bó với bạn bè ở làng trong các
buổi chăn bò, đánh đáo, đánh khăng, đánh trận giả nhiều hơn là ở trường”.
Một quá khứ tuổi thơ vất vả, nghèo khó, nhưng thật thuần khiết, hồn nhiên…
Dễ hiểu, vì sao, ký ức tuổi thơ, hoài niệm và sự biết ơn những ngày
tháng gắn bó với gia đình, quê hương như một nỗi niềm da diết không thôi
trong thơ ông. Một con người nhạy cảm là điều người đọc dễ bắt gặp ở thơ
Phùng Ngọc Hùng. Có thể nói đến hình tượng một tác giả dễ mũi lòng trước
những số phận éo le trong xã hội, những đứa trẻ mồ côi, tàn tật, những con
người vất vả lam lũ trong thơ Phùng Ngọc Hùng. Khả năng để trở thành một
nhà thơ trữ tình ở Phùng Ngọc Hùng là hoàn toàn có thể
Phùng Ngọc Hùng là một người chỉn chu trong công việc, luôn cố gắng
hoàn thành những trọng trách được giao (từ là một giáo viên phổ thông lên
đến Bí thư Trung ương Đoàn, Thứ trưởng,…). Phùng Ngọc Hùng sớm bộc lộ
năng khiếu văn hóa, văn nghệ, không chỉ yêu thơ, còn rất say mê âm nhạc, am
hiểu về nhạc lý. Thơ ông được phổ nhạc khá nhiều vừa cho thiếu nhi vừa cho
người lớn. Cổ nhân từng nói: “Văn như kỳ nhân” (Văn như con người của nó
vậy). Thật đúng, khi “vận” điều này vào thơ Phùng Ngọc Hùng.
1.2.2.2. Phùng Ngọc Hùng – Nhà thơ của “Trẻ em hôm nay”…

Bao quát thơ Phùng Ngọc Hùng, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định:
Trong những tên tuổi đã khẳng định được vị trí của mình ở dòng văn học thiếu
nhi, có Phùng Ngọc Hùng. Và cũng hoàn toàn có cơ sở để gọi ông là Nhà thơ
của Trẻ em hôm nay – thế giới ngày mai !
Là cây bút chuyên tâm viết cho thiếu nhi, ông có 6 tập thơ viết cho các
em: Bé Hương và mèo con (1989) (đạt Giải thưởng Văn học thiếu nhi năm
1991), May áo cho mèo (1992), Chùa Tiên-Giếng Tiên (1997), Gọi bạn
(1999), Trẻ em và biển (2001), Ngày xửa ngày xưa (2008), và những bài thơ
23
đạt giải thưởng đăng trên Báo Văn nghệ: dù không phải quá nhiều nhưng
chứng tỏ văn học thiếu nhi với Phùng Ngọc Hùng là niềm đam mê và tâm
huyết của ông.
Tiếp xúc với thơ Phùng Ngọc Hùng, người đọc sẽ thấy một thế giới trẻ
thơ trong vắt, kỳ diệu và lung linh sắc màu. Thế giới đó có sự sum vầy bè bạn,
là những chú mèo, chú chó, chú gà trống choai, cả những con thạch sùng kêu
tắc tắc, những người bạn của tuổi thơ các em hiện lên phong phú, gần gũi và
rất thân thương.
Viết cho các em, nhà thơ vẽ lên muôn vàn điều kỳ thú trong thiên
nhiên, vạn vật, lý giải cho các em những sự vật kỳ bí trong thiên nhiên dưới
con mắt và cách tư duy của trẻ thơ. Song song với việc xây dựng một thế giới
trẻ thơ hồn nhiên, vô tư, nhà thơ cũng không quên đề cập đến những mảnh đời
còn gặp nhiều bất hạnh: những trẻ em lang thang cơ nhỡ, mồ côi, những trẻ
em còn phải vất vả mưu sinh với cuộc sống. Khi viết cho thiếu nhi, Phùng
Ngọc Hùng luôn ở trong tư thế quan sát các em, để viết một cách khách quan,
điều này có thể thấy ở mỗi tập thơ, nhà thơ luôn đặt tên một cách khách quan
nhất: Bé Hương và mèo con, May áo cho mèo,… Phải là khách quan mới thấy
được hành động của con trẻ, cũng như hiểu được tâm lý của các em, đó chính
là thái độ tôn trọng cái tôi của trẻ thơ.
So với các nhà thơ cùng thời, Phùng Ngọc Hùng là một cây bút tiêu
biểu cho dòng văn học thiếu nhi đương đại. Đóng góp của Phùng Ngọc Hùng

ở đây là không thể phủ nhận. Trên con đường đến với trẻ thơ, đến với văn học
thiếu nhi, nhà thơ luôn bền bỉ, viết cho các em không biết mệt mỏi. Ông luôn
giành tình yêu thương, vỗ về, trân trọng, chờ đợi các thế hệ tương lai của đất
nước.
Phùng Ngọc Hùng có tám tập thơ đã in, trong đó, có sáu tập thơ viết
cho thiếu nhi (hai tập khác chủ yếu viết về tình yêu, tình cảm gia đình, tình
yêu thiên nhiên và về Hà Nội). Sáu tập thơ viết cho thiếu nhi bao gồm: Bé
24
Hương và mèo con, May áo cho mèo; Chùa tiên - Giếng tiên; Gọi bạn;
Trẻ em và biển; Ngày xửa ngày xưa.
Bé Hương và mèo con (sáng tác đầu tay, được viết từ 1987 đến 1991),
được tặng Giải thưởng Thơ viết cho trẻ em. May áo cho mèo là tập thơ thứ
hai, gồm 20 bài thơ. Tập thơ tiếp tục mang đến cho người đọc cái nhìn có
chiều sâu hơn về trẻ em.
Chùa tiên - Giếng tiên (có thể xem như tập thứ ba) - truyện thơ kể về sự
tích danh lam thắng cảnh ở Lạng Sơn, mở ra cho các em thêm một hiểu biết
về địa danh trên đất nước.
Gọi bạn (tập thứ tư) là sự trở lại đầy nhiệt tình và hào hứng của Phùng
Ngọc Hùng đối với trẻ thơ. Tập thơ gồm 34 bài thơ ngắn, như một cuộc dạo
chơi thú vị mà nhà thơ muốn rủ rê, lôi kéo và dẫn dắt các em đến với thế giới
tuổi thơ hồn nhiên và lý thú. Có thể nói như Trương Hữu Lợi, “Gọi bạn - cuộc
dạo chơi thú vị với nhà thơ Phùng Ngọc Hùng”. Ở đây, “mỗi bài thơ ngắn
hiện lên như một bức tranh. Trong mỗi bức tranh đã thấy sự phong phú, đa
dạng của hiện thực, của đối tượng và đặc biệt là sự phát hiện tinh tế độc đáo
của tác giả cùng với lối nói, với ngôn ngữ thơ khá linh hoạt”[46].
Trẻ em và biển là tập thơ thứ năm của ông dành cho thiếu nhi. Trẻ em
và biển, một bên là hình dáng đứa trẻ nhỏ bé, một bên là cả vùng biển rộng
lớn, mênh mông, đặt bên nhau như thế, hẳn Phùng Ngọc Hùng muốn mở ra
cho các em một chân trời bao la, lạ lẫm để các em thoả sức khám phá, thoả
sức “vẫy vùng”. Tập thơ lấy nhan đề của bài thơ cùng tên Trẻ em và biển

chính là chủ đề xuyên suốt tập thơ. So với các tập trước, số lượng và chất
lượng nghệ thuật ở tập này đã tăng lên rất nhiều. Đọc tập thơ Trẻ em và
biển, thấy trẻ thơ bên cạnh những hồn nhiên, thơ ngây như ở các tập trước,
là những bất hạnh của các em… Tập thơ thể hiện cái nhìn đa chiều, sâu sắc
hơn về thế giới tuổi thơ.
Ngày xửa ngày xưa – tập thứ sáu ra đời, sau gần chục năm Trẻ em và
25

×