Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Dạy học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng việt trong chương trình ngữ văn trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.35 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


PHẠM THỊ TƯỜNG
DẠY HỌC LÝ THUYẾT NGÔN NGỮ
VÀ TIẾNG VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ TƯỜNG
DẠY HỌC LÝ THUYẾT NGÔN NGỮ
VÀ TIẾNG VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐẶNG LƯU
NGHỆ AN - 2014
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 9
1. Lí do chọn đề tài 9
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 9
3. Đối tượng nghiên cứu 12
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 12


5. Mục đích nghiên cứu 12
6. Phương pháp nghiên cứu 12
7. Cấu trúc luận văn 13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 14
1.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài 14
1.1.1. Vai trò của tri thức lý thuyết đối với việc học tiếng Việt và học ngoại ngữ của
học sinh THPT 14
1.1.2. Vai trò của tri thức lý thuyết đối với việc rèn luyện tư duy trừu tượng, khái quát
cho học sinh THPT 17
1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT và khả năng tiếp nhận các tri thức lý
thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt 19
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 20
1.2.1. Hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT 20
1.2.2. Áp lực của việc đổi mới phương pháp dạy học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt
từ chương trình và sách giáo khoa 23
1.2.3. Thực trạng việc dạy học hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt ở trường
THPT hiện nay 29
Tiểu kết chương 1 39
Chương 2
NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LÝ THUYẾT 40
NGÔN NGỮ VÀ TIẾNG VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 40
2.1. Các nguyên tắc dạy học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt 40
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ giữa phần lý thuyết và các hợp phần khác
trong chương trình 40
2.1.2. Nguyên tắc gắn lý thuyết với thực hành 41
2.1.3. Nguyên tắc kế thừa và phát triển 43
2.2. Một số phương pháp dạy học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt 45
2.2.1. Đọc sách giáo khoa và nêu vấn đề 47

2.2.2. Phối hợp diễn giảng và đàm thoại 56
2.2.3. Thảo luận nhóm 66
2.2.4. Phân tích ngôn ngữ 72
Tiểu kết chương 2 78
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 80
3.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung và cách thức thực nghiệm 80
3.1.1. Mục đích thực nghiệm 80
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm 80
3.1.3. Nội dung thực nghiệm 80
3.1.4. Cách thức thực nghiệm 81
3.2. Tổ chức thực nghiệm 81
3.2.1. Chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng 81
3.2.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm 82
3.2.3. Dạy thực nghiệm và dạy đối chứng 114
3.3. Đánh giá thực nghiệm 115
3.3.1. Nhận xét quá trình và kết quả học tập của lớp thực nghiệm 115
3.3.2. Xử lí số liệu thực nghiệm 116
3.4. Kết luận chung về thực nghiệm 118
KẾT LUẬN 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO 125
6
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Thống kê các bài thuộc hợp phần lý thuyết ngôn ngữ 21
và tiếng Việt trong chương trình THPT 21
Bảng 1.2. Kết quả điều tra nhận thức của giáo viên về phần Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn
THPT 32
Bảng 1.3. Kết quả điều tra nhận thức của giáo viên về những khó khăn trong dạy học tiếng Việt 33

Bảng 1.4. Kết quả điều tra nhận thức của giáo viên về mục tiêu
rèn luyện kĩ năng cho HS qua dạy học phần Tiếng Việt
trong chương trình Ngữ văn THPT 34
Bảng 1.5. Kết quả điều tra nhận xét của giáo viên về thực trạng học của HS đối với phần Tiếng Việt
trong chương trình Ngữ văn THPT 35
Bảng 1.6. Kết quả điều tra về thái độ của giáo viên
đối với hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt
trong chương trình Ngữ văn THPT 37
Bảng 1.7. Kết quả điều tra thực trạng áp dụng
các phương pháp dạy học đối với hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong chương trình
Ngữ văn THPT 38
Bảng 3.1. Thống kê kết quả kiểm tra nhóm lớp thực nghiệm 116
Bảng 3.2. Thống kê kết quả kiểm tra ở các lớp đối chứng4 117
Bảng 3.3. Tổng hợp kết quả kiểm tra nhóm lớp
thực nghiệm và đối chứng 117
Bảng 3.4. So sánh kết quả kiểm tra giữa đối chứng và thực nghiệm 117
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay, lý thuyết ngôn ngữ
và tiếng Việt là một hợp phần có mặt từ lớp 10 đến lớp 12. Đây là những
vấn đề hết sức cơ bản, không chỉ trang bị cho HS những tri thức khái quát
về ngôn ngữ và Việt ngữ, mà còn có tác dụng soi sáng những vấn đề thuộc
các hợp phần khác như Từ ngữ, Ngữ pháp, Phong cách học. Mặt khác, có
tri thức lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt, HS sẽ học ngoại ngữ thuận lợi
hơn. Bên cạnh trang bị tri thức, hình thành kỹ năng, việc rèn luyện tư duy
là yêu cầu hàng đầu của giáo dục hiện đại. Ở lứa tuổi học THPT, HS cần
được hình thành và nâng cao năng lực tư duy khái quát. Phần lý thuyết
ngôn ngữ và tiếng Việt có thể góp phần đảm trách nhiệm vụ này.
1.2. Tầm quan trọng của việc dạy học các bài lý thuyết ngôn ngữ và
tiếng Việt đòi hỏi phải được nhận thức một cách đúng đắn để tìm ra những

phương pháp, thủ pháp dạy học phù hợp. Tuy nhiên, phải nói rằng, hợp phần
này chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của giới nghiên cứu và các nhà sư
phạm. Các bài viết, các công trình đề cập đến phương pháp dạy các bài lý
thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt ít hơn hẳn so với phần Từ ngữ, Ngữ pháp,
Phong cách học. Ngay những tài liệu hiện có, nội dung dạy học được bàn đến
cũng đã xa lạ với chương trình và SGK Ngữ văn trung học phổ thông hiện
hành.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Dạy
học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng việt trong chương trình ngữ văn trung học
phổ thông” để triển khai nghiên cứu, với mong muốn đề xuất một số cách
thức nhằm nâng cao hiệu quả dạy học đối với hợp phần này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
9
Tiếng Việt là một phân môn quan trọng, cùng với Đọc - hiểu và Làm
văn tích hợp thành một môn học lấy tên gọi là Ngữ văn. Cùng với sự phát
triển giáo dục, phân môn Tiếng Việt ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
không thể thiếu trong nhà trường. Vì thế, phương pháp dạy học tiếng Việt trở
thành bộ môn khoa học trong các trường sư phạm.
Không riêng gì việc dạy học tiếng Việt, trên thế giới “lí luận dạy tiếng”
là thuật ngữ quen thuộc của giới nghiên cứu và cũng là thuật ngữ có nhiều
cách hiểu khác nhau. Trong dạy học ngôn ngữ cũng luôn có sự phân biệt giữa
tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ - ngôn ngữ thứ hai. Nhiều lý thuyết về dạy học ngôn
ngữ đã ra đời, luôn phát triển theo hướng ngày càng gần với chức năng chính
của ngôn ngữ - chức năng giao tiếp, đó là kết quả của sự nỗ lực không ngừng
của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Dưới ánh sáng của các lý thuyết này,
việc dạy học tiếng Việt nói riêng và dạy học ngôn ngữ nói chung, đã được mở
rộng, phát triển từ việc dạy cách nói cách viết theo đúng “chuẩn mực” sang
việc dạy ngôn ngữ theo quy tắc ngữ pháp đến dạy ngôn ngữ là dạy khả năng
giao tiếp trong cuộc sống. Điều này được TS Nguyễn Thị Thanh Bình giới
thiệu trong bài viết “Một số xu hướng lí thuyết của việc dạy tiếng mẹ đẻ

trong nhà trường” [9], ở đó, tác giả đã nêu lên ba xu hướng của việc dạy tiếng
trong nhà trường, đó là: xu hướng hành vi luận, xu hướng bẩn sinh luận và xu
hướng ngôn ngữ học xã hội.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về tiếng Việt cũng như môn Tiếng
Việt trong nhà trường. Nhưng xét trên bình diện chung, có thể thấy, số lượng
các bài viết, các công trình nghiên cứu về hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và
tiếng Việt còn ít hơn các hợp phần khác.
Cuốn Phương pháp dạy học tiếng Việt do Lê A chủ biên đã dành hẳn
một chương để bàn về phương pháp dạy học phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng
Việt. Trước chương này, nhóm tác giả cũng đã chỉ ra vị trí, nhiệm vụ, chương
10
trình của môn Tiếng Việt ở trường THPT. Trong phương pháp dạy học Tiếng
Việt, các vấn đề như: đối tượng, nhiệm vụ, cơ sở lý thuyết và thực tiễn, các
phương pháp, nguyên tắc, thủ pháp dạy học cụ thể của môn Tiếng Việt cũng
được chỉ ra. Đặc biệt trong cuốn sách này, GS Bùi Minh Toán đã đề cập đến
vấn đề phương pháp dạy những vấn đề lí thuyết chung về tiếng Việt và ngôn
ngữ với các nội dung cơ bản như: vị trí, mục đích, nội dung chương trình,
phương pháp dạy học. Có thể nói, đây là một trong rất ít tài liệu nói về hợp
phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt. Tuy nhiên, một số nội dung cụ thể của
bài viết đã không còn phù hợp với chương trình và SGK Ngữ văn biên soạn
theo nguyên tắc tích hợp.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về các hợp
phần khác, các khía cạnh chung trong việc dạy học Tiếng Việt như: dạy học
tiếng Việt theo nguyên tắc tích hợp, dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động
giao tiếp, hay dạy học tiếng Việt nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của
HS đã được công bố. Dù không tập trung vào vấn đề trọng tâm là phương
pháp dạy học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt, nhưng GV có thể tham khảo,
để dạy học tốt hơn hợp phần này vì tất cả các vấn đề trong phân môn Tiếng
Việt đều có quan hệ qua lại tác động lẫn nhau, hướng tới mục đích cuối cùng
là rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS.

Dạy cái gì? Dạy như thế nào? là hai vấn đề được Lê A bàn đến trong
bài viết Dạy tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt động [2]. Tác giả
quan tâm đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, trình tự dạy học
tiếng Việt cùng với một số thao tác cơ bản khi dạy học (thao tác phân tích -
phát hiện, phân tích - chứng minh, phân tích - phán đoán). Bài viết cũng giới
thiệu về phương tiện dạy học Grap - sơ đồ mạng để trình bày những vấn đề
cần truyền đạt. Có thể nói, bài viết này là một gợi ý tốt cho việc tổ chức các
11
hoạt động dạy học, lựa chọn sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học
lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt theo phương pháp giao tiếp.
Như vậy, vấn đề dạy học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt, cũng đã có
công trình nghiên cứu và các bài viết ở những quy mô khác nhau. Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn còn thiếu những công trình đi sâu vào nghiên cứu toàn diện
phương pháp dạy học hợp phần này, đặc biệt là từ khi hai bộ sách Ngữ văn
THPT cơ bản và nâng cao được áp dụng đại trà. Do đó, việc triển khai đề tài
Dạy học lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn
trung học phổ thông theo chúng tôi vẫn là vấn đề cấp thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung các bài lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong chương trình
Ngữ văn THPT (cơ bản và nâng cao).
- Hoạt động dạy học các bài lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong
chương trình Ngữ văn THPT (cơ bản và nâng cao).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp một số vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài.
- Điều tra, khảo sát thực tế dạy học các bài lý thuyết ngôn ngữ và tiếng
Việt ở một số trường trung học phổ thông.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các bài lý thuyết
ngôn ngữ và tiếng Việt.
- Soạn giáo án và dạy một số bài để kiểm nghiệm các giải pháp đưa ra.
5. Mục đích nghiên cứu

Đề tài hướng tới nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học các bài lý
thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt nói riêng, phần tiếng Việt nói chung trong
chương trình Ngữ văn trung học phổ thông.
6. Phương pháp nghiên cứu
12
Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp thuộc cả hai nhóm phương
pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Cụ thể là:
phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp mô hình hoá,
phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp thực nghiệm… Cả
hai nhóm phương pháp này, có tác dụng thiết thực giúp chúng tôi hoàn thành đề
tài nghiên cứu. Cụ thể: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết giúp chúng tôi nắm
bắt, sâu chuỗi, tổng hợp những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài; Phương
pháp nghiên cứu thực tiễn giúp chúng tôi nắm vững thực tiễn, bởi đề tài chúng
tôi lựa chọn là đề tài thuộc khoa học ứng dụng, do đó, thông qua việc quan sát,
điều tra, phỏng vấn sẽ cung cấp cho chúng tôi những căn cứ xác thực để triển
khai đề tài.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được
triển khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Nguyên tắc, phương pháp dạy học lý thuyết ngôn ngữ và
tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.1.1. Vai trò của tri thức lý thuyết đối với việc học tiếng Việt và học
ngoại ngữ của học sinh THPT

1.1.1.1. Vấn đề lý thuyết trong nghiên cứu ngôn ngữ học và Việt ngữ
học
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, có chức năng - xã hội,
được sử dụng trong xã hội và chịu sự chi phối của quy luật xã hội. Ngôn ngữ
là một hệ thống gồm những đơn vị ngôn ngữ (thứ tiếng) xác định. Trong mỗi
ngôn ngữ lại có các tiểu hệ thống như: Ngữ âm, Từ vựng, Ngữ pháp. Mỗi tiểu
hệ thống lại chia thành các đơn vị nhỏ hơn, và tất cả các đơn vị này đều có vai
trò và ý nghĩa nhất định, giữa chúng có mối quan hệ khăng khít hỗ trợ cho
nhau, làm nên một hệ thống ngôn ngữ, mang trong mình chức năng quan
trọng nhất đó là chức năng giao tiếp và là phương tiện để tư duy.
Vậy tri thức lý thuyết ngôn ngữ đứng ở đâu trong hệ thống ngôn ngữ?
Mỗi ngôn ngữ đều gắn liền với một đất nước, dân tộc, nó được sinh ra
và phát triển nhờ việc sử dụng - giao tiếp và tư duy của con người nơi đây.
Chính điều này tạo nên màu sắc ngôn ngữ riêng của từng dân tộc trong hệ
thống ngôn ngữ thế giới và trong mỗi hệ thống ngôn ngữ - một thứ tiếng xác
định ấy, sẽ có nguồn gốc hình thành, phát triển, có yêu cầu sử dụng khác
nhau trong giao tiếp ở mọi lĩnh vực, mỗi ngôn ngữ sẽ thuộc về một loại hình
riêng, quy định đặc điểm phát âm và chữ viết khác nhau tất cả những vấn
đề này ở trong một hệ thống ngôn ngữ nào đó được gọi là tri thức lý thuyết
ngôn ngữ.
14
Tri thức lý thuyết ngôn ngữ không phải là những đơn vị cụ thể, riêng lẻ
như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp mà hiện thân của nó là sự tổng hợp tất cả các
tri thức cụ thể trên tạo ra một diện mạo chung nhất, khái quát nhất về ngôn
ngữ đó. Tri thức lý thuyết giúp con người hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về
tiếng mẹ đẻ của mình, làm nảy sinh tình cảm, từ đó hình thành ý thức giữ gìn,
bảo vệ và phát triển nó.
1.1.1.2. Vai trò của tri thức lý thuyết đối với việc học tiếng Việt của học
sinh THPT
Trong chương trình giáo dục phổ thông ở nhiều quốc gia tiên tiến trên

thế giới, môn học về tiếng mẹ đẻ được quan tâm và đầu tư thích đáng bởi tầm
quan trọng của nó. Dạy học tiếng mẹ đẻ trong nhà trường đã có cơ sở từ tiềm
năng ngôn ngữ của HS. Do đó, chương trình dạy tiếng mẹ đẻ không lấy việc
cung cấp kiến thức ngôn ngữ học làm mục đích chính, mà quan trọng hơn là
hướng đến việc cung cấp một công cụ hữu hiệu, một phương tiện đắc lực cho
HS hoàn thiện khả năng giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ. Các nhà xã hội học cho
rằng con người muốn tồn tại, thích ứng và phát triển trong thế giới cần tối
thiểu năm kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và tính toán trong đó, bốn kĩ
năng đầu tiên thuộc về năng lực giao tiếp. Ở trường học, việc hình thành và
phát triển năng lực ấy cho người học là nhiệm vụ của tất cả các bộ môn, đặc
biệt là bộ môn dạy học tiếng, trước hết là tiếng mẹ đẻ.
Cũng giống như xu hướng dạy tiếng trên thế giới, việc dạy học tiếng
mẹ đẻ - tiếng Việt - ở Việt Nam hướng vào việc hoàn thiện khả năng giao tiếp
cho HS. Vì vậy, việc lựa chọn các đơn vị tri thức cho phân môn Tiếng Việt
cần đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống và phát triển, tính vừa sức.
Trong phần tri thức, chương trình không ôm đồm tất cả các vấn đề về
tiếng Việt, mà chỉ lựa chọn những nội dung cơ bản nhằm phục vụ cho nguyên
tắc chính là hướng HS vào hoạt động giao tiếp. Bởi vậy, phần cung cấp tri
15
thức cơ bản gồm: những tri thức về hệ thống tiếng Việt và hoạt động của hệ
thống đó; tri thức về các loại hình văn bản; và đặc biệt, chương trình cũng đề
cập đến một số vấn đề lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt, chẳng hạn, nguồn gốc
và lịch sử tiếng Việt, loại hình tiếng Việt, chức năng của ngôn ngữ, tính hệ
thống của ngôn ngữ, các yêu cầu sử dụng tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt
Với đặc điểm thiên về hình thành kiến thức và kĩ năng mới cho HS,
hợp phần lý thuyết có vai trò quan trọng trong việc học tiếng Việt của HS
THPT.
Tri thức lý thuyết nhằm nâng cao và hoàn thiện kiến thức các đơn vị cơ
bản mà HS đã học. Tiếng Việt - môn học về tiếng mẹ đẻ được đưa vào giảng

dạy từ bậc Tiểu học, THCS, với các đơn vị kiến thức cụ thể về ngữ âm, Từ
vựng, Ngữ pháp và Phong cách học, lồng ghép cả lý thuyết và thực hành.
Nhưng, các bài học chỉ dừng lại ở mức độ cơ bản nhất. Có nhiều lí do để giải
thích cho vấn đề này, nhưng lí do quan trọng nhất đó là do HS ở lứa tuổi này
khả năng tiếp nhận tri thức khái quát, tổng hợp còn hạn chế, do vậy cung cấp
kiến thức cụ thể riêng lẻ sẽ phù hợp với mức độ tiếp thu của các em.
Thêm vào đó, quy luật lĩnh hội tri thức của con người phải đi từ những
vấn đề riêng lẻ, cụ thể đến khái quát, trừu tượng. Đến bậc THPT, HS hội đủ
các điều kiện để lĩnh hội các tri thức khái quát, tổng hợp thể hiện ở các bài lý
thuyết.
Tri thức lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt cung cấp cho HS sự đa dạng
của hệ thống các ngôn ngữ trên thế giới, biết được vị trí của tiếng Việt trong
hệ thống ngôn ngữ chung đó, và mối quan hệ của tiếng Việt với các ngôn ngữ
họ hàng, lân cận.
Tri thức lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt góp phần rèn luyện phẩm
chất, trí tuệ cho HS. Hiểu được những bước thăng trầm của lịch sử ngôn ngữ
16
dân tộc, HS sẽ càng yêu hơn tiếng mẹ đẻ. Ý thức giữ gìn và phát triển ngôn
ngữ dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế phải được nâng cao nâng hơn để
tiếng Việt không bị lai căng, pha tạp, điều đó một phần được tạo nên nhờ tri
thức lý thuyết.
1.1.1.3. Vai trò của tri thức lý thuyết đối với việc học ngoại ngữ của
học sinh THPT
Với tốc độ hội nhập như hiện nay, việc một người có thể thành thạo
một số ngoại ngữ không phải là điều lạ. Ngoại ngữ trở thành “công cụ” cần
thiết để con người giao lưu, học hỏi. Biết nhiều ngoại ngữ sẽ mở ra nhiều cơ
hội học tập và làm việc giữa người với người ở những quốc gia khác nhau.
“Alan Doff cho rằng việc ảnh hưởng qua lại giữa tiếng mẹ đẻ và
ngoại ngữ là có thật, và không nên né tránh hay cố tình không muốn nhìn
nhận. Larsen - Freeman nêu một số phương pháp giảng dạy tiếng Anh có

sử dụng kiến thức sẵn có về cấu trúc ngôn ngữ và những phổ niệm
(universals) của người học. Rõ ràng, kiến thức có được thông qua học tập
và rèn luyện một ngôn ngữ này có thể giúp con người học một ngôn ngữ
khác tốt hơn” [22].
Tri thức lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt cung cấp cho HS một cái nhìn
sơ lược, toàn cảnh về sự đa dạng của ngôn ngữ trên thế giới ngoài tiếng Việt
và môn ngoại ngữ (có thể là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga hay tiếng Trung
Quốc ) mà HS đã và đang học. Đồng thời, HS cũng biết được trong sự đa
dạng đó, các ngôn ngữ được xếp vào một số loại hình nhất định dựa vào
những đặc điểm giống nhau cơ bản giữa chúng.
1.1.2. Vai trò của tri thức lý thuyết đối với việc rèn luyện tư duy trừu
tượng, khái quát cho học sinh THPT
Để khám phá và lĩnh hội tri thức thì năng lực tư duy là yêu cầu đầu
tiên và quan trọng nhất cần phải có. Trong xu thế hội nhập ngày càng cao
17
và toàn diện của thế giới, tri thức tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của
kinh tế và văn hóa thì yêu cầu rèn luyện tư duy cho con người nói chung và
HS nói riêng là vấn đề được đặt lên hàng đầu của mọi nền giáo dục và toàn
xã hội.
Trong thực tế, phát triển tư duy cho HS đã được xem là mục tiêu quan
trọng của dạy học trong nhà trường. Để đạt được mục tiêu đó, chương trình
dạy học phải xây dựng theo hướng đồng tâm và phát triển; phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của HS Đây là những điều kiện tốt để tư duy HS
hình thành và phát triển.
Ngôn ngữ và tư duy không mâu thuẫn, không tách biệt nhau mà có mối
quan hệ biện chứng. “Thực tiễn giảng dạy đã cho thấy rằng học sinh nào yếu
về tư duy đồng thời cũng yếu về ngôn ngữ và ngược lại, em nào yếu về ngôn
ngữ cũng yếu về năng lực tư duy” [3, tr. 56].
Nhận thức mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, các nhà nghiên cứu về
phương pháp dạy học tiếng đã kết luận rằng: kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ phải

được coi như là những yếu tố để phát triển tư duy; đảm bảo mối quan hệ giữa
lời nói và tư duy trong dạy học Tiếng Việt; luyện tập cho HS diễn đạt tư tưởng
của mình bằng các hình thức ngôn ngữ khác nhau.
Tùy theo từng hợp phần của phân môn Tiếng Việt, với những nội
dung, mục tiêu khác nhau, vai trò rèn luyện tư duy các hợp phần cũng không
giống nhau.
Chương trình phân môn Tiếng Việt hiện nay được xây dựng theo hướng
đồng tâm (với các đơn vị như: Ngữ âm, Từ vựng, Ngữ pháp, Phong cách học)
và phát triển. Hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong phân môn
Tiếng Việt THPT chính là phần phát triển mà chương trình phân môn đã xây
dựng.
18
Kiến thức trong hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt, chủ yếu
mang tính khái quát, tổng hợp nên hợp phần này có vai trò to lớn trong việc
rèn luyện tư duy trừu tượng, khái cho HS.
Chẳng hạn, khi dạy học bài Những yêu cầu sử dụng tiếng Việt (Ngữ
văn 10), có yêu cầu “Về từ ngữ”, tuy nhiên, đó không phải là một loại từ
nào cụ thể (từ đơn, từ ghép: ghép đẳng lập, ghép chính phụ ) mà tổng hợp
về từ tiếng Việt được nhìn nhận, soi chiếu trong mối quan hệ với các tiểu hệ
thống nhỏ hơn (ngữ âm), lớn hơn (ngữ pháp, phong cách học). Thông qua
việc phân tích những hiện tượng ngôn ngữ riêng lẻ này, HS tiến hành thao
tác tư duy trừu tượng để khái quát thành những tri thức ngôn ngữ và tiếng
Việt.
1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT và khả năng tiếp
nhận các tri thức lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt
Tâm sinh lí là quá trình phát triển tâm lí và thể chất của con người, với
các giai đoạn khác nhau. Hiểu đặc điểm tâm sinh lí là chìa khóa để mở mọi
cánh cửa của thế giới con người.
Trong giáo dục, việc tìm hiểu tâm sinh lí lứa tuổi là điều kiện cần thiết
để xây dựng những chương trình dạy học phù hợp nhằm phát triển và hoàn

thiện nhân cách con người trong mỗi HS.
Hiểu được tầm quan trọng của vấn đề này, Điều 5 của Luật giáo dục
khẳng định: “Coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lí lứa tuổi” [26].
Về thể chất, khác với lứa tuổi học sinh THCS, học sinh THPT đạt được
sự trưởng thành của cơ thể. Các cơ quan trong cơ thể phát triển đạt đến độ ôn
hòa - bình thường, ít dao động về sức khỏe (đối với một cơ thể phát triển bình
thường). Vì vậy, ở lứa tuổi này HS có sức khỏe, khả năng chịu đựng tốt để
19
học tập và hoạt động. Sự phát triển của thể chất giai đoạn này có ảnh hưởng
nhất định đến tâm lí và nhân cách.
Về tâm lí, học sinh THPT không còn bị kích động bởi cảm xúc như quá
vui, quá buồn, quá kích động và luôn biểu hiện ra ngoài như học sinh
THCS. Tâm lí của các em tương đối ổn định, tuy vẫn còn dễ bị kích thích,
nhưng không hoàn toàn bởi nguyên nhân tâm lí tuổi dậy thì mà còn bởi cách
sống của các em (sinh hoạt, học tập, lao động, vui chơi không điều độ ).
Ở lứa tuổi này ngoài tình cảm gia đình bạn bè, còn nảy sinh một thứ
tình cảm mới - tình cảm khác giới. Đây cũng là một yếu tố chi phối tâm lí học
sinh THPT.
Ở lứa tuổi này, hoạt động tư duy của HS THPT phát triển mạnh, đặc
biệt là khả năng tư duy lô-gic, tư duy trừu tượng, khái quát. Từ đó kéo theo
những năng lực phân tích, so sánh, tổng hợp cũng phát triển. Đây là điều kiện
thuận lợi để các em tiếp thu những tri thức mới, mang tính khái quát cao của
hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong chương trình
Ngữ văn THPT
Trong quá trình dạy học, người GV luôn phải đối diện với câu hỏi:
làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp và có hiệu quả?

Nhưng để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta phải xác định được nội
dung dạy học. Bởi nội dung và phương pháp là hai yếu tố có mối liên hệ
hữu cơ với nhau. Một nội dung cụ thể đòi hỏi phải có phương pháp phù
hợp. Vì vậy, muốn tìm ra phương pháp dạy học những vấn đề lý thuyết
ngôn ngữ và tiếng Việt phù hợp và có hiệu quả nhất, cần tìm hiểu nội dung
phần lí thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong chương trình và SGK Ngữ văn.
20
Trong chương trình cũ, môn Tiếng Việt THPT được dạy ở lớp 10, 11 và
được xem như là phân môn độc lập, không bị chi phối bởi Văn học và Làm
văn. Hiện nay, phân môn Tiếng Việt được dạy học ở cả lớp 10, 11 và 12. Với
tinh thần tích hợp trong biên soạn chương trình và SGK, Tiếng Việt trở thành
một phân môn có quan hệ qua lại, chặt chẽ với Đọc - hiểu, Làm văn và cả ba
hợp lại thành một cuốn sách lấy tên gọi Ngữ văn.
Với nguyên tắc tích hợp, kiến thức về tiếng Việt không chỉ giúp HS
hiểu biết về các đơn vị ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ, mà còn hướng dẫn HS vận
dụng kiến thức đó vào Đọc - hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Thông qua việc
vận dụng này để củng cố, khắc sâu, nâng cao hiểu biết về tiếng Việt, và quan
trọng hơn, hoàn thiện khả năng giao tiếp cho HS.
So với chương trình và SGK CCGD năm 2000 thì chương trình và
SGK Ngữ văn THPT hiện nay có rất nhiều thay đổi. Điểm mới dễ nhận ra
nhất, đó là hiện nay tồn tại hai chương trình và hai bộ SGK Ngữ văn. Một bộ
được xem là cơ bản, một bộ được gọi là nâng cao.
Hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt trong chương trình cũ có 11
tiết trên tổng số 63 tiết (gồm cả 4 tiết ôn tập và kiểm tra). Trong chương trình
phân môn Tiếng Việt THPT hiện nay, hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng
Việt, ở sách cơ bản có 10 tiết trong tổng số 42 tiết (bao gồm cả 3 tiết ôn tập)
của chương trình Tiếng Việt; ở sách nâng cao có 12 tiết trên tổng số 53 tiết
của chương trình Tiếng Việt.
Qua đó có thể thấy, hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt chiếm
một tỉ lệ tương đối trong toàn bộ số tiết học Tiếng Việt (kể cả chương trình cũ

và chương trình hiện hành). Điều này đã chứng minh cho vị trí và vai trò của
hợp phần này trong chương trình Ngữ văn THPT cả cơ bản và nâng cao.
Bảng 1.1. Thống kê các bài thuộc hợp phần lý thuyết ngôn ngữ
và tiếng Việt trong chương trình THPT
21
LỚP
TIẾNG VIỆT THPT
HỢP NHẤT
NĂM 2000
PHÂN MÔN
TIẾNG VIÊT THPT
(CƠ BẢN)
PHÂN MÔN
TIẾNG VIỆT THPT
NÂNG CAO)
10
Chương 1: Tiếng Việt
và sử dụng tiếng Việt
1. Khái quát về lịch sử
tiếng Việt (2 tiết)
2. Yêu cầu của việc sử
dụng tiếng Việt có
tính chất nghệ thuật
(4 tiết)
1. Hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ (2 tiết)
2. Đặc điểm ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ
viết (1 tiết)
3. Khái quát lịch sử

tiếng Việt (1 tiết)
4. Những yêu cầu về
sử dụng tiếng Việt
(1 tiết)
1. Hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ (2 tiết)
2, Đặc điểm văn
bản nói và văn bản
viết (1 tiết)
3. Khái quát lịch sử
tiếng Việt (2 tiết)
4. Những yêu cầu sử
dụng tiếng Việt
(2 tiết)
11
Chương 1: Tiếng Việt
và giao tiếp bằng
ngôn ngữ
1. Đặc điểm loại hình
tiếng Việt (2 tiết)
2. Giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt và
chuẩn hóa tiếng Việt
(1 tiết)
3. Sự giao tiếp bằng
ngôn ngữ (2 tiết)
1. Từ ngôn ngữ chung
đến lời nói cá nhân (2
tiết).
2. Đặc điểm loại hình

tiếng Việt (1 tiết)
1. Ngôn ngữ chung và
lời nói cá nhân (2 tiết)
2. Đặc điểm loại hình
tiếng Việt (2 tiết)
12
1. Giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt
(2 tiết)
1. Giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt
(2 tiết)
Nội dung hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt THPT là hợp phần
mang nội dung kiến thức hoàn toàn mới so với chương trình Tiếng Việt
THCS. Nó kế thừa từ chương trình Tiếng Việt hợp nhất năm 2000, nhưng
22
được xây dựng theo một hướng mới: coi trọng tính ứng dụng, tạo ra sự liên
thông với Đọc - hiểu và Làm văn, nhằm hướng tới mục tiêu rèn luyện đầy đủ
các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS.
Nội dung kiến thức hợp phần này mang tính khái quát, tổng hợp không
chỉ giúp HS nâng cao, hoàn thiện các tri thức về ngôn ngữ tiếng Việt đã học ở
các lớp dưới, cấp dưới, giúp HS học tốt hơn ngoại ngữ trong cái nhìn so sánh,
đối chiếu mà quan trọng hơn là góp phần rèn luyện tư duy trừu tượng, khái
quát cho HS.
1.2.2. Áp lực của việc đổi mới phương pháp dạy học lý thuyết ngôn
ngữ và tiếng Việt từ chương trình và sách giáo khoa
Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí và tầm quan trọng số
một ở nhà trường phổ thông. Ngoài chức năng công cụ, nó còn góp phần hình
thành và phát triển bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp
của HS. Vì vậy, không quốc gia nào coi nhẹ môn học này. Để môn Ngữ văn

xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó, vai trò quyết định thuộc về các
các cấp quản lý của ngành giáo dục, những người xây dựng chương trình,
biên soạn SGK cũng như đội ngũ nhà giáo trực tiếp đứng lớp.
Được áp dụng đại trà từ năm học 2006 - 2007 đến nay, chương trình và
SGK cũng tạo ra nhiều áp lực đối với việc đổi mới phương pháp dạy học
trong nhà trường. Áp lực này cũng thể hiện rõ ở hợp phần lý thuyết ngôn ngữ
và tiếng Việt - một hợp phần nghiêng hẳn về việc hình thành các tri thức lý
thuyết.
Vấn đề “tích hợp”được nghiên cứu, bàn luận dưới nhiều góc độ và
khía cạnh khác nhau, nhưng thực tế, nhiều GV và HS vẫn còn rất lúng túng.
Vì vậy, để có được một phương pháp dạy học mới, hiệu quả cần phải hiểu
chính xác, đầy đủ nguyên tắc tích hợp trong môn Ngữ văn nói chung và
trong hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt THPT nói riêng.
23
Sự liên thông, tác động hay nói ngắn gọn là tích hợp giữa hợp phần lý
thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt với: Đọc - hiểu, Làm văn và nội bộ phân môn
Tiếng Việt được thể hiện rất rõ trong việc lựa chọn và sử dụng ngữ liệu.
Chương trình Tiếng Việt cũ, ngữ liệu sử dụng cho Tiếng Việt nói chung
và các bài thuộc hợp phần lý thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt nói riêng, được
các nhà biên soạn SGK lựa chọn tự do theo ý muốn, miễn là ngữ liệu đó minh
họa tốt cho các tri thức đã hoặc sẽ nêu trong bài. Trong khi đó, ở hợp phần lý
thuyết của phân môn Tiếng Việt hiện nay, ngữ liệu phải ưu tiên trước hết cho
tất cả các văn bản đã và đang học trong SGK. Ví dụ, trong hệ thống câu hỏi
hướng dẫn học bài của bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (Ngữ văn 10,
cơ bản, tập 1, tr. 15) có câu hỏi:
Anh (chị) vừa học bài Tổng quan văn học Việt Nam. Hãy cho biết:
a. Thông qua văn bản đó, hoạt động giao tiếp diễn ra giữa các nhân vật
giao tiếp nào? (Ai viết? Ai đọc? Đặc điểm của các nhân vật đó về lứa tuổi,
vốn sống, trình độ hiểu biết, nghề nghiệp, ?)
b. Hoạt động giao tiếp đó được tiến hành trong hoàn cảnh nào? (Hoàn

cảnh có tổ chức, có kế hoạch của giáo dục nhà trường, hay là hoàn cảnh giao
tiếp ngẫu nhiên, tự phát hàng ngày ?)
c. Nội dung giao tiếp (thông qua văn bản đó) thuộc lĩnh vực nào? Về đề
tài gì? Bao gồm những vấn đề cơ bản nào?
d. Hoạt động giao tiếp thông qua văn bản đó nhằm mục đích gì (xét từ
phía người viết và từ phía người đọc)?
e. Phương tiện ngôn ngữ và cách tổ chức văn bản có đặc điểm gì nổi
bật? (Dùng nhiều từ ngữ thuộc nghành khoa học nào? Văn bản có kết cấu rõ
ràng với các đề mục lớn nhỏ thể hiện tính mạch lạc, chặt chẽ ra sao?)
24
Trong chương trình nâng cao, các ngữ liệu cũng được khai thác theo
tinh thần này, chẳng hạn trong hệ thống câu hỏi luyện tập của bài Hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ (Ngữ văn 10, nâng cao, tập 1, tr. 124) có câu hỏi:
1. Hãy chỉ ra những nhân tố giao tiếp có liên quan đến văn bản Tổng
quan nền văn học Việt Nam qua các thời kì lịch sử.
2. Trong giao tiếp hằng ngày, bao giờ người Việt cũng phải lựa chọn từ
xưng hô cho phù hợp. Từ những hiểu biết của anh (chị) về hoạt động giao
tiếp, hãy giải thích lí do của sự lựa chọn đó. Hãy phân tích cách xưng hô giữa
nhân vật Cải và thầy lí trong truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày.
Để trả lời được các câu hỏi dạng này, HS một mặt cần nắm vững tri
thức bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ mặt khác phải nhớ lại, đọc lại
thật kĩ bài Tổng quan nền văn học Việt Nam (sách cơ bản), Tổng quan nền
văn học Việt Nam qua các thời kì lịch sử (sách nâng cao). Chính dạng bài tập
này, đã thể hiện được mối quan hệ qua lại giữa phân môn Tiếng Việt và Đọc -
hiểu văn bản. Thông qua ngữ liệu của phần Đọc - hiểu giúp HS chiếm lĩnh
được tri thức Tiếng Việt, đồng thời thông qua tri thức Tiếng Việt củng cố khắc
sâu tri thức Đọc - hiểu. Đây là dạng bài tập mới - thể hiện nguyên tắc tích hợp
mà chương trình Tiếng Việt cũ ít khi bắt gặp.
Nếu chỉ dùng ngữ liệu là các văn bản trong SGK sẽ nhàm chán, đơn
điệu khi tổ chức dạy học. Hiểu được điều này, cộng với nguyên tắc tích hợp

giữa phân môn Tiếng Việt và Làm văn, trong câu hỏi luyện tập của các bài lý
thuyết ngôn ngữ và tiếng Việt, những người biên soạn chương trình đã khéo
léo lồng ghép những sản phẩm ngôn ngữ của HS (câu văn, đoạn văn, bài
văn ), để làm ngữ liệu giúp các em chiếm lĩnh tri thức Tiếng Việt và ngược
lại để rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản cho HS.
Chẳng hạn, khi dạy học bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt phần
luyện tập có câu hỏi sau: “Đọc lại bài làm văn số 4 của anh (chị), hãy phân
tích và sửa chữa các lỗi (nếu có) về chữ viết, về từ ngữ, về câu văn, về cấu tạo
25

×