Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên ở thành phố vinh, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 135 trang )

1
B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH
PHAN TH HOI
GIO DC BèNH NG GII CHO V THNH NIấN
THNH PH VINH, TNH NGH AN
TRONG GIAI ON HIN NAY
Chuyên ngành: LL V PPDH B MễN GIO DC CHNH TR
Mã số: 60.14.10
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS. TS. GVCC. Đoàn Minh Duệ
Ngh An, 2013
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn thạc sỹ với đề tài "Giáo dục bình đẳng giới
cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay", ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, tác giả còn nhận được sự
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo của PGS. TS. GVCC Đoàn Minh Duệ.
Học viên xin tỏ lòng tri ân sâu sắc tới Thầy.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Giáo dục
Chính trị; Phòng Đào tạo Sau Đại học - Trường Đại học Vinh; cán bộ Phòng
Bình đẳng giới - Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Tỉnh Nghệ An; cán bộ
Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội Thành phố Vinh đã tạo điều kiện
giúp đỡ và có những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình sưu tầm tài
liệu, soạn thảo đề cương và hoàn thành luận văn.
Ngoài ra, trong quá trình hoàn thiện luận văn, tác giả luôn nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình và tạo điều kiện tốt nhất từ Ban giám hiệu
Trường Truyền thông đa phương tiện VTC, anh, chị, em đồng nghiệp, đồng
môn và những lời động viên từ gia đình, bạn bè, người thân để tác giả cố
gắng tập trung hoàn thành luận văn. Xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành
từ những nguồn động viên quý báu đó.


Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn tài liệu và khả năng nghiên cứu của
bản thân cho nên luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót
cần được góp ý, sữa chữa.
Kính mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của Quý thầy cô và
bạn đọc để đề tài luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2013
Tác giả
Phan Thị Hoài
2
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1 BCH Ban chấp hành
2 CLB Câu lạc bộ
3 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4 GDBĐG Giáo dục bình đẳng giới
5 KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
6 LĐ, TB&XH Lao động, Thương binh và Xã hội
7 SKSS Sức khỏe sinh sản
8 THCS Trung học cơ sở
9 THPT Trung học phổ thông
10 UBND Ủy ban nhân dân
11 VTN Vị thành niên
3
MỤC LỤC
4
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bình đẳng giới là mục tiêu vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, vừa có
tính cấp bách vì bất bình đẳng giới là một trong những nguyên nhân dẫn đến
đói nghèo và là rào cản đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Để xóa

bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội cho nam và nữ trong phát triển kinh tế
- xã hội và phát triển nguồn lực tiến tới bình đẳng thực chất giữa nam và nữ,
thiết lập củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình, việc giáo dục bình đẳng giới cho vị thành
niên đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội,
vấn đề bình đẳng giới ngày càng được xã hội quan tâm nhiều hơn. Hội nghị các
quốc gia tại NewYork (Mỹ) năm 2000 đã xác định: bình đẳng giới là một trong
tám mục tiêu của thiên niên kỷ. Ở Việt Nam, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách thúc đẩy bình đẳng nam, nữ như Luật Chống bạo hành
phụ nữ; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; đặc biệt là Luật Bình đẳng giới
được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp lần thứ 10 ngày 29 tháng 11 năm
2006. Việc ban hành Luật Bình đẳng giới là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng
trong đời sống chính trị, xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình
đẳng giới ở Việt Nam và là sự tiếp tục khẳng định quyết tâm của Việt Nam
trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, hội nhập khu vực và quốc tế.
Với sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, mục tiêu bình đẳng giới
đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tại Hội nghị kiểm điểm thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam được coi là
điểm sáng về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, thuộc nhóm nước có thành tựu
khá trong khu vực về chỉ số phát triển giới, xếp thứ 87/144 quốc gia trên thế
giới [24; 7]. Ở Tỉnh Nghệ An, tính đến tháng 6 năm 2013, đã có 17/20 huyện,
5
thành, thị thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới [35; 2].
Trong đó, Thành phố Vinh dẫn đầu toàn tỉnh về việc hoàn thành các chỉ tiêu,
mục tiêu của Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới trên địa bàn Tỉnh Nghệ An năm 2012.
Những thành tựu đạt được về bình đẳng giới là rất to lớn nhưng trong
thực tế khoảng cách giới và sự phân biệt đối xử về giới vẫn còn tồn tại trong
đời sống xã hội. Ở Thành phố Vinh hiện nay, định kiến giới và tư tưởng trọng

nam khinh nữ vẫn ăn sâu vào nhận thức của đa số người dân, đặc biệt là vị
thành niên, cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em gái vị thành niên còn nhiều khó
khăn, trở ngại hơn so với trẻ em trai vị thành niên, số ca nạo phá thai trong nữ
vị thành niên còn cao Vì vậy, vấn đề giáo dục bình đẳng giới trong nhân dân,
đặc biệt là cho vị thành niên cần được toàn xã hội quan tâm.
Mặt khác, việc giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên sẽ góp phần
cung cấp thông tin, kiến thức cho nam, nữ trong độ tuổi vị thành niên về các
lĩnh vực bình đẳng giới, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến học tập, chăm sóc
sức khỏe, quan hệ bạn bè, học nghề và hướng nghiệp. Góp phần thay đổi thói
quen và hành vi gây bất bình đẳng giới và từng bước thu hẹp khoảng cách giới,
tiến tới bình đẳng thực chất và thực hiện có kết quả mục tiêu của kế hoạch hành
động thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn Tỉnh Nghệ
An giai đoạn 2011 - 2015.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Giáo dục bình đẳng
giới cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài luận văn cao học thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nói, trong những năm qua, vấn đề bình đẳng giới đã gây được sự
chú ý, quan tâm của nhiều cấp, ngành, nhiều lĩnh vực và nhiều nhà khoa học.
Chúng tôi xin tóm lược một số kết quả nghiên cứu chính sau đây:
6
Thứ nhất, đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học như: Ngày 16/11/2009,
tại Thành phố Hạ Long (Quảng Ninh), Tạp chí Cộng sản, Tổng cục dân số -
Kế hoạch hóa gia đình và Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA) phối hợp tổ
chức Hội thảo khoa học về chủ đề " Tuyên truyền bình đẳng giới - phòng,
chống bạo lực trên cơ sở giới trên các phương tiện truyền thông ở Việt
Nam". Qua các bài tham dự Hội thảo, vấn đề bình đẳng giới được đánh giá
là vấn đề phức tạp, muốn thực hiện được đòi hỏi quyết tâm cao của toàn xã
hội. Các nhà khoa học cũng nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của các
phương tiện truyền thông trong việc đưa Luật Bình đẳng giới vào cuộc sống;

Ngày 28/1/2010, Ban Dân vận Trung ương tổ chức Hội thảo trực tuyến
“Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động thực hiện Luật Bình đẳng giới
và Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, tại hai đầu cầu Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Mục tiêu của Hội thảo nhằm nâng cao nhận thức và
hành động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về thực hiện Luật Bình
đẳng giới và Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Hội thảo "Bình đẳng giới trong các
xu hướng giới tính" diễn ra ngày 29/9/2012 tại Trung tâm tâm lý học ứng
dụng Sông Phố (Đồng Nai). Tại Hội thảo, các nhà khoa học đã trình bày các
báo cáo về vấn đề: Tổng quan các nghiên cứu tâm lý, Sức khỏe tâm thần về
xu hướng giới tính, Tiếp cận y khoa về xu hướng giới tính, Quyền và các
vấn đề xu hướng giới tính ở Việt Nam, Tác động của xã hội với xu hướng
giới tính. Trên cơ sở những tham luận và ý kiến trao đổi tại hội thảo, Trung
tâm đã tiến hành một loạt các buổi tọa đàm chuyên đề tại các trường trung
học nhằm truyền thông đến vị thành niên những kiến thức về giới tính, qua
đó giúp các em có lối sống lành mạnh, có nhận thức và thái độ đúng mực với
vấn đề giới tính và tránh kỳ thị giới; Đặc biệt, ngày 28/11/2012, tại Thành
phố Vinh, Nghệ An đã diễn ra hội thảo “Nâng cao nghiệp vụ công tác bình
7
đẳng giới”. Thành phần tham dự hội thảo có các cán bộ chuyên trách và
kiêm nhiệm làm công tác bình đẳng giới ở tất cả 25 phường, xã và hiệu
trưởng các trường Tiểu học, THCS, THPT đóng trên địa bàn. Trong hội thảo
nhiều vấn đề được thảo luận như bình đẳng giới ở trẻ vị thành niên trong gia
đình, nhà trường và ngoài xã hội
Thứ hai, liên quan trực tiếp đến đề tài có nhiều bài viết như: Tác giả
Nguyễn Thanh Bình (chủ biên) (2004) với công trình "Những điều cần
biết để giáo dục giới tính cho con", Nxb Lao động; Tác giả Nguyễn Thị
Hồng Hạnh (chủ biên) (2007) với công trình "Tư vấn sức khỏe giới tính
tuổi VTN", Nxb Phụ nữ; Hoặc tác giả Sa Thị Hồng Hạnh (chủ biên)

(2007) với công trình "Cẩm nang chăm sóc sức khỏe giới tính", Nxb Văn
hóa phụ nữ. Nhìn chung các tác phẩm đã đi sâu phân tích, làm rõ thực
trạng và nguyên nhân của bất bình đẳng giới, trong đó nhấn mạnh đến bất
bình đẳng giới ở vị thành niên và định hướng giáo dục bình đẳng giới cho
vị thành niên.
Thứ ba, một số đề tài nghiên cứu khoa học tiêu biểu góp phần làm rõ cơ
sở lý luận cho việc thực hiện và đánh giá quá trình thực hiện Luật bình đẳng
giới ở nước ta. Chẳng hạn như đề tài: “Bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Nguyễn Hải An. Trong đề tài này, tác giả đề cập đến hiện
tượng bất bình đẳng giới trong đời sống xã hội Việt Nam và đi sâu vào nghiên
cứu các nguyên nhân của hiện tượng này; hoặc đề tài “Bình đẳng giới trong
lao động và việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phan
Trọng Tín. Với đề tài này, tác giả cũng đã nêu một số khái niệm về “giới”,
“bình đẳng giới”, “vai trò giới”; nêu một số chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới. Nội dung chính của đề
tài nghiên cứu về thực trạng bình đẳng giới trong lao động và việc làm giai
đoạn 2001 – 2006. Đề tài cũng đã đề xuất định hướng bình đẳng giới về lao
động và việc làm trong giai đoạn 2006 – 2010.
8
Liên quan đến vấn đề này còn có Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục
(chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục chính trị)
của tác giả Cung Thị Quỳnh Trang (bảo vệ tại Trường Đại học Vinh năm
2010): "Nâng cao chất lượng giáo dục bình đẳng giới cho phụ nữ ở Thành
phố Vinh, Tỉnh Nghệ An hiện nay"; Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục
(chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục chính trị)
của tác giả Phạm Xuân Mai (bảo vệ tại Trường Đại học Đồng Tháp năm
2011): "Giáo dục nhận thức bình đẳng giới cho phụ nữ ở Thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay". Các đề tài và luận văn cao
học đã nêu trên là tài liệu rất quý giúp tác giả hiểu rõ hơn cơ sở lý luận của
vấn đề nghiên cứu.

Như vậy, về mảng đề tài này đã có rất nhiều sách, báo, hội thảo, công
trình nghiên cứu khoa học đề cập. Nhìn chung, các nghiên cứu đã nêu lên
được cơ sở lý luận cũng như thực trạng bất bình đẳng giới, đồng thời đưa ra
được một số kiến nghị, giải pháp nhằm hạn chế tình trạng này trong xã hội
Việt Nam. Nhưng vấn đề giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên cho đến
nay chưa có tài liệu nào đề cập sâu. Vì vậy, tác giả tập trung nghiên cứu về
giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An
là vấn đề đang được nhiều người quan tâm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tập trung làm rõ thực trạng và đề xuất các giải pháp giáo dục bình
đẳng giới cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An nhằm làm cho
công tác ngày càng tốt hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên;
- Đánh giá, phân tích thực trạng về giáo dục bình đẳng giới cho vị
thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An;
9
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục bình đẳng
giới cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các giải pháp giáo dục bình đẳng giới cho vị thành
niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng giáo dục bình đẳng
giới cho vị thành niên trên địa bàn Thành phố Vinh; từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời trong quá trình thu thập tư liệu để viết luận
văn, chúng tôi còn tập trung sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp logic và lịch sử;
- Phương pháp điều tra, khảo sát;
- Phương pháp thống kê, so sánh;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề tài đưa ra được hệ thống giải pháp khoa học sẽ giúp cho các
phường, xã thuộc Thành phố Vinh triển khai thực hiện tốt hơn chủ trương,
chính sách về bình đẳng giới cho vị thành niên trong giai đoạn hiện nay.
7. Đóng góp của luận văn
- Đề tài đưa ra được một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Nghệ
An trong giai đoạn hiện nay.
10
- Báo cáo khoa học của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành chính trị, học viên cao học các khóa sau và những ai quan tâm,
tìm hiểu vấn đề này.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên.
Chương 2: Thực trạng giáo dục bình đẳng giới cho vị thành niên ở
Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
bình đẳng giới cho vị thành niên ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay.
11
B. NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI
CHO VỊ THÀNH NIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Giới, bình đẳng giới
1.1.1.1. Giới và giới tính
• Giới
Trên thế giới, thuật ngữ “giới” theo tiếng Anh là “gender” bắt đầu được
sử dụng trong các tài liệu khoa học xã hội của một số nước công nghiệp phát
triển cách đây chưa đầy 30 năm, và được du nhập vào Việt Nam khoảng 20 năm.
Theo quan điểm xã hội học, “giới” dùng để chỉ các đặc điểm, vị trí, vai
trò và mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ. Hay nói cách khác, giới là sự khác
biệt giữa phụ nữ và nam giới trong quan hệ xã hội. Ví dụ, trong các xã hội mà
quan hệ nam nữ không bình đẳng, nam giới thường làm nhiệm vụ quản trị,
còn phụ nữ thường làm nhiệm vụ thừa hành, hoặc chỉ ở nhà nội trợ và phụ
thuộc nam giới về mặt kinh tế, còn nam giới tham gia các hoạt động xã hội và
quyết định các vấn đề quan trọng trong gia đình. Nói đến mối quan hệ giới là
nói đến cách thức phân định vị trí xã hội giữa nam và nữ, liên quan đến hàng
loạt các vấn đề thuộc về thể chế và xã hội, chứ không phải là mối quan hệ cá
biệt giữa một nam giới và một nữ giới nào đó.
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực pháp lý, khái niệm "đàn bà”, “đàn ông”,
“trai”, “gái”, “nam”, “nữ” , “phụ nữ”, “nam giới”… đã được sử dụng trong các
bản Hiến pháp cũng như nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm “giới”
lần đầu tiên được quy định tại Luật Bình đẳng giới, được Quốc hội khoá XI kỳ
họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực từ ngày 01/07/2007.
Theo Khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới thì “Giới chỉ đặc điểm, vị trí,
vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội” [30; 1].
12
Theo tài liệu “Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi
chính sách” do Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam xuất bản năm

2004 thì: “Giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa
nam giới và phụ nữ”. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng, có thể nhận thức
được, có thể thay đổi theo thời gian và có mức độ khác nhau trong và giữa các
nền văn hóa khác nhau [46; 2].
Những đặc trưng về giới mang tính xã hội, do xã hội quy định. Giới thể
hiện các đặc trưng xã hội của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ
thuộc vào đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, cũng
như khu vực và các giai tầng xã hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã
hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi phụ thuộc vào sự thay đổi trong tư
tưởng, định kiến, nhận thức, thói quen và cách cư xử vốn được coi là mẫu
mực của cả xã hội. Sự thay đổi về mặt xã hội này thường diễn ra chậm và phụ
thuộc vào mong muốn và quyết tâm thay đổi của con người.
• Giới tính
Giới tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có;
nó mang tính phổ biến và khó có thể thay đổi. Khác với giới, giới tính không
chịu ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử và văn hóa.
Theo Khoản 2 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: “Giới tính chỉ các
đặc điểm sinh học của nam, nữ” [30; 1].
Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất (nam và nữ khắp nơi trên thế giới đều
có chức năng, cơ quan sinh sản giống nhau). Do các yếu tố sinh học quyết định
chúng ta sinh ra là nam hay nữ, chúng ta không thể lựa chọn được điều đó.
1.1.1.2. Bình đẳng giới và bất bình đẳng giới
• Bình đẳng giới
Quan điểm “nam nữ bình quyền” của Đảng và Bác Hồ đã được xác định
từ Cương lĩnh năm 1930, là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của Cách mạng
13
Việt Nam, và nó tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết của Đảng trong các
nhiệm kỳ, được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp và nhiều văn bản Luật.
“Bình đẳng giới” là thuật ngữ mới trong xã hội hiện đại, về thực chất
không ra khỏi nội dung của vấn đề bình đẳng nam nữ, là mục tiêu và thước đo

trình độ phát triển của xã hội.
Bình đẳng giới theo quan niệm xã hội học là sự đối xử ngang quyền
giữa hai giới nam và nữ, cũng như giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội, có
xét đến đặc điểm riêng của nữ giới, được điều chỉnh bởi các chính sách đối
với phụ nữ một cách hợp lý. Hay nói cách khác, bình đẳng giới là sự thừa
nhận, sự coi trọng ngang nhau đối với các đặc điểm giới tính và sự thiết lập
các cơ hội ngang nhau đối với nữ và nam trong xã hội.
Theo Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới, “Bình đẳng giới là việc
nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng
như nhau về thành quả của sự phát triển đó” [30; 2].
Văn bản của Liên hợp quốc đã chỉ rõ: “Bình đẳng về giới là nam nữ
được công nhận có vị thế xã hội ngang nhau, có những điều kiện như nhau để
thực hiện đầy đủ các quyền con người, có cơ hội như nhau để đóng góp và
hưởng lợi từ sự phát triển chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của đất nước”
[25; 19]. Quyền bình đẳng giữa nam và nữ là một nội dung cơ bản của Luật
nhân quyền quốc tế.
Báo cáo đánh giá thực trạng bình đẳng giới tại Việt Nam năm 2004 của
Hội Liên hiệp phụ nữ viết: “Bình đẳng giới là một cách tiếp cận giải quyết các
vấn đề đang đối diện với cả nam và nữ theo cách chia sẻ các lợi ích của phát
triển một cách bình đẳng, bảo đảm chống lại gánh nặng thiên lệch của những
tác động tiêu cực” [21; 4].
Theo tài liệu “Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi
chính sách” do Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam xuất bản năm
14
2004 thì “Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới” [46; 4]. Nam giới và nữ giới cùng
có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn
của mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn
lực của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống

bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội.
Bình đẳng giới thể hiện ở nhiều mặt:
- Nữ và nam có điều kiện ngang nhau để phát huy hết khả năng và thực
hiện các mong muốn của mình.
- Nữ và nam có cơ hội ngang nhau để tham gia, đóng góp và thụ hưởng
các nguồn lực của xã hội trong quá trình phát triển.
- Nữ và nam có các quyền lợi ngang nhau trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Như vậy, bình đẳng giới không chỉ đơn giản là số lượng nữ giới và nam
giới, hay trẻ em trai và trẻ em gái tham gia trong tất cả các hoạt động là như
nhau, cũng không có nghĩa là nam giới và nữ giới giống nhau, mà bình đẳng
giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được công nhận và hưởng các vị thế
ngang nhau trong xã hội, đồng thời, sự tương đồng và khác biệt giữa nam và
nữ được công nhận. Từ đó nam và nữ có thể trải nghiệm những điều kiện bình
đẳng để phát huy đầy đủ các tiềm năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng
góp và hưởng lợi bình đẳng từ công cuộc phát triển của quốc gia trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
Bình đẳng thực chất là bình đẳng cả về phương thức đối xử (trên văn
bản, quan điểm, chủ trương, đường lối) và kết quả thực tế của phương thức đối
xử đó. Điều này có nghĩa là muốn có bình đẳng giới thực chất thì cần phải bảo
đảm bình đẳng cho nam giới và nữ giới ở cả 3 mức độ: cơ hội tham gia (trong
văn bản); thực tế tham gia (tiếp cận nguồn lực; đóng góp; kiểm soát nguồn lực)
và lợi ích của sự tham gia (hưởng lợi từ thành quả lao động trong thực tế).
15
Bình đẳng giới vừa là vấn đề cơ bản về quyền con người vừa là yêu cầu
về sự phát triển công bằng, hiệu quả và bền vững.
Để biết mức độ bình đẳng giới trong quá trình phát triển, Liên hợp quốc sử
dụng một thước đo là “chỉ số phát triển giới” (Gender Development Index - GDI).
GDI lần đầu tiên được sử dụng tại Báo cáo phát triển người năm 1995.
"Chỉ số phát triển giới (GDI) là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng

bình đẳng giới, được tính trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và
thu nhập bình quân đầu người của nam và nữ" (Theo Khoản 9 Điều 5 Luật
Bình đẳng giới) [30; 2].
Chỉ số phát triển giới (GDI) càng tiến tới bằng 1 thì càng bình đẳng, và
càng lùi về 0 thì càng bất bình đẳng. Năm 1995, Việt Nam có GDI=0,537 xếp
vị trí thứ 74/130 nước; năm 1999, Việt Nam có GDI=0,662 xếp ở vị trí thứ
91/174 nước, trong đó nước có GDI cao nhất là Canada (DGI=0,928); năm
2005 GDI của Việt Nam là 0,702 đứng thứ 87/144 nước. Tại Hội nghị kiểm
điểm thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam
được coi là điểm sáng về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, một trong những
nước có thành tựu về bình đẳng giới tốt nhất khu vực Đông Nam Á.
• Bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều
kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người,
đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của gia đình và xã hội.
Hay nói cách khác, bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt với nam và
nữ, tạo nên sự tiếp cận các nguồn lực khác nhau, sự thụ hưởng khác nhau giữa
nam và nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo quan điểm xã hội học, bất bình đẳng giới là sự khác biệt giới gây
thiệt hại hoặc cản trở sự tiến bộ của nam và nữ. Tuy nhiên, không phải sự
khác biệt nào về giới cũng dẫn tới bất bình đẳng giới.
16
Các dạng tồn tại bất bình đẳng giới: gánh nặng công việc, sự phân biệt
đối xử, bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, những
định kiến rập khuôn và bạo lực trên cơ sở giới tính.
1.1.1.3. Định kiến giới và phân biệt đối xử về giới
• Định kiến giới
Theo Khoản 4 Điều 5 Luật Bình đẳng giới, "định kiến giới là nhận
thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và
năng lực của nam hoặc nữ" [30; 2].

Định kiến giới là suy nghĩ của mọi người về những gì mà nữ giới và
nam giới có khả năng làm và loại công việc mà họ có thể làm và nên làm; là
tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán
cho là thuộc tính của nam giới hay nữ giới.
Các định kiến giới thường theo xu hướng nhìn nhận ít tích cực, không
phản ánh đúng khả năng thực tế của từng cá nhân dẫn đến việc làm sai lệch và
hạn chế những điều mà một cá nhân nam, nữ có thể làm, cần làm hoặc nên
làm. Ví dụ: quan niệm cho rằng người phụ nữ không thể tham gia vào các
hoạt động quản lý, giảm nhẹ thiên tai, chỉ nên coi họ là một trong những đối
tượng cần quan tâm đặc biệt trong thiên tai.
• Phân biệt đối xử về giới
Do các định kiến giới dẫn đến sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ, cũng
như sự phân biệt đối xử về giới. “Phân biệt đối xử đối với phụ nữ” là bất kỳ
sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính có tác dụng
hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hoá việc phụ nữ được công
nhận, hưởng thụ hay thực hiện một cách bình đẳng các quyền con người và
những quyền tự do cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hoá, dân sự và các lĩnh vực khác, bất kể tình trạng hôn nhân của họ (Điều 1
Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử đối
17
với phụ nữ CEDAW). Theo Khoản 5 Điều 5 Luật Bình đẳng giới, "Phân biệt
đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng
vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình" [30; 2].
Theo quy phạm giải thích này, xóa bỏ phân biệt đối xử về giới là xóa
bỏ việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí
của nam và nữ không chỉ bao gồm những hành vi biểu lộ ra bên ngoài một
cách rõ ràng mà còn cả những hành vi ở dạng tiềm ẩn, khó phát hiện có tính
chất nhằm loại trừ hay hạn chế các quyền con người và quyền công dân trên
cơ sở giới tính. Đồng thời, cũng không phải chỉ là những hành vi có tác động

rõ ràng mà còn là cả những hành vi tiềm ẩn mục đích làm tổn hại hoặc vô
hiệu hóa các quyền con người và quyền công dân của nam, nữ. Do đó, việc
lồng ghép giới trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật cần được
quan tâm một cách thích đáng.
Phân biệt đối xử về giới chỉ có thể được xóa bỏ khi các cơ quan, tổ
chức, gia đình và cá nhân hiểu sâu sắc, hiểu đúng và toàn diện những khía
cạnh liên quan đến giới, giới tính và bình đẳng giới để không máy móc, rập
khuôn theo hướng định kiến trong việc nhìn nhận về sự tham gia, đóng góp và
thụ hưởng thành quả từ sự tham gia, đóng góp đó của nam, nữ trong các môi
trường hiện tại mà hướng tới việc tìm ra các khía cạnh kỹ thuật tốt nhất bảo
đảm bình đẳng giới ở các môi trường đó trong tương lai.
1.1.1.4. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; Lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động bình
đẳng giới
• Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình
đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong
trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện,
18
cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp
dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh
lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời
gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được. (Theo
Điều 5 Khoản 6 Luật Bình đẳng giới) [30; 2].
• Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác
định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để
giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh (Theo Khoản 7 Điều 5 Luật Bình đẳng giới) [30; 2].
• Hoạt động bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân thực hiện nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới. (Theo Khoản 8

Điều 5 Luật Bình đẳng giới) [30; 2].
1.1.2. Giáo dục bình đẳng giới
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và
người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách
người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như
là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền
thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ
thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả
năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người.
Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ
giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và làm chủ được các
mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử trong xã hội.
19
Giáo dục bình đẳng giới (GDBĐG) phải chú trọng tới hai khía cạnh:
giáo dục nhận thức (nội dung) và giáo dục kỹ năng (cách thức). Giải pháp
giáo dục bình đẳng giới phải gắn liền với việc tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về bình đẳng giới, lồng ghép giới vào quá trình xây dựng chính sách,
chương trình, thực hiện và đánh giá trong cả lĩnh vực văn hóa và giáo dục.
Chính phủ và ngành Giáo dục - Đào tạo cần xây dựng và hỗ trợ các chương
trình có lợi cho trẻ em gái và phụ nữ, đặc biệt là các chương trình thúc đẩy
bình đẳng giới, bảo đảm bình đẳng giới căn cứ cụ thể vào tình hình phát triển
kinh tế - xã hội ở mỗi vùng miền.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay, thực hiện giáo dục bình đẳng giới cho
mọi người với một trong những mục tiêu là đến năm 2015 về cơ bản xóa bỏ
bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử đối với phụ nữ và trẻ em gái.
Công tác giáo dục bình đẳng giới là một nhiệm vụ quan trọng được các
cấp lãnh đạo và quản lý, các ban, ngành và toàn xã hội không ngừng quan

tâm. Có thể nói rằng giáo dục bình đẳng giới có tầm quan trọng to lớn đối với
sự phát triển của đất nước. Vì vậy, có một nhà giáo dục đã viết: Giáo dục một
người đàn ông, ta được một gia đình, giáo dục một người phụ nữ ta được cả
một thế hệ. Lợi ích trăm năm trồng người chính là xuất phát từ việc giáo dục
bình đẳng giới.
1.1.3. Vị thành niên
1.1.3.1. Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt, "Vị thành niên: người chưa đến tuổi được pháp
luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ" [28;1425].
Theo khái niệm trên, chúng ta biết rằng tuổi vị thành niên là giai đoạn
đặc biệt mạnh mẽ và phức tạp nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Biểu
hiện của nó là xảy ra đồng thời một loạt những thay đổi bao gồm: Sự phát
triển mạnh mẽ về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ xã
20
hội, bước đầu hình thành nhân cách nên nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý
nhất so với các lứa tuổi khác.
Trẻ vị thành niên là tương lai của xã hội. Ở lứa tuổi này, các em được
hưởng sự quan tâm, các chính sách ưu đãi dành cho người chưa thành niên
trong mọi lĩnh vực. Tuy vậy, hiện nay việc xác định trẻ trong độ tuổi nào
được gọi là vị thành niên còn thiếu rõ ràng và chưa thống nhất. Thực tế quy
định độ tuổi vị thành niên không phải bây giờ mới bàn mà từ lâu đã là đề tài
gây nhiều tranh cãi trên thế giới và cả Việt Nam. Nhất là khi ở mỗi văn bản
pháp luật lại có những quy định về độ tuổi khác nhau.
Ở các nước trên thế giới quy định về độ tuổi vị thành niên cũng khác
nhau: Nhật Bản, Indonesia, Hàn Quốc và Đài Loan quy định tuổi vị thành niên
là từ 13 - 17 tuổi; Ở Úc, Ấn Độ, Anh, Mỹ, Philippin là 13 - 18 tuổi; Một số
nước khác như: Brazil, Colombia và Peru quy định trẻ em từ 12 đến 17 tuổi là
vị thành niên; Riêng Trung Quốc vị thành niên là từ 14 - 17 tuổi
Theo tập quán của nhiều dân tộc trên thế giới, muốn chuyển từ lứa tuổi
vị thành niên sang lứa tuổi thành niên, phải trải qua nhiều nghi lễ, rèn luyện và

thử thách, gọi là tục thành đinh nguyên thủy. Sau lễ thành đinh, mới trở thành
thành viên chính thức và thực sự của cộng đồng, mới có quyền lập gia đình,
tham gia các hoạt động xã hội và tôn giáo tín ngưỡng.
Ở Việt Nam, tại các văn bản pháp luật, việc quy định về tuổi vị thành
niên còn thiếu đồng nhất.
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam năm
2004 quy định độ tuổi của trẻ em là dưới 16 tuổi, theo đó tuổi vị thành niên là
từ 13 đến dưới 16 tuổi.
Theo Luật Thanh niên năm 2005 thì độ tuổi của thanh niên là từ đủ 16
đến 30 tuổi.
21
Theo Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi nhận: "Trong
phạm vi công ước này, trẻ vị thành niên là người từ 13 đến dưới 16 tuổi". Và
nhiều điều ước, thỏa thuận quốc tế khác liên quan đến trẻ em mà Việt Nam đã
ký kết, tham gia quy định độ tuổi vị thành niên là từ 13 đến dưới 16 tuổi.
Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định, người từ đủ 16 tuổi
trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Theo Điều 112 Bộ luật Hình sự năm 1999 lại quy định, người nào hiếp
dâm trẻ vị thành niên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 7 đến 15
năm; Hay Theo Điều 114 Bộ luật Hình sự quy định, người nào cưỡng dâm trẻ
vị thành niên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 5 đến 10 năm.
Tại Khoản 1 Điều 115 về Tội giao cấu với trẻ em quy định, người nào
đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị
phạt tù từ 1 đến 5 năm.
Còn theo Bộ luật Dân sự năm 2005 nêu rõ, người thành niên là người
từ đủ 16 tuổi trở lên.
Bộ luật Lao động lại ghi rõ, người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi,

có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình, nam thanh niên không được kết hôn khi
chưa đủ 20 tuổi, nữ thanh niên không được kết hôn khi chưa đủ 18 tuổi.
Như vậy, theo chúng tôi mặc dù ở Việt Nam còn tồn tại nhiều quy định
khác nhau về độ tuổi VTN, nhưng nhìn chung đều cho rằng theo Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Thanh niên; Luật Hình sự lấy độ tuổi
VTN là từ 13 đến dưới 16 tuổi. Vì thế trong đề tài này, chúng tôi về cơ bản
đồng thuận với quan điểm vị thành niên là những người có độ tuổi từ 13 đến
22
dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, việc xác định độ tuổi vị thành niên là dựa trên sự
phát triển thể chất, tâm lý xã hội của từng thời kỳ, vì vậy sự phân chia này chỉ
mang tính chất tương đối.
1.1.3.2. Những thay đổi ở độ tuổi vị thành niên
* Thay đổi về thể chất
Nữ Nam
- Phát triển chiều cao.
- Phát triển cân nặng.
- Tuyến vú phát triển → Ngực to ra
- Khung chậu phát triển → mông to
ra (to hơn nam giới).
- Phát triển lông mu.
- Đùi thon.
- Bộ phận sinh dục phát triển: âm
hộ, âm đạo to ra, tử cung và buồng
trứng phát triển.
- Có kinh nguyệt.
- Ngưng phát triển bộ xương sau
khi hình thể đã hoàn thiện.
- Phát triển chiều cao và cân nặng.
- Phát triển lông mu.

- Thay đổi giọng nói (bể giọng,
giọng ồ ồ).
- Tuyến bã, tuyến mồ hôi phát triển.
- Ngực và hai vai phát triển.
- Các cơ của cơ thể rắn chắc.
- Lông trên cơ thể và mặt phát triển.
- Dương vật và tinh hoàn phát triển.
- Bắt đầu xuất tinh.
- Trái cổ do sụn giáp phát triển
- Ngưng phát triển bộ xương sau khi
hình thể đã hoàn thiện.
* Thay đổi về tâm sinh lý:
VTN là những người không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là
người lớn dù là con trai hay con gái, diễn biến tình cảm và tâm lý cũng có
những điểm giống nhau do lứa tuổi, tất nhiên ở mỗi giới có thể có các biểu
hiện ít nhiều khác nhau.
- Nhân cách: Cố gắng làm được những điều mình mong muốn. Thường
đặt ra những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi có thể làm gì? Các em phát triển mạnh
23
tính độc lập, muốn tách khỏi sự quản lý, kiểm soát của gia đình, phát triển
mạnh cá tính và muốn tìm kiếm những mối quan hệ bạn bè cùng lứa.
- Tâm lý: Các em bắt đầu có tư duy trừu tượng; các em ý thức được
mình không còn là trẻ con nữa, muốn được đối xử như người lớn. Muốn thoát
ra khỏi những ràng buộc của gia đình, thường xảy ra những xung đột giữa trẻ
VTN và cha mẹ.
- Tình cảm: Quan tâm và có cảm giác lạ với người khác phái, yêu
đương nông cạn, quan hệ tình dục không an toàn. Ở lứa tuổi VTN, nhu cầu về
tình bạn trở nên quan trọng và dễ chịu ảnh hưởng (tốt cũng như xấu) của
nhóm bạn đó; đặc biệt chú ý đến người bạn khác giới và dễ nhầm lẫn tình bạn
với tình yêu. Các em tiếp tục phát triển mạnh về tư duy trừu tượng, tuy vậy

các em lại thường thay đổi tình cảm một cách dễ dàng, khi vui, khi buồn kiểu
"sớm nắng chiều mưa".
- Hành động: Các em muốn thử sức mình và muốn khám phá những
điều mới lạ. Các em thường quan tâm đến những thay đổi của cơ thể, nhất là
các em gái dễ băn khoăn, lo lắng, buồn rầu về những nhược điểm ở cơ thể
mình khi so sánh với các bạn cùng lứa. Các em cũng bắt đầu quan tâm đến bè
bạn, muốn tách khỏi sự bảo hộ của bố mẹ, tuy nhiên các em vẫn còn quá trẻ,
chưa có kinh nghiệm và vẫn phụ thuộc vào bố mẹ và gia đình. Khi mong
muốn điều gì, các em muốn được thoả mãn nhu cầu ngay và có thể hành động
bất chấp hậu quả, trong khi về mặt tư duy các em chưa phát triển đầy đủ khả
năng tự phê phán. Cũng ở nhóm tuổi này các em thường muốn tìm hiểu về
khả năng hoạt động tình dục của mình.
Như vậy, tuổi VTN là thời kỳ có những thay đổi lớn lao trong cơ thể.
VTN đang đứng trước ngã ba đường đời, họ có thể và phải bắt đầu tự làm
việc cho mình. Nếu bắt đầu cuộc sống một cách tốt đẹp, các em có thể có
được một sức sống và ý chí để làm việc, nhưng các em cần giúp đỡ và cơ hội.
24
Những khả năng phát triển mới này tạo ra những hành vi mới. Những hành vi
này không những thay đổi tùy theo giới tính và sự trưởng thành về thể lực, trí
tuệ và những quan hệ xã hội của các cá nhân VTN mà còn tùy thuộc vào môi
trường xã hội, văn hóa, chính trị, vật chất, kinh tế nơi các em sống.
Thời kỳ tuổi VTN được đặc trưng bởi sự phát triển nhanh về tâm lý và
thể lực, đây cũng là thời kỳ đánh dấu những bước phát triển lớn về mặt xã hội
trong cuộc đời của mỗi con người.
Các nhà khoa học cho rằng, đây là thời kỳ đặc biệt, có nhiều biến đổi
đột ngột, mạnh mẽ và sinh lý - đánh dấu sự trưởng thành giới tính của tuổi
VTN. Sự phát triển thể chất đã tác động mạnh mẽ đến đặc trưng tâm lý, tạo
cho VTN có những rung động đầu đời, những cảm xúc giới tính, những khẳng
định và xu hướng thích được thừa nhận “đã là người lớn”, chính những cấu
tạo tâm lý mới đã tạo nên sự “nổi loạn” trong mọi hành vi ứng xử của tuổi

VTN, tạo nên những mâu thuẫn giữa VTN và phụ huynh, tạo nên hội chứng
bồn chồn, lo lắng, tò mò và “phá cách” của VTN.
Để khắc phục tình trạng trên, VTN cần được cung cấp kiến thức về cấu
tạo tâm, sinh lý lứa tuổi dậy thì; kiến thức về giới, giới tính và bình đẳng giới;
hình thành kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử trong gia đình, nhà
trường, xã hội và bạn bè. VTN cần được định hướng để có nhận thức đúng đắn
về bình đẳng giới để từ đó hình thành lối sống lành mạnh, có văn hóa.
Trên đây là những nét chính về phát triển tâm lý, tình cảm của các em tuổi
VTN. Sự phát triển đó sớm, muộn khác nhau giữa các cá nhân và phụ thuộc
không ít về môi trường sống của VTN trong gia đình, nhà trường và xã hội.
1.1.3.3. Ý nghĩa của độ tuổi vị thành niên
Tuổi VTN là một trong những giai đoạn sôi nổi nhất của cuộc đời, đây
là thời điểm mà VTN đảm nhận trách nhiệm mới và tự mình thử nghiệm,
khám phá và có khi là mạo hiểm. Các em đi tìm bản sắc riêng của chính mình,
25

×