Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam tiếp nhận Nhật ký trong tù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.47 KB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ HỒNG LÊ

CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
TIẾP NHẬN NHẬT KÝ TRONG TÙ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ HỒNG LÊ
CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
TIẾP NHẬN NHẬT KÝ TRONG TÙ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN HỮU SƠN
NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 6
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài 10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Đóng góp của luận văn 11
7. Cấu trúc của luận văn 11
Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC VÀ HIỆN TƯỢNG TIẾP


NHẬN NHẬT KÝ TRONG TÙ
1.1. Khái quát về tiếp nhận văn học 12
1.1.1. Lịch sử ra đời, các khái niệm cơ bản và giá trị của lí thuyết tiếp nhận
1.1.2. Quá trình tiếp nhận của người đọc đối với một tác phẩm văn học
1.1.3. Phê bình văn học - một loại hình tiếp nhận đặc biệt
1.1.4. Việc nghiên cứu và vận dụng lí thuyết tiếp nhận ở Việt Nam
1.2. Nhật ký trong tù - một hiện tượng tiếp nhận đặc biệt 29
1.2.1. Giới thuyết về tập “Nhật ký trong tù”
1.2.2. Sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu
Chương 2 CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM TIẾP NHẬN NHẬT KÝ
TRONG TÙ VỀ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Trong chặng đường 1960 - 1975 38
2.1.1. Tinh thần yêu nước
2.1.3. Tố cáo tội ác của chế độ nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch
2.2. Trong chặng đường sau 1975 66
2.2.1. Giá trị nhân văn
2.2.2. Chất thơ trong tập “Nhật ký trong tù”
2.2.3. Tính chất triết lý trong “Nhật ký trong tù”
2.3. Vài nhận xét 86
Chương 3 CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM TIẾP NHẬN NHẬT KÝ
TRONG TÙ VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.2. Trong chặng đường trước 1975 89
3.2.1. Thể thơ
3.2.2. Bút pháp nghệ thuật
3.2.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
3.3. Trong chặng đường sau 1975 111
3.3.1. Tính thống nhất của ngôn bản nghệ thuật
3.3.2. “Nhật ký trong tù” - một tác phẩm mang tính hiện đại
KẾT LUẬN 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO

4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc Việt
Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cùng
với sự nghiệp cứu nước vĩ đại của mình, Bác còn để lại cho nền văn học
dân tộc nước nhà sự nghiệp văn, thơ đồ sộ. Hiện nay phong trào nghiên
cứu, học tập tư tưởng của Người ngày càng lan rộng và có chiều sâu, tư
tưởng đó không chỉ có ý nghĩa trong đấu tranh giải phóng dân tộc và công
cuộc đổi mới mà còn có ý nghĩa bền vững, lâu dài về mọi mặt đối với đất
nước trong tương lai. Vì thế việc nghiên cứu và tìm hiểu các sáng tác của
Người sẽ giúp chúng ta có một cách nhìn toàn diện hơn về tư tưởng vĩ đại
của Bác.
1.2. Nội dung học thuật nghiên cứu của thơ Bác được đề cao. Tác phẩm
Nhật ký trong tù không chỉ có ý nghĩa văn chương sâu sắc mà là tài sản vô giá
trong di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam, được các tầng lớp nhân dân cả
nước đón đọc, trở thành món ăn tinh thần của người dân đất Việt, là tác phẩm
quan trọng đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Tác phẩm không chỉ được
phổ biến sâu rộng ở trong nước, mà còn được đánh giá cao và giới thiệu bằng
nhiều thứ tiếng trên thế giới.
1.3. Tìm hiểu nghiên cứu Nhật ký trong tù qua cách tiếp nhận của các
nhà nghiên cứu ở Việt Nam. Thấy được quá trình phát triển của tư duy nghiên
cứu, tiếp nhận Nhật ký trong tù, phục vụ cho việc học tập và giảng dạy trong
nhà trường Giúp người đọc, người nghiên cứu có được cái nhìn đầy đủ hơn
về tập thơ Nhật ký trong tù qua sự tiếp nhận của các nhà nghiên cứu ở Việt
Nam khác với các nhà nghiên cứu người Việt Nam ở nước ngoài và các nhà
nghiên cứu trên thế giới.
5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Được nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học, giới văn nghệ sĩ trong

và ngoài nước đặc biệt quan tâm, đánh giá. Vì thế cho đến nay, số lượng các
công trình nghiên cứu, các bài viết về Nhật ký trong tù rất phong phú. Song
chưa có một công trình nào nghiên cứu quá trình tiếp nhận Nhật ký trong tù từ
1960 đến nay một cách có hệ thống, để từ đó đưa ra được những gợi ý về
phương pháp tiếp nhận Nhật ký trong tù có hiệu quả và phù hợp với lý luận
văn học hiện đại.
Qua những công trình, bài viết đề cập đến lịch sử tiếp nhận và đánh giá
cách tiếp nhận của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam tiếp nhận Nhật ký trong tù
ta có thể chia sự tiếp nhận đó thành hai giai đoạn: trước 1975; từ 1975 đến
nay. Ở mỗi giai đoạn đều có những cây bút phê bình tiêu biểu, những người
say mê Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh t×m hiÓu vµ nghiªn cøu.
Trước cách mạng. Bạn đọc có dịp hào hứng đón nhận âm hưởng trữ
tình của tập thơ trong tiếng đồng vọng của một hợp âm đầy chất tráng ca cách
mạng. Mỗi tấm lòng đến với Nhật ký trong tù đều mang niềm hào hứng chung
của cả cộng đồng mà đến, đều lựa chọn ở Nhật ký trong tù tiếng nói “đồng
thanh, đồng khí”, muốn chắt lọc ở đó những gì tiêu biểu cho tinh hoa, khí
phách của mình. Theo Nguyễn Huệ Chi, cái đẹp “cộng đồng” của tập nhật ký,
cái bản lĩnh kiên cường của một người cách mạng luôn luôn là tấm gương cho
cả cộng đồng soi chung, cả những phương châm về chiến lược và sách lược
chính trị mà người đó gửi gắm trong tập nhật ký bằng thơ, dù rằng không phải
lúc nào cũng dễ tìm thấy, đều được tìm tòi, phát hiện, được đồng cảm, thăng
hoa trong mọi cảm xúc [7, 16].
Bài viết đầu tiên về Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là T.S, đã viết
một bài báo ngắn nhan đề Quyển Nhật ký thơ của cụ Hồ, giới thiệu vắn tắt về
tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, số 43, ra ngày 6 - VI - 1946, tr.2, báo
Đồng minh, Hà Nội.
6
Theo tư liệu mới sưu tầm được của Nguyễn Hữu Viêm trong bài Báo
đầu tiên giới thiệu tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên báo
Hà Nội mới, số 48, ra ngày 25 - 02 - 1990, thì tác giả T.S. (có khả năng là bút

danh của Lê Tùng Sơn, một nhà cách mạng) là người đầu tiên được xem tập
thơ Ngục trung nhật ký tại Liễu Châu sau khi Hồ Chủ tịch mới ra tù, sau đó
ông đã giới thiệu tập thơ trên báo Đồng minh (Tuần báo tuyên truyền của Việt
Nam cách mạng đồng minh hội, bắt đầu chuyển về Hà Nội từ tháng 7 - 1945),
trong bài hồi ký ngắn gọn đó có bản phiên âm và dịch thơ bài Khai quyển.
Từ khi Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh được Viện Văn học dịch
tương đối đầy đủ 114/133 bài và công bố rộng rãi đầu năm 1960, tác phẩm
đặc sắc này đã lôi cuốn đông đảo các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước tham gia với hàng loạt các công trình nghiên cứu, các bài viết
được công bố.
Nguyễn Trác - Hoàng Dung - Nguyễn Đăng Mạnh (1962), Giáo trình
lịch sử văn học Việt Nam, tập V, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Chương VIII của
cuốn sách giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tập thơ và các mục: Một bản cáo
trạng lên án chế độ xã hội đen tối và chế độ nhà tù đẫm máu của bọn Quốc
dân đảng Tưởng Giới Thạch - Một tâm hồn cộng sản Việt Nam vĩ đại - Một
hồn thơ lỗi lạc - Vài nét về nghệ thuật của tập thơ: trữ tình và trào phúng; hiện
thực cách mạng và lãng mạn cách mạng.
Hà Minh Đức (1970), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà thơ lớn của dân tộc
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Công trình này tìm hiểu tác phẩm
thơ ca của Hồ Chủ tịch nói chung và tập Nhật ký trong tù nói riêng. Một quan
niệm cách mạng về thi ca - tư tưởng và nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Hồ
Chí Minh - Tính đảng, chủ nghĩa nhân đạo, tính hiện thực, tính sáng tạo nghệ
thuật, tính kế thừa truyền thống, sự cách tân, phong cách trào phúng và đặc
điểm nghệ thuật ngôn từ.
7
Những năm sau cách mạng, Nhật ký trong tù vẫn mở rộng ảnh hưởng.
Suốt những năm 80 mươi, bản dịch tập thơ được chỉnh lý, bổ sung và ba lần
in lại. Số lượng người đọc đến với tác phẩm cũng như sức lôi cuốn của tác
phẩm đối với họ, vẫn không có dấu hiệu giảm đi. Tuy thế, vẫn có điều rất
quan trọng: cách đến với Nhật ký trong tù đã khác hẳn trước đây. Sự hào

hứng sôi nổi buổi đầu dần dần lắng xuống. Theo Nguyễn Huệ Chi, người
đọc đã có một cự ly, một sự tỉnh táo để nhìn vào nơi thẳm sâu giữa những
dòng nhật ký, không phải với tư cách của cả cộng đồng đi tìm một mẫu hình
lý tưởng mà với tư cách những con người cụ thể tìm kiếm sự hiện diện của
một con người. Và từ trong mỗi tấm lòng riêng tư của họ, không hẹn mà gặp,
cùng nảy sinh một niềm cảm thông với tiếng nói “vô ngôn” ẩn sau câu chữ
của Bác Hồ. Con người thơ Hồ Chí Minh giờ đây vẫn hiện ra như xưa,
nhưng hình như cũng có mặt nào đó không giống như xưa. Có cái gì bớt
phần cứng rắn gân guốc, bớt đi ít nhiều tượng trưng, nhưng lại “người” hơn,
gần gũi thực với chúng ta [7, 16 - 17].
Hoàng Xuân Nhị (1976), Tìm hiểu thơ Hồ Chủ tịch, Nxb Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. Các bài thơ trong tập Nhật ký trong tù
được phân tích đan xen trong các phần: Những bài đặc biệt hay trong thơ Hồ
Chủ tịch và sự thống nhất giữa tính Đảng cộng sản, tính nhân dân và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ Hồ Chủ tịch Nội dung chuyên luận
chủ yếu tìm hiểu tính tư tưởng, tinh thần người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí
Minh qua thơ văn.
Nhiều tác giả (1979), Nghiên cứu học tập thơ Hồ Chí Minh, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tập hợp các bài viết, các
công trình nghiên cứu trước đó và cùng thời của các nhà nghiên cứu, phê bình
trong và ngoài nước về thân thế, sự nghiệp và những thành tựu lý luận, sáng
tác văn học của Hồ Chủ tịch trong đó có Nhật ký trong tù.
8
Nhiều tác giả (1997), “Đọc Nhật ký trong tù”, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội. Phần nghiên cứu của tập sách tập hợp bài viết về Nhật ký trong tù của
một số nhà thơ, nhà nghiên cứu và phê bình văn học: Trần Huy Liệu, Hoài
Thanh, Xuân Diệu, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Đăng Mạnh, Đặng Thai Mai, Hoàng
Trung Thông. Sách có in lại toàn bộ tập thơ Nhật ký trong tù theo bản dịch
của Viện Văn học 1960.
Viện Ngôn ngữ học (1980), Học tập phong cách ngôn ngữ của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trong tổng số 16 bài tìm
hiểu phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh có 2 bài nghiên cứu về
Nhật ký trong tù. Đây là công trình tập hợp nhiều bài viết, nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Tiêu biểu như: Lê Trí
Viễn, Thử gửi đi vào chỗ tinh vi của nguyên tác và bản dịch. Phan Các, Tiếng
Hán trong thơ Hồ Chí Minh.
Trong cuốn Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù, Nxb Giáo dục năm 1993,
do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) và 17 Giáo sư, nhà nghiên cứu cùng
cộng tác thực hiện. Ông có nhận xét rằng: “Ở chặng đường tiếp cận thứ hai đối
với Nhật ký trong tù cũng đã diễn ra, tuy có chậm trễ so với yêu cầu của thực
tiễn. Có điều, đây không phải là một bước đột khởi và hoàn toàn gián cách với
chặng đường cũ, bởi nó xuất hiện khi chặng đường cũ chưa chấm dứt, mặt khác
lại từ trong lòng phương pháp tiếp cận cũ mà nảy sinh, các yếu tố cũ mới
thường đan cài vào nhau một cách khá phức tạp, khó bề chia tách, nên muốn
nhìn nhận thật rõ không phải dễ dàng. Nhưng về một mặt nào đấy chính sự đan
cài này cũng lại có chỗ tích cực của nó, là một hình thức đấu tranh nội tại trên
con đường tiếp cận Nhật ký trong tù, có tác dụng dẫn đến những bước điều
chỉnh, những thông tin phản hồi đối với mọi sự chệch hướng, khiến cho nhận
thức khoa học về tập thơ nhật ký ngày càng một rõ ràng hơn. Đó là một kinh
nghiệm quý giá tích lũy lại được từ rất nhiều năm, nhất là trong các kết quả
9
nghiờn cu th H Chớ Minh chng mi nm tr li õy c ỳc kt li mt
chng ng v m ra mt chng ng mi [7, 18].
Nht ký trong tự ca H Chớ Minh ó c tỡm hiu, nghiờn cu hu
nh mi phng din v cụng b di nhiu hỡnh thc khỏc nhau: kho
lun, ging dy, bỡnh th Mc dự ra i cỏch õy hn 70 nm nhng Ngc
trung nht ký ó v vn luụn luụn c gii nghiờn cu tỡm tũi v phỏt hin
thờm nhng phm cht th ca ca nú.
La chn ti ny chỳng tụi hy vng cú th khỏi quỏt mt cỏch y
quỏ trỡnh tip nhn Nht ký trong tự ca cỏc nh nghiờn cu Vit Nam

qua cỏc giai on da trờn cỏc ti liu ó thu thp c v da trờn thnh qu
ca nhng ngi nghiờn cu trc, giỳp tit kim thi gian trong vic tỡm,
phõn loi cỏc bi vit, va cung cp nhng nhn xột b ớch, nhằm góp phần
vào việc định hớng tiếp nhận một cách hiệu quả Nht ký trong tự ca cỏc nh
nghiờn cu Vit Nam qua cỏc giai on nghiờn cu.
3. i tng nghiờn cu v gii hn ca ti
3.1. i tng nghiờn cu
Cỏc nh nghiờn cu Vit Nam tip nhn Nht ký trong tự.
3.2. Gii hn ca ti
- Mi ý kin phỏt biu ca cỏc nh nghiờn cu phờ bỡnh, cỏc nh th,
ca nhng ngi yờu th v cỏc tỏc phm th trong Nht ký trong tự u
thuc phm vi kho sỏt ca ti. Nú bao gm: Li ta, li bt bỏo, bi
nghiờn cu phờ bỡnh, cỏc ti liu vit v Nht ký trong tự.
4. Mc ớch v nhim v nghiờn cu
4.1. Mc ớch nghiờn cu
Qua kho sỏt Nht ký trong tự ca H Chớ Minh, lun vn nhm ch ra
s tip nhn Nht ký trong tự ca cỏc nh nghiờn cu Vit Nam trờn c hai
phng din: ni dung v ngh thut.
10
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn bao quát về tập Nhật ký trong tù
4.2.2. Khảo sát, phân tích, xác định và luận giải về phương diện nội dung
4.2.3. Khảo sát, phân tích, xác định những điểm tương đồng, gần gũi và
điểm khác biệt của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam tiếp nhận Nhật ký trong tù.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dùng nhiều phương pháp khác nhau, do đó có các phương
pháp chính: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, phân
loại, phương pháp so sánh, phương pháp cấu trúc - hệ thống.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở những vấn đề đã được nghiên cứu, luận văn là công trình

tập hợp thống kê Nhật ký trong tù của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam với cái
nhìn tập trung và có hệ thống.
Có thể dùng luận văn làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu, nghiên
cứu và tiếp nhận.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Khái quát về tiếp nhận văn học và hiện tượng tiếp nhận
Nhật ký trong tù
Chương 2: Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam tiếp nhận Nhật ký trong
tù về phương diện nội dung
Chương 3: Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam tiếp nhận Nhật ký trong
tù về phương diện nghệ thuật
11
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC VÀ HIỆN TƯỢNG
TIẾP NHẬN NHẬT KÝ TRONG TÙ
1.1. Khái quát về tiếp nhận văn học
1.1.1. Lịch sử ra đời, các khái niệm cơ bản và giá trị của lí thuyết
tiếp nhận
Khi bắt đầu xuất hiện tác phẩm văn học cũng là lúc xuất hiện hoạt động
thưởng thức, tiếp nhận. Đây là một thực tế hiển nhiên, vậy mà lâu nay lý luận
văn học chủ yếu tập trung nghiên cứu phương diện sáng tác mà ít quan tâm
đến thưởng thức, tiếp nhận. Vấn đề cảm thụ văn học của người đọc và vấn đề
thế hệ độc giả vì vậy còn chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng. Lý
thuyết tiếp nhận ra đời như một đòi hỏi, nhu cầu tất yếu của đời sống văn học.
Một mặt, nó khẳng định tính đa nghĩa của tác phẩm dựa trên sự đánh giá khác
nhau trong quan điểm, tư tưởng, tình cảm của người đọc, giới đọc, thế hệ
đọc, mặt khác nó làm thay đổi, chuyển hóa vai trò, ý nghĩa của tác phẩm và
người đọc, đưa người đọc vào vị trí trung tâm trong mối quan hệ ba chiều: tác

giả - tác phẩm - người đọc.
Với tư cách là một lý thuyết khoa học, lý thuyết tiếp nhận là một bổ
sung cần thiết cho khoa nghiên cứu văn học nhằm khám phá đầy đủ hơn tác
phẩm văn học và sự vận hành của nó trong đời sống. Lý luận tiếp nhận không
phủ nhận mối quan hệ giữa tác phẩm với nhà văn, với môi trường sinh thành
ra nó, không phủ định tác phẩm như một quá trình sáng tạo và như một cấu
trúc thẩm mỹ.
Ở phương Đông, từ thế kỉ I trước CN lý luận tiếp nhận văn học đã hình
thành hai quan niệm: Tri âm và Kí thác. Quan niệm Tri âm cho rằng nhiệm vụ
tiếp nhận văn học là cảm và hiểu cuộc sống được gợi lên trong tác phẩm như
12
chính tác giả. Vì sao Bá Nha đập vỡ cây đàn khi Chung Tử Kỳ chết? Vì đã
không còn người tri âm, thấu hiểu nỗi lòng của cầm gia thì đàn còn ý nghĩa gì
nữa. Quan niệm Kí thác thì xem tác phẩm như nơi để gửi gắm tư tưởng, tình
cảm của người đọc. Ở phương Tây, trường phái phê bình ấn tượng do
J.Lemaitre chủ xướng chủ trương tái hiện cảm xúc tinh khôi, tươi mới của
người đọc trong việc tiếp nhận tác phẩm. Hoạt động cảm thụ, phê bình tác
phẩm diễn tiến phong phú, đa dạng tác động không ít đến những người,
những nhà nghiên cứu lý luận, những người muốn đặt lý thuyết tiếp nhận trên
bình diện phương pháp luận để mổ xẻ, nghiên cứu.
Như vậy, không đợi đến thế kỉ XX, mà trước đó, vấn đề tiếp nhận văn
học đã được đề cập đến ở nhiều mức độ khác nhau. Nó báo hiệu một quy luật
tất yếu trong sự vận động và phát triển của lí luận văn học, đó là sự ra đời của
lí thuyết tiếp nhận. Tuy nhiên, để lí thuyết tiếp nhận thật sự được hình thành
và có những bước tiến vững chắc, cần kể đến những tiền đề trực tiếp sinh
thành ra nó bao gồm: chủ nghĩa cấu trúc và các hệ thống lí thuyết như Mỹ học
hiện tượng, Giải thích học.
Mặc dù ra đời sau những thành tựu của chủ nghĩa hình thức Nga, chủ
nghĩa cấu trúc đã khẳng định vai trò của người đọc đối với tác phẩm. Cụ thể,
với khái niệm “lạ hóa” (Octpahehue), Sklovsky khẳng định con người trước

những sự vật quen thuộc thường nhận biết một cách máy móc theo thói quen.
Do đó, trong nhiều trường hợp sẽ xảy ra hiện tượng “nhìn mà không thấy,
nghe mà không tỏ”. Và thiên chức của nghệ thuật là góp phần xóa bỏ hiện
tượng này. Theo đó Sklovsky đề xuất cách miêu tả làm cho sự vật trở nên mới
lạ, hấp dẫn bạn đọc. Bên cạnh những ý kiến của Sklovsky, chủ nghĩa cấu trúc
còn nhấn mạnh vai trò của người đọc với quan điểm khi người đọc đọc tác
phẩm, đơn thuần là họ đang tiếp xúc với một văn bản có những lời văn được
đan dệt nghệ thuật. Do vậy, mỗi người sẽ có một cách lý giải khác nhau.
13
Chính quan niệm này đã tạo tiền đề cho sự tôn vinh, tuyệt đối hóa vai trò của
người đọc trong lý thuyết tiếp nhận sau này. Đến giai đoạn chủ nghĩa hậu cấu
trúc, Jacques Derrida tiếp tục đưa ra quan điểm: “cái được biểu đạt” có thể
chuyển hóa thành “cái biểu đạt”. Nghĩa là tùy vào sự tiếp nhận của những đối
tượng khác nhau, một “cái biểu đạt” có thể tạo ra hàng loạt “cái được biểu
đạt”. Như vậy, những ý nghĩa của văn bản là một trọng điểm cần khám phá và
trọng điểm ấy, trong chủ nghĩa cấu trúc, đã được chuyển dần từ văn bản sang
người đọc.
Ngoài chủ nghĩa cấu trúc, các nhà nghiên cứu của Mỹ học hiện tượng
và giải thích học đã góp phần tạo nên những tiền đề vững chắc cho sự ra đời
của lí thuyết tiếp nhận. Chẳng hạn, Roman Ingarden trong công trình “Tác
phẩm văn học nghệ thuật”, chủ trương khi đọc tác phẩm, người đọc cần gạt
sang một bên tất cả những ý kiến của người khác. Chính chủ trương này đã
trở thành nền tảng để lí thuyết tiếp nhận xác lập tính chủ động, sáng tạo của
người đọc.
Từ những tiền đề trên, lí thuyết tiếp nhận đã có được cơ sở lí luận. Tuy
nhiên, để nó trở thành một hệ thống lí thuyết hoàn chỉnh, tiến bộ và mới mẻ,
chúng ta không thể bỏ qua vai trò của Hans Robert Jauss và Wolfgan Iser -
những người sáng lập nên lí thuyết tiếp nhận.
Hans Robert Jauss - người có công mở ra khoa lý luận tiếp nhận ở Đức
- cho rằng tác phẩm văn học vừa là cấu trúc, vừa là sự tiếp nhận của độc giả.

Nó không tồn tại trong chính nó mà còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố bên
ngoài. Trong công trình “Lịch sử nghệ thuật và lịch sử thực dụng chủ nghĩa”,
Jauss tiếp tục phân biệt sự khác nhau giữa lịch sử văn học và lịch sử nói
chung. Jauss nhấn mạnh: “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích…” - câu này
được coi là tuyên ngôn của mỹ học tiếp nhận. Đứng trước một thực tế rằng từ
trước đến nay người ta quen viết lịch sử văn học như một sự cộng (tức là viết
14
lịch sử văn học theo trình tự tăng tiến của thời gian) mà quên đi sự “tiếp
nhận” khi viết lịch sử văn học, Jauss đã đề nghị cần phải bổ sung, tăng cường,
phải chú ý đến yếu tố tiếp nhận trong quá trình viết lịch sử văn học. Từ đó,
ông đưa ra khái niệm tầm đón nhận (cách dịch khác là “tầm chờ đợi”, “tầm
đón đợi”, “chân trời chờ đợi” - tiếng Đức là “Erwartungs horizont”) - một
thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận. Tầm đón nhận này được đánh giá, nhận biết
trong mối quan hệ với tri thức, khả năng, cảm nhận của độc giả về tác phẩm
mà họ tiếp nhận. Trong công trình “Khôi phục niềm vui”, ông còn nhấn mạnh
sự chuyển dịch từ nhà văn sang bạn đọc trong sáng tạo văn học ở thế kỷ XX.
Đặc biệt, với những khái niệm trọng tâm bao gồm “tầm đón nhận”, “khoảng
cách thẩm mĩ”, “tiếp nhận dọc”, “tiếp nhận ngang”, Hans Robert Jauss đã xác
lập những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến kết quả tiếp nhận.
Khác Hans Robert Jauss, Wolfgan Iser chỉ tập trung nghiên cứu sâu về
sự tiếp nhận của người đọc trong một hoạt động đọc cụ thể. Với hai công
trình “Hoạt động đọc” và “Kết cấu vẫy gọi”, ông đã giúp người đọc thấy được
sự sản sinh ý nghĩa của văn bản, theo ba mặt của vấn đề, bao gồm: văn bản
tiềm ẩn, sự sản sinh ý nghĩa của văn bản, hiện tượng học và đọc.
Tóm lại, lí thuyết tiếp nhận ra đời trên cơ sở kế thừa, phát triển, kết hợp
những hệ thống lí luận kết hợp của những trường phái trước nó. Sự ra đời ấy
đánh dấu bước phát triển vượt bậc của lí luận văn học, mở ra những hướng đi
mới, những phương diện tiếp nhận mới đối với văn học nghệ thuật. Cụ thể,
lịch sử văn học trước đây chỉ là lịch sử của nội dung hay hình thức, nhưng khi
lí thuyết tiếp nhận ra đời, nó đã xác lập một quan điểm mới: “lịch sử văn học

phải là lịch sử của tiếp nhận văn học”. Theo đó, người nghiên cứu văn
chương buộc phải nắm vững các khái niệm: công chúng, tầm đón nhận,
khoảng cách thẩm mĩ, tiếp nhận dọc, tiếp nhận ngang.
Đối với lí thuyết tiếp nhận, “công chúng” được dùng để chỉ những loại
người đọc khác nhau của tác phẩm. Những loại người đọc ấy vừa là đối tượng
15
mà nhà văn muốn tác động, vừa có những tác động trở lại đối với nhà văn. Họ
được phân loại theo cách thức tiếp nhận, mục đích tiếp nhận, tầm đón nhận,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp, lứa tuổi, đặc điểm tâm lý, địa vị xã hội, môi
trường sống, thời đại và cội nguồn dân tộc Với một tác phẩm cụ thể thì đối
tượng công chúng luôn vận động, thay đổi. Đó chính là nguyên nhân khiến
người đọc tiềm tàng và người đọc thực tế của nhiều tác phẩm không trùng lặp
nhau, cho nên ý đồ nghệ thuật của nhà văn không hiểu hết, thậm chí bị hiểu
sai. Vì thế chúng ta cần xác định sự tiếp nhận văn học đích thực phải là sự
tiếp nhận của người đọc thực tế và khái niệm “loại người đọc” cần được hiểu
trên cả hai phương diện: Thứ nhất là khả năng, hiệu quả tác động của sáng tác
đối với người đọc; thứ hai đó chính là sự tác động của người đọc đối với tác
phẩm tiếp nhận.
Sau khái niệm “công chúng”, khái niệm “tầm đón nhận” được hiểu là
tầm văn hóa của người đọc. Nó hình thành trong quá trình tiếp thu các giá trị
nghệ thuật mang năng lượng thẩm mĩ của nhà văn, cùng sự rèn luyện về mặt
văn hóa của chủ thể tiếp nhận. Ban đầu, tầm văn hóa đón nhận tác phẩm của
một người đọc tương đối ổn định nhưng sau đó sẽ có thể thay đổi, điều đó phụ
thuộc vào những tác phẩm mà họ đọc sau đó. Cụ thể, khi người đọc tiếp nhận
một tác phẩm mới, có thẩm mĩ và nghệ thuật cao hơn tầm văn hóa hiện tại, họ
có thể bị thuyết phục bởi những giá trị, chuẩn mực nghệ thuật và nâng tầm
đón nhận của mình lên và ngược lại, khi người đọc tiếp nhận những tác phẩm
kém giá trị và bị cám dỗ bởi nó thì tầm đón nhận của họ có nguy cơ bị giảm
xuống. Như vậy, khái niệm “tầm đón nhận” đã thể hiện sự chi phối của người
đọc đối với tác phẩm, buộc tác giả phải xây dựng những nguyên tắc nghệ

thuật phù hợp với nhu cầu, với đa số thị hiếu của người đọc. Song, bên cạnh
sự ảnh hưởng của tác phẩm, người đọc còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố
khác như: trình độ văn hóa, đạo đức, quan niệm thẩm mĩ, nghề nghiệp, tuổi
16
tác, môi trường sống Cho nên, không chỉ ở những thời đại khác nhau mà
trong cùng một thời đại, một tác phẩm vẫn có nhiều cách hiểu và tiếp nhận
khác nhau.
“Khoảng cách thẩm mĩ” là một trong những khái niệm quan trọng của
lí thuyết tiếp nhận. Nó được hiểu là khoảng cách nằm giữa tầm đón đợi có sẵn
của công chúng và tầm thẩm mĩ của một tác phẩm. Chúng ta có thể nắm bắt
khoảng cách thẩm mĩ này về mặt lịch sử, trên phạm vi những phản ứng của
công chúng cùng những phán xét, phê bình. Đó chính là độ lệch giữa tầm đón
nhận của người đọc và tầm thẩm mĩ của tác phẩm. Nếu độ lệch ấy quá lớn sẽ
dẫn đến trạng thái tâm lí cực đoan của người đọc khi tiếp nhận tác phẩm theo
những khuynh hướng như: một là người đọc thờ ơ, thất vọng, dửng dưng với
tác phẩm, khi tầm đón nhận của họ cao hơn; hai là họ sẻ cảm thấy ngạc nhiên,
sửng sốt, phấn khởi, thích thú với tác phẩm nếu tầm đón đợi của họ thấp hơn
một chút; ba là họ sẽ rơi vào trạng thái do dự, lưỡng lự vì không đủ khả năng
để đánh giá tác phẩm, nếu tầm thẩm mĩ của nó quá cao so với tầm đón nhận
của họ.
Ngoài những khái niệm trên, lí thuyết tiếp nhận còn đề cập đến hai khái
niệm “tiếp nhận dọc” và “tiếp nhận ngang”. Khái niệm “tiếp nhận dọc” được
Hans Robert Jauss hiểu đó là quá trình tiếp nhận qua các thời đại khác nhau
đối với một tác phẩm, còn “tiếp nhận ngang” chính là tình hình tiếp nhận của
những loại người đọc trong cùng một thời đại. Với hai khái niệm này Hans
Robert Jauss đã chỉ ra sự ảnh hưởng của các yếu tố xã hội, thời đại đối với sự
tiếp nhận văn học, giúp chúng ta có một cái nhìn sâu sắc hơn về một tác phẩm
văn chương. Như vậy, với việc mở ra khoa lý thuyết tiếp nhận, học giả Jauss
đã đưa ra cái nhìn toàn cảnh, chi tiết (cách tiếp nhận đi từ diện đến điểm) về
những vấn đề của nghiên cứu tiếp nhận văn học. Cùng với sự thay đổi, xê

dịch của thời đại, của không gian - thời gian, mỗi tác phẩm văn học lại được
17
các thế hệ bạn đọc đánh giá, thưởng thức, tiếp nhận khác nhau. Đó chính là sự
thay đổi của chuẩn thẩm mĩ cộng đồng. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu văn
học Trương Đăng Dung từng nhận định là “những giới hạn của cộng đồng
diễn giải”.
Nhìn chung, lí thuyết tiếp nhận đã cực đoan hóa vai trò người đọc trong
quá trình tiếp nhận. Nhưng sự cực đoan ấy đã giúp hoạt động tiếp nhận văn
học được quan tâm đúng mức, từ đó những giá trị của lí thuyết tiếp nhận cũng
đã được soi sáng.
Lí thuyết tiếp nhận đã xác lập và khẳng định vai trò của người đọc như
là một đồng sáng tạo với nhà văn trong việc tạo ra giá trị mới cho tác phẩm
văn học, buộc các nhà nghiên cứu phải quan tâm đến mối quan hệ giữa độc
giả với các nhân tố khác của quá trình văn học, tạo đòn bẩy thúc đẩy sự phát
triển vượt bậc của lí luận văn học, giúp hệ thống lí thuyết ngày càng hoàn
thiện. Sự ra đời của lí thuyết tiếp nhận còn góp phần hệ thống hóa và phát
triển những ý kiến riêng lẻ về vấn đề tiếp nhận vốn tồn tại từ trước. Bên cạnh
những vai trò trên, lí thuyết tiếp nhận còn là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển nghiên cứu văn học hiện nay.
1.1.2. Quá trình tiếp nhận của người đọc đối với một tác phẩm văn học
Nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm là để truyền đạt những khái quát, cảm nhận
về cuộc đời cho người đọc. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của nhà
văn. Ngay khi viết cho mình thì “mình” đó cũng là một người đọc. Do đó,
chỉ khi được người đọc tiếp nhận, quá trình sáng tạo kia mới hoàn tất. Thông
qua hoạt động này, những tác phẩm văn học sẽ được xem xét, đánh giá nhiều
chiều khác nhau. Theo đó, những tác phẩm có giá trị, phù hợp với hoàn cảnh
xã hội sẽ được khẳng định, tôn vinh. Ngược lại những tác phẩm còn non
kém theo thời gian tất yếu sẽ bị đào thải. Để sự sàng lọc có kết quả chính
xác, văn học cần có những người đọc công tâm, tính năng động sáng tạo đủ
18

khả năng phát hiện tầm thẩm mĩ, ý nghĩa mới đích thực trong cảm nhận tác
phẩm của mình.
Đối với nhà văn, người đọc bao giờ cũng là hiện thân của nhu cầu xã
hội. Trong mọi trường hợp, mỗi khi nói tới người đọc, nhà văn đều cảm thấy
họ “yêu cầu”, “đòi hỏi”, “tin cậy”, “hứng thú”, “phê bình”, “dè bỉu”, “hồi
hộp”, “trông chờ” Còn nhà văn thì “đáp ứng”, “lí giải”, “tác động”, “lôi
cuốn”, “thuyết phục”, “giúp đỡ”, “truyền đạt”, “phơi bày”, “cho thấy” Tuy
nhiên, khái niệm người đọc có nhiều nghĩa. Hoặc đó là người đọc có thực, cụ
thể, lịch sử trong đời sống, hoặc đó là một quan niệm về một người đọc giả
thiết mà nhà văn hướng tới và cuối cùng là nhân vật mang danh người đọc
xuất hiện trong cấu trúc tác phẩm. Sự phân biệt này còn tương đối, nhưng nó
cho thấy mỗi phạm trù người đọc có một phạm vi tác động tới sáng tạo văn
học [44, 233]. Quá trình tiếp nhận bắt đầu từ lúc bạn đọc thực tế tiếp xúc với
tác phẩm, thông qua hành động chủ yếu là hành động đọc. Từ đây khoảng
cách thẩm mĩ giữa tầm đón nhận của người đọc và tầm đón đợi của tác phẩm
sẽ được bộc lộ qua những trạng thái và hiệu quả tiếp nhận khác nhau. Thậm
chí, trong nhiều trường hợp, độ lệch của tầm đón nhận ở hai thời đại sẽ tạo
nên hiện tượng “phản tiếp nhận”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử xác định
“phản tiếp nhận” cũng chính là một loại hình tiếp nhận, ông viết: “Nhiều khi,
do nhu cầu muốn thoát khỏi một ảnh hưởng nặng nề, người ta đã tìm tới sự
phản tiếp nhận. Nghĩa là thế hệ sau sẽ có cách hiểu ngược lại so với sự cảm
thụ của thế hệ trước, điều này không chỉ phụ thuộc vào tầm đón nhận mà còn
phụ thuộc rất nhiều vào động cơ tiếp nhận của người đọc [44, 133]. Vì đứng
trước một tác phẩm, có người muốn đọc để mở mang trí tuệ. Có người đọc để
mở mang thêm về đạo đức, lí tưởng. Có người đọc để học hỏi kinh nghiệm và
cũng có người đọc nhằm mục đích nhận xét, phân tích, đánh giá Thêm vào
đó, tâm thế tiếp nhận và thời điểm tiếp nhận của người đọc cũng ảnh hưởng
19
khá lớn đến quá trình tiếp nhận tác phẩm. Những giai đoạn, những trạng thái
khác nhau của tâm lí thường đưa đến những kết quả tiếp nhận khác nhau như:

có kiểu tiếp nhận thiếu trọn vẹn, nắm bắt hình tượng sơ lược; có kiểu tiếp
nhận thiên về lí trí, cốt nắm các thông tin về sự thực trong tác phẩm; có kiểu
tiếp nhận nặng về cảm xúc, liên tưởng; có kiểu chỉ theo dõi tình tiết, cốt
truyện; có kiểu tiếp nhận chỉ để giết “thì giờ” [44, 235].
Như vậy, người đọc bao giờ cũng là hiện thân của nhu cầu xã hội, nó có
đủ khả năng để làm nên tính năng động, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận.
Trong sự chi phối của tầm đón nhận, động cơ đón nhận và tâm thế đón nhận,
quá trình tiếp nhận tác phẩm diễn ra thông qua hoạt động đọc của độc giả với
những bước chuyển dịch cụ thể như sau: đầu tiên là lấp khoảng trống và đối
thoại với văn bản. Nhà mỹ học người Đức V.Iser từng nói tác phẩm là một
“kết cấu vẫy gọi”, mở ra trước mắt người đọc những khoảng trống để họ có
thể phát huy năng lực sáng tạo. Nhà giải thích học Hans Georg Gadamer cũng
từng nhấn mạnh tác phẩm là một hệ thống mở, ý nghĩa của nó nằm trong vô
số cuộc “đối thoại” giữa công chúng và văn bản. Vì vậy muốn tiếp nhận tác
phẩm, người đọc phải thể nghiệm và lấp đi những “chỗ trống” của văn bản.
Hoàn tất bước đầu tiên, người đọc bắt đầu tái hiện để tái tạo. Đầu tiên
là tái tạo hình tượng, tiếp theo là thay đổi những tình cảm trong tác phẩm theo
tình cảm khác và cuối cùng là giải thích tác phẩm theo một quan niệm mới.
Trước hết, ở phương diện tái tạo hình tượng, mỗi độc giả sẽ có cách riêng để
hình dung ra những hình tượng mà tác giả đã xây dựng. Cho nên, hình tượng
được tái tạo từ các tác phẩm là vô cùng phong phú. Sau cùng, người đọc có
khuynh hướng giải thích lại những vấn đề của tác phẩm theo quan niệm của
bản thân. Điều này, thể hiện rõ tính sáng tạo, chủ động của người tiếp nhận.
Sau khâu tái hiện để tái tạo, quá trình tiếp nhận được hoàn tất ở khâu lí
giải và ngộ nhận. Sự tiếp nhận của người đọc và tác giả không phải lúc nào
20
cũng trùng khớp, không ít trường hợp người đọc đã ngộ nhận ý đồ của nhà
văn. Sự ngộ nhận ấy được chia làm hai loại: chính ngộ và phản ngộ. Trong
đó, chính ngộ là cách hiểu, cách lí giải tuy không đúng với ý đồ tác giả nhưng
vẫn có căn cứ từ trong tác phẩm. Còn phản ngộ là sự tiếp nhận và lí giải tùy

tiện, thậm chí cắt xén, xuyên tạc vấn đề, hoàn toàn không có cơ sở từ trong
tác phẩm.
Đến đây, quá trình tiếp nhận của người đọc coi như hoàn tất. Chỉ cần
hiểu đúng ý đồ của tác giả, hoặc có những chính ngộ, họ sẽ đạt được những
hiệu quả tiếp nhận nhất định. Đầu tiên là đồng cảm, bao gồm đồng cảm về tư
tưởng quan điểm với tác giả, đồng cảm về tình cảm, chí hướng hay cảnh ngộ
với nhân vật Cao hơn là sự thanh lọc, nó giúp người đọc cảm thấy tâm hồn
được điều tiết hài hòa, được mở rộng nâng cao. Trên cơ sở của sự đồng cảm
và thanh lọc, người đọc sẽ có được sự bừng tỉnh, nếu họ không ngừng suy
ngẫm, kết hợp những chân lí của tác phẩm và liên hệ với thế thái nhân tình.
Trên thực tế, sự bừng tỉnh của người đọc khi tiếp nhận một tác phẩm không
chỉ đơn thuần là sự tiếp thu những chân lí vốn có từ trong tác phẩm, mà đó là
một quá trình sáng tạo, thể hiện vai trò tích cực của người đọc trong quá trình
tiếp nhận. Nó có thể mang đến những ý nghĩa mới mẻ mà nhà văn chưa hề
nghĩ đến. Từ sự bừng tỉnh, người đọc có thể đạt đến trạng thái ghi tạc và tác
phẩm đó sẽ luôn để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Những cung bậc như:
đồng cảm, thanh lọc, bừng tỉnh cũng để lại trong lòng độc giả những dấu ấn
khó phai. Nhưng sự ghi tạc, do xuất phát từ những rung cảm mãnh liệt nhất
nên sự tồn tại của nó sâu sắc và bền bỉ hơn cả. Người đọc phải có bản lĩnh cao
để có thể cắt nghĩa tác phẩm một cách mới mẻ theo những bình diện mới, góc
độ mới, khắc phục những động hình đã mòn [44, 238].
Tóm lại, người đọc tiếp nhận văn học thường xuất phát từ thực tiễn đời
sống và nhu cầu tự nhiên của tình cảm, các cung bậc như: đồng cảm, thanh
21
lọc, bừng tỉnh, ghi tạc là những nấc thang của hiệu quả tiếp nhận. Chúng
không chỉ thể hiện tầm đón nhận của người đọc mà còn là thước đo giá trị của
tác phẩm, các sáng tác chân thực, tài nghệ, lột tả được nỗi niềm và ước ao của
công chúng đều được đón nhận nhiệt tình. Tuy nhiên sự “ưa chuộng rầm rộ”
cần được lí giải về mặt xã hội, chứ không phải là dấu hiệu giản đơn của giá trị
tác phẩm [44, 236]. Đồng cảm, thanh lọc, bừng tỉnh, ghi tạc, chỉ là những

trạng thái tâm lí tiếp nhận được dùng với ý nghĩa trung tính. Bởi người đọc
vẫn có thể có được những trạng thái đó khi đứng trước một tác phẩm phản
nhân văn. Thiết nghĩ, đây sẽ là một vấn đề lí thú đối với những ai thật sự yêu
thích và muốn hoàn thiện lí thuyết tiếp nhận.
1.1.3. Phê bình văn học - một loại hình tiếp nhận đặc biệt
Phê bình văn học là một trong những yếu tố quan trọng, không thể
thiếu để cấu thành khoa học về văn chương. Khác với lịch sử văn học, đối
tượng chủ yếu của phê bình văn học là những hiện tượng đang diễn ra trước
mắt. Việc các nhà phê bình nhắc đến những hiện tượng trong quá khứ, đề cập
đến những khuynh hướng trong tương lai, không nằm ngoài mục đích làm
sáng tỏ một vấn đề của văn học hiện tại. Nhiệm vụ chính của phê bình văn
học là theo sát sự phát triển của văn học trong từng thời kỳ, nhất là văn học
đương đại qua các tác phẩm và tác giả cụ thể để kịp thời đánh giá chính xác,
khách quan về các sự kiện, hiện tượng văn học nổi bật cũng như với một số
tác phẩm, tác giả [37, 7]. Từ đó, tạo cầu nối giữa nhà văn - tác phẩm - người
đọc. Về chủ thể tiếp nhận, nhà phê bình là những độc giả chuyên nghiệp.
Ngoài cảm xúc nhạy bén, kiến thức uyên thâm, năng lực thẩm mĩ vượt trội, họ
có quá trình tiếp nhận đặc biệt đối với tác phẩm. Quá trình đó buộc họ phải
vừa đọc tác phẩm một cách cẩn thận, nhiều lần để nghiền ngẫm, vừa phải ghi
chép, thống kê, đối chiếu, suy nghĩ về cái biểu đạt và cái được biểu đạt nhằm
đưa ra những ý kiến mới mẻ, hay những nhận xét giàu giá trị. Kết quả tiếp
22
nhận của họ thường được công bố trước xã hội dưới nhiều hình thức như: tiểu
luận, lời tựa, tùy bút, chân dung Do vậy, phê bình văn học được coi là hình
thức tiếp nhận đặc biệt. Ở đó, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp, chân
chính không phải là một độc giả chung chung. Họ chính là những độc giả đặc
biệt, vừa đại diện cho công chúng, vừa đại diện cho giới sáng tác. Vì mục
đích xây dựng một nền văn học tốt đẹp với những tác phẩm đỉnh cao, với
những ý kiến phê bình chân thành, đúng mực mang tính chuyên môn cao của
các nhà phê bình sẽ có tác dụng lớn đối với các tác giả trong việc định hướng

sáng tác, phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót đã mắc khi sáng tác. Qua đó,
ý kiến của họ vừa có tác dụng định hướng cho người đọc, vừa có vai trò điều
chỉnh đối với nhà văn.
Nhìn chung, trong sự vận động, phát triển của nền phê bình nhân loại,
người đọc có thể bắt gặp một trong ba kiểu nhà phê bình. Một là phê bình
“nghệ sĩ”: “Loại phê bình này thường chú ý đến cái hay cái đẹp của văn
chương, nhạy cảm với đặc trưng của nghệ thuật và có những phát hiện sắc sảo
tinh tế về nội dung và hình thức tác phẩm. Một số nhà văn khi cầm bút viết phê
bình bằng tay trái cũng có thể xem là những nhà phê bình “nghệ sĩ”” [25, 161 -
162]. Hai là phê bình xã hội dung tục, chỉ căn cứ máy móc vào hoàn cảnh xuất
thân của tác giả để đánh giá tác phẩm mà không quan tâm đến đặc trưng của
sáng tạo nghệ thuật hay cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Ba là loại phê bình
có tính chất học thuật nghiêm túc, đứng trên lập trường mác - xít, luôn căn cứ
vào những tiêu chí khoa học để đánh giá mọi hiện tượng văn học. Nhưng dù ở
loại phê bình nào, thực tế đã chứng tỏ rằng phê bình văn học là một công việc
nhọc nhằn, phức tạp, dễ đụng chạm, làm mất lòng người khác, kể cả những hệ
lụy phiền phức cho người phê bình. Chính vì vậy mà nhà phê bình có bản lĩnh
phải can đảm dấn thân, lao vào công việc, “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, làm việc
với tất cả tinh thần trách nhiệm cao cả và lương tâm trong sáng, vì mục đích
23
xây dựng một nền văn học tốt đẹp với những tác phẩm đỉnh cao, chứ không
phải vì mục đích tư lợi cá nhân. Các nhà sáng tác và đông đảo quần chúng đòi
hỏi nhà phê bình cần có thái độ thận trọng, công tâm, công bằng khi nhận xét,
tác phẩm, tác giả hay một hiện tượng văn học [37, 8]. Tất cả góp phần đa dạng
hóa nền phê bình nước nhà, giúp các tác phẩm được nhìn nhận đa chiều, đa
kích; từ đó thúc đẩy nền văn học dân tộc phát triển.
1.1.4. Việc nghiên cứu và vận dụng lí thuyết tiếp nhận ở Việt Nam
Lí thuyết tiếp nhận không còn là vấn đề mới ở Việt Nam. Tuy nhiên,
chúng ta chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Do được tiếp nhận mà
tác phẩm văn học có thể tham gia vào các môi trường xã hội khác nhau, thuộc

các thời kỳ lịch sử khác nhau. Đời sống lịch sử của tác phẩm văn học là sự
vận động của tác phẩm trong dòng trôi của các thế hệ và thời đại lịch sử.
Truyện Kiều cũng là một hiện tượng nổi bật về đời sống lịch sử qua các thời
đại. Từ khi ra đời Truyện Kiều liền được yêu chuộng, nhưng cũng được tiếp
nhận khác nhau. Phái người đọc đại diện cho đạo đức phong kiến chính thống
(như Minh Mệnh, Tự Đức, Nguyễn Văn Thắng ) đều tiếp nhận Truyện Kiều
như hiện thân cho sự hi sinh thân mình để gìn giữ cương thường luân lí phong
kiến. Trong một bài thơ, Tự Đức nói rõ:
Ngẫm lại cổ kim người hào kiệt
Một thân mà gánh đạo cương thường
Được thua sướng khổ, thôi đừng nói
Hẵng đem lời ngọc phả văn chương
(Nguyên văn chữ Hán)
Nguyễn Công Trứ mạt sát Kiều cũng từ một lập trường ấy (xem bài
Vịnh Thúy Kiều). Trái lại phái người đọc đại diện cho lớp trí thức bất đắc chí,
thì tiếp nhận Kiều như hiện thân của số phận tài tình bạc mệnh. Tiêu biểu là
Phạm Quý Thích:
24
Đoạn trường trong mộng căn duyên hết
Bạc mệnh đàn xong, oán hận còn
(Nguyên văn chữ Hán)
Sang đầu thế kỉ XX, trước hiện thực đen tối, Nguyễn Khuyến tiếp nhận
Kiều như một bức tranh hiện thực:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Đời trước làm quan cũng thế a?
Từ lập trường của một kẻ bán nước làm tay sai cho giặc, Phạm Quỳnh
tiếp nhận Kiều như một thể hiện cho tính cách “trung dung” và “đành phận”.
Các nhà văn lãng mạn trước 1945 như Lan Khai, Lưu Trọng Lư, tiếp nhận
nàng Kiều như con người của nhận tính muôn thuở. Những độc giả tiến bộ,
cách mạng tiếp nhận Truyện Kiều qua cảm hứng tố cáo, nhân đạo, đòi quyền

sống (Hoài Thanh, Xuân Diệu ). Từ ví dụ trên đây cho ta thấy rõ đời sống
lịch sử của tác phẩm văn học là một hiện tượng phức tạp, không thuần nhất,
đầy mâu thuẫn. Hình tượng nghệ thuật, do vậy, không phải là nhất thành bất
biến. Từ đó không thể rút ra kết luận chiết trung, cho rằng trong lịch sử, tác
phẩm văn học là tổng cộng các sự tiếp nhận về nó. Bởi vì các sự tiếp nhận
trên tuy đều xuất phát từ tác phẩm, nhưng trong một số trường hợp, đã lệch
lạc, phiến diện, nói chưa tới hay nói quá đáng [44, 230 - 231].
Năm 1971, trong bài “Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học
và đời sống”, in trên Tạp chí Văn học, số 4, Nguyễn Văn Hạnh từng khẳng
định vai trò của người đọc. Ông chỉ rõ mối liên hệ giữa giá trị của tác phẩm
với phạm vi “thưởng thức” như sau: ở khâu sáng tác, giá trị là cố định; ở khâu
thưởng thức, giá trị của tác phẩm mới hiện thực và luôn luôn biến đổi. Nhưng
phải đến bảy năm sau, khi bản dịch “Song đề của mỹ học tiếp nhận” được
công bố, lí thuyết tiếp nhận mới được quan tâm. Năm 1980, trên Tạp chí Văn
học, số 4, giáo sư Hoàng Trinh có bài “Văn học so sánh và những vấn đề tiếp
25

×