BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHAN NHẬT LONG
GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG
TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP VIỆT - ÚC,
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHAN NHẬT LONG
GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG
TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP VIỆT - ÚC,
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MƠN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI VĂN DŨNG
3
NGHỆ AN - 2012
4
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các
thầy cơ giáo Khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Vinh đã tận tình truyền
đạt những tri thức quý báu, dìu dắt giúp đỡ tơi hồn thành tốt nhiệm vụ của
khóa học.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới TS. Bùi Văn Dũng, Trưởng khoa
Kinh tế, Trường Đại học Vinh đã tận tâm giúp đỡ tơi trong q trình học tập,
nghiên cứu và hướng dẫn, đóng góp ý kiến q báu cho tơi hồn thành luận
văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn Phòng Đào tạo Sau đại học, Đại học Vinh,
tập thể Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, bạn bè, đồng nghiệp và
các em học sinh, sinh viên đã tạo điều kiện giúp đỡ để tơi có được những thông
tin, số liệu xác đáng. Xin cảm ơn gia đình, người thân đã ln bên tơi động
viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành khóa học và hồn
thành tốt luận văn của mình.
Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả
Phan Nhật Long
5
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU.................................................................................................1
B. NỘI DUNG..............................................................................................11
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH, SINH VIÊN..........................................11
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài...................................................11
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên
trong giai đoạn hiện nay................................................................................33
Kết luận chương 1.......................................................................................42
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO
HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
VIỆT - ÚC, TỈNH NGHỆ AN....................................................................43
2.1. Tổng quan về Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc,
tỉnh Nghệ An................................................................................................43
2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên Trường Trung cấp
chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An.......................................................46
2.3. Thực trạng về công tác giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh,
sinh viên ở Trường Trung cấp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An...............................50
Kết luận chương 2.......................................................................................68
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH,
SINH VIÊN TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP VIỆT - ÚC,
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.............................69
3.1. Phương hướng giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên
trường trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn
hiện nay.........................................................................................................69
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật
cho học sinh, sinh viên Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.........................................................72
Kết luận chương 3.......................................................................................91
C. KẾT LUẬN.............................................................................................93
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................97
6
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CNXH
GD
GDYTPL
HS, SV
Nxb
PL
TC, CĐ, ĐH
YTPL
Chủ nghĩa xã hội
Giáo dục
Giáo dục ý thức pháp luật
Học sinh, sinh viên
Nhà xuất bản
Pháp luật
Trung cấp, cao đẳng, đại học
Ý thức pháp luật
1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng.
Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu để bảo đảm cho sự tồn
tại, phát triển của xã hội. Ngồi chức năng là một cơng cụ quản lý Nhà nước
hữu hiệu, PL còn là thước đo hành vi xã hội của con người và là công cụ để
chúng ta kiểm nghiệm nhận thức, điều chỉnh xã hội.
Giáo dục pháp luật cho cơng dân nói chung và cho HS, SV nói riêng là
một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia vì được coi là một phương thức để
xây dựng, phát triển nền văn hoá pháp lí, đảm bảo sự ổn định và bền vững của
mỗi quốc gia. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khi mà toàn
Đảng toàn dân ta đang đang nỗ lực xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, tất cả mọi người đều phải: “Sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật” thì việc tăng cường vai trò của PL được đặt
ra như một yếu tố khách quan. Điều đó khơng chỉ nhằm mục đích xây dựng
một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh mà còn hướng đến bảo vệ và phát
triển các giá trị chân chính, trong đó ý thức pháp luật đóng một vai trò quan
trọng.
Thực tế ở Việt Nam trong suốt thời gian qua cho thấy PL chưa thực sự
đi vào cuộc sống vì chúng ta chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, theo
kịp sự phát triển của xã hội; mặt khác, YTPL của người dân còn rất nhiều hạn
chế. Trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, trước đòi hỏi xu
thế hội nhập mở cửa hợp tác về kinh tế, văn hóa - khoa học kỹ thuật, bên cạnh
những thuận lợi, thời cơ và vận hội mới thì những khó khăn, thách thức của
tồn cầu hóa, của kinh tế thị trường, của sự phân hóa giàu nghèo trong đời
sống nhân dân, những tiêu cực tệ nạn xã hội cùng tình trạng suy thối đạo
2
đức, vi phạm pháp luật của một bộ phận không nhỏ HS, SV. Cũng như một số
địa phương khác, ở Nghệ An hiện nay các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật đã
và đang len lỏi vào học đường với chiều hướng gia tăng, địi hỏi cơng tác phổ
biến, giáo dục ý thức pháp luật cho học HS, SV cần được đẩy mạnh. Trong
những năm qua, công tác phổ biến GDYTPL được các cấp ủy Đảng, chính
quyền cùng với các cấp, các ngành, các đoàn thể quan tâm phối hợp với các
trường học trên địa bàn triển khai thực hiện sâu rộng nhằm nâng cao nhận
thức PL cho toàn thể cán bộ giáo viên và học sinh, góp phần ngăn chặn kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự
đoàn kết nội bộ, góp phần giữ vững trật tự trị an trên địa bàn.
Những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng, GD ý thức pháp
luật đã được cấp chính quyền địa phương và các trường học quan tâm hơn.
Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An cũng đang thực
hiện nhiều biện pháp nhằm giáo dục ý thức pháp luật cho HS, SV. Tuy nhiên,
thực tiễn vừa qua, công tác GDYTPL cho học sinh, sinh viên chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Ý thức pháp luật và tình hình thực hiện
pháp luật của một bộ phận không nhỏ HS, SV rất hạn chế. Tình trạng thiếu
hiểu biết về pháp luật và vi phạm pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra đối với
học sinh, sinh viên trong nhà trường. Vào thời kỳ hội nhập mặc dù có nhiều
HS, SV Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An có ý chí
vươn lên trong học tập, có hồi bão khát vọng lớn nhưng cũng dưới tác động
của nền kinh tế thị trường và cơ chế mở cửa và do nhiều nguyên nhân khác,
hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên có xu hướng ngày càng tăng. Một số
hành vi vi phạm pháp luật của các em khiến gia đình và xã hội lo lắng như: vi
phạm giao thông, đua xe trái phép, bạo lực nhà trường, cờ bạc, nghiện bia
rượu, ma túy, trong gia đình trẻ em thiếu kính trên nhường dưới, khơng vâng
lời cha mẹ, người lớn… Một số hành vi lệch chuẩn khác về mặt đạo đức như:
3
sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động và học
tập, thiếu ý thức rèn luyện, không dám đấu tranh với cái sai, thờ ơ vô cảm, vị
kỷ… cũng ngày càng nhiều hơn.
Nguyên nhân của những hiện tượng nói trên là do ý thức của các em về
vấn đề pháp luật rất thấp. Có nhiều giải pháp đưa ra để làm giảm các tệ nạn xã
hội nhưng những giải pháp đó chỉ được coi là giải pháp tình thế. Do đó cần
phải hình thành cho mọi người có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật
đặc biệt là đối tượng HS, SV ngay từ khi các em chưa phải là người tham gia
pháp luật thường xuyên. Vì thế, xây dựng chương trình giáo dục pháp luật
trong nhà trường là giải pháp mang tính lâu dài.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: Giáo dục ý thức pháp
luật cho học sinh, sinh viên Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay là rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương xây dựng một “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” thực sự của dân, do dân, vì dân, với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Không ngừng xây dựng và hoàn
thiện hệ thống PL, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí và
trình độ hiểu biết pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội. Cùng với việc
chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, Nhà nước đã
tiến hành nhiều biện pháp nhằm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, bảo đảm cho
pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng.
Một trong những biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt đó là tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật. Đây là một biện pháp khơng thể thiếu được trong
q trình xây dựng và thực hiện PL, nhằm hình thành một cách bền vững ý
4
thức tôn trọng pháp luật của người dân. Xác định đúng tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền, phổ biến, GD nâng cao YTPL nên trong Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh phải phát huy dân chủ
đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội
bằng pháp luật, tuyên truyền, GD toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật. Đây chính là điều kiện đảm bảo cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc
tế thành công, khẳng định vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Những nội dung liên quan đến lĩnh vực YTPL, thời gian qua đã có một
số người quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần đây ở những góc độ
khác nhau, các tác giả đã cho ra mắt bạn đọc các cơng trình nghiên cứu của
mình, dưới các hình thức như đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,
sách, các bài viết trên các tạp chí, các báo...
Với quan niệm phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là giáo dục pháp
luật cho học sinh trong các nhà trường là giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục
ý thức công dân, ý thức làm người, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng, khẳng định vai trị chiến lược
của cơng tác giáo dục pháp luật trong nhà trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc
triển khai thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường.
Để đẩy mạnh công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nhằm “tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp” theo tinh thần Nghị quyết số
08/NQ-TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới [26], góp phần vào việc thực hiện “phát
huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản chất Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức
và cơng dân”; ngày 09 tháng 12 năm 2003 Ban Bí thư trung ương Đảng đã
5
ban hành Chỉ thị số 32 - CT/TW Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của cán bộ, nhân dân [1]. Chỉ thị yêu cầu: Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và
Đào tạo phối hợp với Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa
phương tiếp tục hoàn thiện chương trình, giáo trình, sách giáo khoa về pháp
luật phục vụ trực tiếp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà
trường theo phương châm kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, học đi
đôi với hành. Việc đưa pháp luật vào giảng dạy trong nhà trường phải được
chọn lọc hợp lý, có hệ thống và bảo đảm hiệu quả thiết thực.
Với quan niệm phổ biến, GDYTPL, đặc biệt là giáo dục pháp luật cho
học sinh, sinh viên trong các nhà trường là giáo dục đạo đức, lối sống, giáo
dục ý thức công dân, ý thức làm người, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng, khẳng định vai trị chiến
lược của cơng tác giáo dục pháp luật trong nhà trường, tạo cơ sở pháp lý cho
việc triển khai thực hiện phổ biến, GDYTPL trong nhà trường như:
45/2007/CT-BGDĐT ngày 17/8/2007
Chỉ thị số
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Về việc
tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành giáo dục [2].
Công văn số 612/BTP-PBGDPL ngày 07/3/2008 của Bộ Tư pháp Về việc
hướng dẫn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, năm 2000 [5].
Sau khi Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng ban hành, cơng tác phổ biến giáo dục pháp luật, trong đó có hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường học được các cấp, các ngành
được quan tâm, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo hướng dẫn, đó là: Quyết định
số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật từ năm 2008 đến
năm 2012 [6]; Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2010
của Thủ tướng Chính phủ Về xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật
6
trong đó chỉ đạo việc xây dựng tủ sách pháp luật trong trường học [8]; Quyết
định số 1928/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ Phê
duyệt Đề án nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
nhà trường [7]; Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác Phổ biến, giáo
dục ý thức pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai
đoạn 2011 - 2015 [9]; Thông tư liên tịch số 30/2010/TTLT-BGD&ĐT-BTP
ngày 16 tháng 11 năm 2010 của Bộ GD - Đào tạo, Bộ Tư pháp Hướng dẫn
phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong trường học [3].
Vấn đề này cũng đã đề cập trong một số cơng trình khoa học như:
- Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Kim Oanh (2008), Nâng cao ý thức
pháp luật cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở thành phố Cần Thơ hiện nay, [27].
Luận văn nêu ra một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao YTPL cho cán bộ
cấp cơ sở ở Thành phố Cần Thơ.
- Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Kim Ngân (2009), Nâng cao hiệu quả
việc phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước tại trung tâm học tập cộng đồng các phường xã trên địa bàn thành phố
Vinh - Nghệ An, [24]. Tác giả đề cập đến thực trạng việc tuyên truyền, phổ
biến các đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở các
trung tâm học tập cộng đồng tại thành phố Vinh, từ đó đề xuất các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian sắp tới.
- Luận án tiến sỹ ca Nguyn Th Thỳy Võn (2001), Lôgíc khách quan
của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ë ViƯt Nam [36]. Luận
án đã có những đóng góp rất lớn khi phân tích một cách sâu sắc và có hệ
thống một khía cạnh về ý thức pháp luật đó là q trình hình thành và phát
triển của ý thức pháp luật ở Việt Nam. Đây là cơ sở lý luận cho các cơng trình
nghiên cứu liên quan đến ý thức pháp luật.
7
- Luận văn thạc sĩ của Mai Thị Như Ngọc (2003), Ý thức pháp luật với
việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [25]. Tác giả
đã phân tích một số nội dung như đặc điểm, kết cấu, vai trò của ý thức pháp
luật đối với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các luận văn này có mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau,
nhưng nhìn chung, đều nêu ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao YTPL
và hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho một đối tượng cụ thể
của địa phương.
Các loại sách, báo, tạp chí đã được xuất bản có những bài viết liên quan
đến vấn đề này, như: Trường Đại học tổng hợp (1993), Giáo trình lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật [31]; Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp
luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới [35], Lê Đức Thiết (1994), Ý thức
pháp luật, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội [30], Nguyễn Minh Đoan (2004),
Yếu tố tâm lý pháp luật trong quá trình nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta
hiện nay [15]; Nguyễn Minh Đoan (2006), Ý thức pháp luật với đời sống xã hội
[16]. Các cơng trình trên thường đi sâu nghiên cứu một mặt hoặc một vấn đề cụ
thể nào đó của ý thức pháp luật như: khái niệm, cấu trúc, chức năng... của ý
thức pháp luật, hoặc những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật
Việt Nam.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu khoa học của tập thể và cá
nhân, các bài viết từ trước đến nay về giáo dục pháp luật đã có những đóng
góp quan trọng về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một
cơng trình luận án, luận văn nào nghiên cứu về giáo dục ý thức pháp luật cho
học sinh, sinh viên tại Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh
Nghệ An. Vì vậy, qua đề tài này tác giả mong muốn tìm ra những giải pháp
thiết thực nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên trong giai
đoạn hiện nay.
8
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng về giáo dục ý thức pháp luật
cho học sinh, sinh viên luận văn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức
pháp luật cho học sinh, sinh viên ở Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt Úc, tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về sự cần thiết phải nâng cao giáo dục ý thức
pháp luật cho học sinh, sinh viên;
- Phân tích thực trạng giáo dục và ý thức pháp luật của học sinh, sinh
viên Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An;
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên Trường Trung cấp chuyên
nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên Trường Trung cấp chuyên
nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh, sinh viên Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh
Nghệ An.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; các kết quả của những công trình nghiên
cứu về giáo dục pháp luật, ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên.
9
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp logic - lịch sử: sử dụng phương pháp này nhằm tìm
hiểu, nghiên cứu vấn đề theo trình tự khoa học từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hồn thiện đến hồn thiện;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: nhằm phân tích, đánh giá và khái
qt hóa các vấn đề trong tiến trình nghiên cứu đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát: quan sát thực tế vấn đề giáo dục ý thức pháp
luật cho học sinh, sinh viên Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh
Nghệ An;
+ Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phương pháp này để xử lý
các số liệu thu được về mặt định lượng;
+ Phương pháp điều tra: sử dụng phiếu điều tra với hệ thống các câu
hỏi để thăm dò ý kiến của học sinh, sinh viên, cán bộ giáo viên và phụ huynh
về tình hình giáo dục ý thức pháp luật cho HS, SV Trường Trung cấp chuyên
nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện được một cách đồng bộ các giải pháp mà tác giả đã đề
xuất thì việc giáo dục ý thức pháp luật ở Trường Trung cấp chuyên nghiệp
Việt - Úc, tỉnh Nghệ An sẽ không ngừng được nâng cao và ý thức pháp luật
của học sinh, sinh viên cũng được cải thiện theo chiều hướng tích cực.
7. Những đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: góp phần xây dựng cơ sở lý luận về việc nâng cao
hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật tại Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt Úc, tỉnh Nghệ An.
10
- Về mặt thực tiễn: nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ý thức pháp luật
cho HS, SV Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An thông
qua thực hiện các giải pháp trong thời gian tới.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tư liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của đề tài được cấu thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh, sinh viên
Chương 2: Thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh, sinh
viên Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc, tỉnh Nghệ An
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao giáo dục ý thức
pháp luật cho học sinh, sinh viên Trường Trung cấp chuyên nghiệp Việt - Úc,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Ý thức pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội nó tồn tại
bên cạnh những hình thái ý thức xã hội khác như ý thức đạo đức, ý thức chính
trị… Trong lịch sử tư tưởng của lồi người do có sự khác biệt về nhận thức
giữa các thời đại cũng như sự khác biệt trong quan niệm về lợi ích giai cấp
nên quan niệm về YTPL không phải lúc nào cũng có sự thống nhất.
Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa thơng thường (nghĩa hẹp) đó là ý thức
chấp hành pháp luật của con người, “ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của
các tầng lớp nhân dân về pháp luật… là thái độ đối với pháp luật, ý thức tơn
trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp
luật và phạm tội” [29; 609]. Quan niệm này đã đồng nhất YTPL với một trong
những biểu hiện của nó. Vì vậy, khi đánh giá ý thức pháp luật của một tập thể
hay cá nhân người ta thường căn cứ vào những hành vi chấp hành pháp luật
của chủ thể đó. Quan niệm này chưa thể hiện rõ đặc trưng cơ bản của khái
niệm, không thấy rõ được bản chất của ý thức pháp luật nên dễ rơi vào quan
điểm phiến diện và chủ quan.
Trong nghiên cứu lý luận cũng có nhiều quan niệm khác nhau về ý thức
pháp luật.
Có quan niệm tập trung nhấn mạnh cơ cấu của YTPL như: “ý thức
pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật và tâm lý pháp
12
luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan
điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tơn trọng và thói quen
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật” [28; 235].
Có quan niệm lại tập trung vào nhấn mạnh bản chất giai cấp của YTPL.
Đó là: “ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hịa những quan điểm quan
niệm, tình cảm pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân
dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo, đối với pháp luật, đối với những
yêu cầu khác của pháp luật, đối với các quyền và nghĩa vụ khác của cơng
dân” [37; 196].
Có quan niệm cho rằng: “ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết,
tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan
hệ thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp
luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp
hay khơng hợp pháp trong hành vi ứng xử của con người cũng như trong hoạt
động của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội” [10; 229].
Có quan niệm đề cập đến ý thức pháp luật một cách đầy đủ hơn khi nêu
lên được cả tính chất, cơ cấu và nội dung về của YTPL: “ý thức pháp luật là
một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết
pháp lý, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ
của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính cơng
bằng hay khơng công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, về hành vi hợp pháp, hành
vi không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan Nhà nước, tổ chức” [23; 290].
Nhìn chung các quan niệm trên về YTPL mặc dù về phạm vi và cách thức
đề cập có khác nhau nhưng nói chung về nội dung được đề cập là tương đối
thống nhất. Trên cơ sở tổng hợp các yếu tố hợp lý của các quan niệm nói trên
chúng ta có thể rút ra một cách hiểu đầy đủ, khái quát nhất về YTPL như sau:
13
Ý thức PL là một hình thái ý thức xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc
phản ánh một cách tích cực, sáng tạo và trực tiếp đời sống pháp luật, hình
thành những khái niệm, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người (cá
nhân, giai cấp, tầng lớp) đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu biết, thái độ của
họ đối với pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ và pháp luật trong
tương lai, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể PL, tính hợp pháp hay không
hợp pháp trong hành vi xử sự của cá nhân, các cơ quan Nhà nước, tổ chức
chính trị xã hội.
1.1.1.2. Kết cấu của ý thức pháp luật
Ý thức PL là một hiện tượng chính trị - pháp lý có kết cấu phức tạp. Kết
cấu của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức bên trong của ý thức pháp luật,
trong đó, giữa các nhân tố cấu thành của ý thức pháp luật có mối quan hệ biện
chứng với nhau vừa thống nhất lại vừa có tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Việc tìm hiểu kết cấu của YTPL, tức là nghiên cứu mối quan hệ bên trong của
các yếu tố cấu thành ý thức pháp luật, giúp chúng ta tìm hiểu con đường hình
thành ý thức pháp luật, sự đánh giá về ý thức pháp luật, cũng như phương thức
tác động GD để hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho HS, SV.
Có nhiều cách tiếp cận để xem xét kết cấu của ý thức pháp luật. Dựa
trên từng góc độ nghiên cứu có thể xem xét kết cấu ý thức pháp luật ở những
cấp độ khác nhau và mỗi cách phân chia này sẽ có ý nghĩa nhất định đối với
việc nhận thức bản chất, đặc điểm và vai trò của YTPL.
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất, nội dung của ý thức pháp luật có thể
chia ra thành tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật.
- Tâm lý pháp luật
“Tâm lý pháp luật là sự phản ánh tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm
của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác” [19; 329].
Sự tồn tại của tâm lý pháp luật thường gắn với trạng thái tâm lý của con
người đối với pháp luật được nảy sinh trực tiếp từ cuộc sống hằng ngày, từ
14
những mối quan hệ cụ thể về lợi ích tạo nên. Có thể khẳng định tâm lý PL là
nấc thang đầu tiên của nhận thức con người về những vấn đề liên quan đến
pháp luật, mang tính chủ quan, cảm tính.
Tâm lý pháp luật tồn tại phổ biến trong mọi cá nhân, nó là yếu tố ảnh
hưởng lớn đến sự hình thành YTPL cá nhân và YTPL xã hội. Tâm lý pháp luật
có tính bảo thủ cao, trong hoạt động giao tiếp hằng ngày thường xuất hiện
những trạng thái tâm lý pháp luật trong con người như tình cảm, tâm trạng, thói
quen, niềm tin, thành kiến … đây là những nhân tố tương đối ổn định. Trong
lịch sử những truyền thống pháp luật tốt đẹp ln được giữ gìn và phát huy.
Thói quen pháp luật, truyền thống pháp luật giúp cho con người hoạt động tự
tin, kiên định, điều chỉnh hành vi con người tốt lên, nó là nhân tố biểu hiện tính
tích cực, tiến bộ nên thường được tuyên truyền, khuyến khích pháp triển.
Tâm lý pháp luật của mỗi cá nhân chịu sự tác động mạnh mẽ, thường
xuyên, liên tục từ các yếu tố khách quan và chủ quan như: mơi trường xã hội;
điều kiện kinh tế, văn hóa; trình độ học vấn; các mối quan hệ gia đình, xã hội
của cá nhân. Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát, trong đời
sống hành vi của con người không chỉ diễn ra một lần mà thường lặp đi lặp lại
nhiều lần, qua đó nảy sinh nhu cầu điều chỉnh các hành vi xử sự của con
người sao cho phù hợp. Nhu cầu sử dụng các quy tắc điều chỉnh hành vi này
là tồn tại khách quan nhưng với các cá nhân khác nhau lại có cách nhìn nhận
và nảy sinh tâm lý về nhu cầu đó lại khơng giống nhau. Do đó, tâm lý pháp
luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm xúc. Ví dụ, tình
cảm đối với sự bình đẳng hay sợ hãi trước hình phạt, đồng tình hoặc phản ứng
với bản án.
Tình cảm pháp luật, tâm trạng pháp luật là nhân tố rất quan trọng trong
tâm lý PL. Bởi vì, trong thực tế một quy định PL mới ra đời phù hợp với
nguyện vọng, lợi ích, nhu cầu của con người thì xuất hiện trong họ tình cảm
tích cực, thái độ hưng phấn sẽ thôi thúc họ hành động. Ngược lại, nếu những
15
quy định đó khơng đem lại lợi ích cho họ, thì xuất hiện trạng thái tiêu cực,
buồn bã, chống đối, miễn cưỡng khi chấp hành.
- Hệ tư tưởng pháp luật
“Hệ tư tưởng pháp luật bao gồm tổng thể các tư tưởng, quan điểm, học
thuyết về pháp luật. Chúng đề cập đến vai trị, bản chất giai cấp, các thuộc
tính của pháp luật; giá trị xã hội của pháp luật cũng như mối quan hệ giữa
pháp luật với dân chủ, tự do, quyền con người…” [19; 329].
Bất kỳ một quốc gia nào với một chế độ chính trị xã hội thì hệ tư tưởng
PL chính thống của quốc gia đó bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị.
Hệ tư tưởng pháp luật không phải là sự phản ánh trực tiếp của đời sống
PL xã hội. Nó là sự phản ánh tự giác, gián tiếp, có mục đích, có tính tổ chức
cao của các hoạt động tư duy lý luận. Đó là hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quan điểm, tư tưởng của giai cấp thống trị đã được thừa nhận một cách phổ
biến, được truyền bá rộng rãi cơng khai thơng qua hoạt động của tồn bộ hệ
thống chính trị, các tổ chức xã hội.
Nội dung của hệ tư tưởng pháp luật là những tri thức về vai trị, chức
năng, bản chất giai cấp của PL, nó thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật với
quyền công bằng tự do, bình đẳng, dân chủ của con người trong xã hội, về
mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức xã hội trong
việc sáng tạo và thực thi PL.
Hệ tư tưởng pháp luật ln có xu hướng chuyển hóa mạnh mẽ thành
YTPL của toàn xã hội. Chúng nảy sinh, tồn tại, phát triển hay bị thủ tiêu đều
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Khi giai cấp thống trị là lực lượng
tiến bộ của xã hội, có lợi ích phù hợp với lợi ích căn bản của đơng đảo quần
chúng thì tính dân chủ, khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng PL sẽ được
phát huy tác dụng. Ngược lại, nó sẽ trở thành hệ tư tưởng pháp luật lạc hậu,
thậm chí là phản động.
16
- Mối quan hệ giữa tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật
So với tâm lý pháp luật thì hệ tư tưởng pháp luật mang tính lý luận, tính
hệ thống, tính khái quát cao hơn. Tư tưởng pháp luật với tư cách là công cụ
điều chỉnh xã hội, có chiều sâu hơn tâm lý PL. Nhưng điều đó khơng có nghĩa
là hệ tư tưởng PL có giá trị cao hơn, quan trọng hơn so với tâm lý PL. Tâm lý
pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật là hai bộ phận của YTPL tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại chặt chẽ.
Tình cảm của con người ở mức độ cảm xúc, phụ thuộc vào trình độ
nhận thức PL của cá nhân và chịu sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật.
Ngược lại, sự hoàn thiện của hệ tư tưởng pháp luật cũng chịu sự chi phối của
tâm lý pháp luật, nó chính là điều kiện, là tiền đề kích thích tư duy sáng tạo
của con người, hướng họ vươn lên trình độ tư tưởng PL. V.I.Lênin viết:
“khơng có sự xúc cảm của con người thì xưa nay khơng có và khơng thể có sự
tìm tịi chân lý” [22;131].
Như vậy, tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật là hai trình độ phản
ánh đời sống PL nhưng có mối quan hệ với nhau trong sự hình thành ý thức
pháp luật. Nếu khơng có tình cảm, xúc cảm đối với PL thì sẽ khơng hình
thành những quan điểm, tư tưởng pháp luật. Mặt khác, hệ tư tưởng PL có sự
tác động mạnh mẽ làm thay đổi tâm lý pháp luật.
Thứ hai, căn cứ vào trình độ nhận thức, ý thức pháp luật được phân
chia thành ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật khoa học.
- Ý thức pháp luật thông thường
“Ý thức pháp luật thông thường là những hiểu biết nhất định về các quy
phạm pháp luật, là những kinh nghiệm để giải quyết các sự việc pháp lý cụ
thể, đơn giản, nhưng sự hiểu biết đó chưa sau sắc, chưa có tính hệ thống và
khoa học” [19; 330]. Như vậy, ý thức PL thông thường phản ánh mối liên hệ
bên ngoài của các hiện tượng pháp luật, với tư cách là các sự kiện riêng biệt
của hiện thực đời sống chứ không phải là mối liện hệ bên trong, là tổng số các
17
mối liên hệ của đời sống pháp luật. Nó phản ánh nhận thức đời sống PL ở trình
độ cảm tính, thông qua thực tiễn đời sống hằng ngày, chưa được khái qt hóa,
hệ thống hóa.
Ý thức PL thơng thường ra đời một cách trực tiếp, tự phát từ hành động
giao tiếp hàng ngày trong quá trình con người sống, làm việc với nhau liên
quan đến các đóng góp ý kiến vào hiện tượng pháp luật. Từ đó hình thành ở
họ những kinh nghiệm, thói quen, tập quán xử sự các vấn đề liên quan đến
pháp luật (như xử lý các thơng tin PL, khă năng giải thích các sự kiện PL…).
- Ý thức pháp luật khoa học
“Ý thức pháp luật khoa học tòn tại dưới dạng quan điểm, học thuyết về
pháp luật, về bản chất của pháp luật, về sự tương tác giữa pháp luật và các hiện
tượng xã hội khác, vè vai trò của cơ chế điều chỉnh pháp luật…” [19; 330].
Khác với ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật khoa học phản ánh
một cách sâu sắc và có hệ thống các hiện tượng PL thơng qua nghiên cứu và
tổng hợp các kiến thức pháp luật.
Ý thức PL khoa học có vai trị hướng dẫn, chỉ đạo YTPL thơng thường
vì vậy nó là yếu tố quyết định tốc độ, phương hướng phát triển YTPL thông
thường. Đồng thời có chức năng dự báo, lập kế hoạch xây dựng chính sách
PL; tổ chức thực hiện pháp luật; giáo dục đào tạo, phổ biến kiến thức PL góp
phần nâng cao ý thức pháp luật.
Thứ ba, căn cứ vào chủ thể mang ý thức, YTPL được chia thành: ý thức
pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội.
- Ý thức PL cá nhân: “là ý thức pháp luật của mỗi thành viên trong xã
hội. Đó là những quan điểm, nhận thức, tâm trạng, thái độ, tình cảm đối với
pháp luật của mỗi cá nhân” [19; 330]. YTPL cá nhân được hình thành và phát
triển do tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan như điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa, GD, sức khỏe, trình độ học vấn… Trình độ ý thức pháp
18
luật ở mỗi cá nhân có sự khác nhau, vì vậy, YTPL cá nhân mang tính phong
phú, đa dạng và thể hiện ở nhiều vẻ. Nó có thể ở trình độ cao hay thấp, tiến bộ
hay lạc hậu, tích cực hay tiêu cực, mức độ phạm vi ảnh hưởng của nó sâu
rộng hay hạn hẹp… Trước mỗi sự việc, sự kiện, hiện tượng PL xảy ra trong
đời sống hàng ngày thì YTPL cá nhân chính là cơ sở để mỗi người đưa ra sự
phán xét, đánh giá riêng của mình về hiện tượng, sự kiện, sự việc đó.
Ý thức PL cá nhân là cơ sở để hình thành YTPL xã hội tuy nhiên không
phải bất kỳ ý thức pháp luật cá nhân nào cũng đạt tới trình độ ý thức pháp luật
xã hội. Do đó, nhiệm vụ của cơng tác GD pháp luật là nâng cao trình độ
YTPL cá nhân lên ngang bằng với trình độ của ý thức pháp luật xã hội.
- YTPL nhóm: “là những tư tưởng, quan điểm, nhận thức, tình cảm
pháp luật của một nhóm người trong xã hội” [19; 330]. Sự giống nhau về điều
kiện đời sống và lợi ích tạo cho những thành viên của nhóm đó có những thái
độ, khái niệm tương đối giống nhau đối với pháp luật.
- YTPL xã hội: “là ý thức pháp luật của một bộ phận tiên tiến trong xã
hội, đại diện cho xã hội” [19; 330]. Đó là tổng thể những tư tưởng, tình cảm
chung của các cá nhân, các cộng đồng trong xã hội được thừa nhận và thịnh
hành phổ biến trong xã hội về pháp luật và những vấn đề của pháp luật.
Ý thức PL xã hội được hình thành xuất phát từ ý thức pháp luật cá
nhân, nhưng nó khơng phải là “tổng số đơn giản” các nội dung chứa đựng
trong đó mà là kết quả của sự “chắt lọc, kết tinh” từ quá trình tương tác giữa
YTPL của cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm, cá nhân với xã hội. Ý thức
PL xã hội giữ vai trò định hướng và quyết định đối với nội dung các phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội về các vấn đề liên quan đến PL.
Sự phân chia YTPL trên đây thành các bộ phận dù theo tiêu chí nào
cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối, phục vụ cho mục đích khảo sát, nghiên cứu,
học tập… Bởi vì, các bộ phận cấu thành đó luôn nằm trong mối liên hệ biện
chứng chặt chẽ với nhau, tác động qua lại và bổ sung cho nhau.
19
1.1.1.3. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Thứ nhất, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, YTPL cũng có
những quy luật và đặc điểm chung của ý thức xã hội. Đó là chịu sự quy định
của tồn tại xã hội, YTPL của thời đại nào sẽ phản ánh tồn tại xã hội của thời
đại đó, nó chịu sự tác động bởi các điều kiện vật chất của xã hội. Song, YTPL
cũng có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã
hội khác. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với trình độ phát triển của tồn
tại xã hội. Mặc dù tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức xã hội trong đó có
YTPL vẫn cịn được duy trì trong một thời gian dài, đặc biệt là trong tâm lý
PL khi mà tình cảm, thói quen, truyền thống… giữ vị trí nhất định trong đời
sống con người.
Mặt khác, trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định thì YTPL
đặc biệt là tư tưởng PL khoa học lại có thể vượt lên đi trước so với sự phát
triển của tồn tại xã hội, vạch đường cho sự phát triển của pháp luật. Nếu tư
tưởng PL này thuộc về giai cấp cầm quyền trong xã hội thì nó sẽ nhanh chóng
được thể hiện thành pháp luật và đi vào đời sống.
- Ý thức pháp luật mang tính kế thừa sâu sắc. YTPL phản ánh tồn tại xã
hội của một thời đại nhất định nhưng nó cũng có sự kế thừa một số yếu tố của
YTPL trong các thời đại trước đó cho dù yếu tố đó là tiến bộ cách mạng hay
khơng tiến bộ, phản cách mạng. Do đó, lịch sử trải qua từ thời đại này sang
thời đại khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác các tư tưởng, quan điểm PL luôn
luôn được kế thừa, chọn lọc và phát triển đặc biệt là những tư tưởng pháp luật
tiến bộ có giá trị nhân văn sâu sắc. Vì sự tiến bộ phát triển của xã hội lồi
người nói chung mà những tư tưởng này không những được kế thừa qua các
thời đại khác nhau mà cịn có sự trao đổi, tiếp nhận một số yếu tố nhất định
giữa các nước có thể chế chính trị khác nhau ở ngay trong cùng một thời đại.