Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường đại học y khoa vinh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.23 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGÔ THỊ QUỲNH VÂN
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA VINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NG"NH : LL V" PPDH B& MÔN GD CH(NH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn: TS. Đinh Thế Định
NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi
đã nhận được sự động viên, giúp đỡ quý báu của nhiều đơn vị, cá nhân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Giáo dục Chính trị,
phòng Đào tạo Sau đại học, cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học
Vinh đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức lý luận chính trị
quý báu, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến TS. Đinh Thế Định, Trưởng khoa
Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Vinh đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Đào tạo, phòng
Công tác Học sinh Sinh viên, các bạn đồng nghiệp, các em sinh viên trường Đại
học Y Khoa Vinh, gia đình và bạn bè đã động viên tạo mọi điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Ngô Thị Quỳnh Vân
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGH : Ban giám hiệu


CBGV : Cán bộ giảng viên
CBYT : Cán bộ y tế
CLB : Câu lạc bộ
CT HSSV : Công tác học sinh sinh viên
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐHYK : Đại học Y khoa
ĐH, CĐ : Đại học, Cao đẳng
HS – SV : Học sinh - sinh viên
KTYH : Kỹ thuật Y học
KTTT : Kinh tế thị trường
QĐ : Quyết định
THCN : Trung học chuyên nghiệp
THYT : Trung học y tế
TN : Thanh niên
UBND : Uỷ ban nhân dân
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử Y học Việt Nam, các bậc thầy đều cho rằng y đức quan
trọng không kém gì y thuật. Kế thừa truyền thống đạo đức nghề nghiệp của các
bậc tiền bối đi trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau dồi đạo
đức nghề nghiệp. Người đã nhiều lần gửi thư và trực tiếp gặp, thăm các cơ sở y
tế, bày tỏ quan điểm của Đảng và Nhà nước về phẩm chất của người thầy thuốc.
Người đã tặng cán bộ, nhân viên ngành Y danh hiệu: “Thầy thuốc như mẹ
hiền”. Trong bức thư gửi Hội nghị Cán bộ Y tế được tổ chức tại Hà Nội ngày 27
tháng 2 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng: "Người bệnh phó thác tính
mệnh của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc
chữa bệnh tật và giữ gìn sức khoẻ cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ
vang". Đó vừa là một lời răn dạy, cũng vừa nhắc nhở các CBYT làm việc phải
có phẩm chất, phải tâm huyết và tậm tâm với nghề.

Các cơ sở giáo dục chuyên ngành Y khoa không chỉ là nơi đào tạo những
tay nghề y - bác sĩ có năng lực chuyên môn mà còn là nơi trang bị cho đội ngũ
này những phẩm chất cao quý của người thầy thuốc. Bởi mỗi SV ngành y không
chỉ là một trí thức tương lai mà còn là một y - bác sĩ, điều dưỡng tương lai. Vì
thế đối với SV ngành y, giỏi về chuyên môn chưa đủ, còn cần phải có một y đức
sáng, trong sạch, tận tâm với nghề, với người bệnh. Do đó, hầu hết ở các trường
đào tạo chuyên ngành Y khoa trên cả nước, vấn đề y đức, đạo đức nghề nghiệp
luôn được quan tâm và đưa vào giảng dạy và bước đầu đã đạt được những thành
quả đáng ghi nhận như: SV đạt kết quả cao trong học tập ngày càng nhiều; chấp
hành nội quy, quy chế nhà trường, chấp hành pháp luật Nhà nước tốt hơn, SV có
sự yêu nghề, say mê học tập hơn…
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ, khoa học kĩ thuật… đã giúp Y
học có những bước tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên sự phát triển của xã hội cũng đã
tạo ra sự ảnh hưởng không nhỏ về nhân cách, phẩm chất của một bộ phận đội
ngũ y, bác sỹ trong lĩnh vực này. Sự tha hoá về bản chất, thiếu tận tâm với nghề
đã gây nên những hậu quả không nhỏ ảnh hưởng đến người dân và xã hội. Do
đó, giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng và
hàng đầu đối với các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp về Y
khoa trên cả nước. Bên cạnh việc đào tạo một đội ngũ thế hệ trẻ có kiến thức
chuyên môn giỏi, tay nghề cao thì vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cũng là
một trong những ưu tiên hàng đầu để đào tạo ra thế hệ trẻ vừa hồng vừa chuyên
cho đất nước, là nguồn nhân lực có chất lượng, phát huy năng lực nghề nghiệp
và đạo đức nghề nghiệp như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì vô dụng".
Đối với các trường Đại học Y trong cả nước nói chung và Đại học Y
Khoa Vinh nói riêng, vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV được đưa
vào giảng dạy và là một trong những môn học bắt buộc. Trong quá trình giảng
dạy còn tồn tại một số hạn chế, tuy nhiên đã gặt hái được nhiều thành quả nhất
định. Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề y đức mang tính cấp thiết và
đang được xã hội quan tâm. Trong mối quan hệ đó, để từng bước nâng cao hiệu

quả công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV ngành Y, tác giả chọn đề tài
“Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Y Khoa Vinh
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp đã được các bậc lương y đề cập đến từ rất
lâu. Điển hình là người thầy thuốc nổi tiếng, tâm huyết và tận tâm với nghề, Hải
Thượng Lãn Ông cho rằng: Suy nghĩ thật sâu xa tôi hiểu rằng thầy thuốc là bảo
vệ tính mạng cho con người, sống chết một tay mình nắm, họa chết một tay
mình giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn,
5
tâm hồn không rộng lớn, hành vi không thận trọng mà dám liều lĩnh học đòi cái
nghề cao quý đó chăng. Trong lịch sử y học Việt Nam, các bậc thầy đều cho
rằng y đức quan trọng không kém gì y thuật. Cùng với tư tưởng trên còn có
lương y Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV). Từ bao đời nay, giới y học Việt Nam và nhân
dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan
điểm y học độc lập , tự chủ, sát với y học Việt Nam. Ông quan niệm "Nam dược
trị nam nhân", tức là nói về mối quan hệ mật thiết giữa con người và môi trường
sống xung quanh. Đồng thời ông cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những
người chỉ tin vào phù chú mà không tin thuốc. Cũng như Hải Thượng Lãn Ông,
ông luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng
bệnh kịp thời. Các ông không chỉ là những bậc danh y mà còn là những nhà tư
tưởng lớn về y đức.
Kế thừa truyền thống đạo đức nghề nghiệp của các bậc tiền bối đi trước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau dồi đạo đức nghề nghiệp.
Người đã nhiều lần gửi thư và trực tiếp gặp, thăm các cơ sở y tế, bày tỏ quan
điểm của Đảng và Nhà nước về phẩm chất của người thầy thuốc. Người đã tặng
cán bộ, nhân viên ngành y danh hiệu “Thầy thuốc như mẹ hiền”. Cũng trong
bức thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế tháng 2 năm 1955, Người căn dặn "Cán bộ cần
phải thương yêu, chăm sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ
đau đớn cũng như mình đau đớn". Đó vừa là một lời răn dạy, cũng vừa nhắc nhở

các CBYT làm việc phải có phẩm chất, phải tâm huyết và tận tâm với nghề, phải
yêu thương, chăm sóc bệnh nhân. Trong Di chúc Người viết: "Đảng ta là một
đảng cầm quyền. Mỗi cán bộ và đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân" .
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong những năm gần đây luôn là một vấn đề
được xã hội quan tâm, trong thời gian vừa qua đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh
6
vực y tế là vấn đề bức xúc, có nhiều tiêu cực, tác động trực tiếp đến tính mạng
con người. Vì thế vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực này càng
được chú trọng và quan tâm. Liên quan đến vấn đề giá trị đạo đức nghề nghiệp
tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các tác giả:
PGS.TS Nguyễn Xuân Uẩn - ĐHQG Hà Nội: "Xây dựng lối sống và đạo
đức mới cho sinh viên Đại học sư phạm phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH”. Công
trình đã đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm xây dựng lối sống và đạo đức mới
cho sinh viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
PGS,TS Bùi Minh Hiền: giảng viên trường ĐHQG Hà Nội có công trình
nghiên cứu: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên trường ĐHQG Hà Nội” đã nêu ra thực trạng đạo đức và đề xuất một
số giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho SV
trường ĐHQG Hà Nội.
Ngày 21/12/2012, Viện nghiên cứu giáo dục - Trường Đại học Sư phạm
TP Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo khoa học Giáo dục đạo đức cho sinh viên
trường Cao đẳng, Đại học Việt Nam, hội thảo đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu,
nhà khoa học, nhiều học giả tham gia với các tham luận có ý nghĩa cả về lý luận
lẫn thực tiễn, các tham luận đã phân tích tương đối toàn diện về giáo dục đạo
đức cho SV.
TS. Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí nghiên cứu lý luận, 2/1997, Sự tác động
hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý; TS. Hoàng

Trung, Tạp chí Triết học số 5/1998, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề
giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường; TS. Mai Xuân Hợi,
Tạp chí Triết học số 3/2001, Giá trị đạo đức và biểu hiện của nó trong đời sống
xã hội; Luận án Tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán (1999), Giáo dục đạo đức
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay; GS.TS. Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học số 5/1995, Sự biến
đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
7
trường; PGS.TS. Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6/2002, Một số
biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay và giải pháp khắc phục; Mạc Văn Trang (chủ biên), Đề tài nghiên
cứu khoa học Viện nghiên cứu phát triển giáo dục-Bộ Giáo dục và Đào tạo
(1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện
pháp giáo dục lối sống cho sinh viên; Đỗ Tuyết Bảo (2001) Giáo dục đạo đức
cho học sinh trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện
đổi mới hiện nay; PGS.TS. Võ Xuân Đàn "Nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức trong nhà trường phổ thông, điều kiện cơ bản góp phần tạo lập nền tảng
đạo đức thanh niên TP. Hồ Chí Minh phát triển bền vững".
Xung quanh vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng thu hút được nhiều học
viên cao học nghiên cứu, lựa chọn vấn đề cụ thể làm đề tài luận văn tốt nghiệp,
có thể kể các luận văn tiêu biểu như: Hoàng Kim Oanh (2007) "Vấn đề giáo dục
y đức cho sinh viên ngành y ở Thành phố Hà Nội hiện nay", Luận văn Thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Võ Minh Hiếu (2010)
"Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh trường Trung
cấp Y tế Đồng Nai", Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh; Đặng Thị Bích Hạnh
(2013) "Một số giải pháp quản lí công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh", Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục,
Đại học Vinh; Nguyễn Trung Dũng (2009) "Những giải pháp cơ bản nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên truờng Cao đẳng Y tế
Nghệ An", Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, Đại học Vinh; Phan Hữu Trang

(2012) "Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh
trường Trung cấp Việt - Anh tỉnh Nghệ An", Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo
dục, Đại học Vinh.
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác có liên quan. Mỗi
công trình nghiên cứu đều có một mục đích riêng và đều đề cập đến những khía
cạnh khác nhau của vấn đề đạo đức, hay đạo đức nghề nghiệp. Và trong mỗi
8
công trình nghiên cứu đều có những giải pháp nhằm tạo hiểu quả cao trong việc
nâng cao giá trị đạo đức cho học sinh - sinh viên.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu nêu trên mới
chỉ đề cập đến từng mặt, từng khía cạnh dưới nhiều góc độ khác nhau. Hiện chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu và có hệ thống về
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Y Khoa Vinh trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, những công trình đó đã tạo điều kiện thuận lợi giúp
tác giả có sự kế thừa, phát triển để hoàn thành tốt luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp nói riêng và chất
lượng giáo dục toàn diện cho SV trường ĐHYK Vinh trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV
trường ĐHYK Vinh.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho SV trường ĐHYK Vinh trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho SV trường ĐHYK Vinh giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề nâng cao đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên.
Ngoài ra, tác giả còn kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
9
Ngoài việc sử dụng phương pháp luận khoa học Mác – Lênin, tác giả còn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận gồm có:
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu
+ Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài gồm có:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
+ Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trong
giai đoạn hiện nay. Tác giả tiến hành khảo sát, điều tra 500 SV các ngành Bác sỹ
Đa khoa, Cử nhân Điều dưỡng, Cao đẳng Dược, Cao đẳng Điều dưỡng, Cao
đẳng Kỹ thuật Y học.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
SV trường ĐHYK Vinh trong giai đoạn hiện nay.
6. Giả thuyết khoa học

Việc bồi dưỡng, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV, giúp SV nhận
thức đúng đắn về hành vi, về bản chất nghề nghiệp. Từ đó trang bị cho các em
những phẩm chất đạo đức cao quý của người thầy thuốc, làm cho các em thêm
yêu ngành, yêu nghề, có trách nhiệm và tâm huyết với nghề, phát huy được
10
truyền thống tốt đẹp của nghề y. Từ đó tạo nên niềm say mê học tập để xây dựng
đội ngũ y, bác sỹ có phẩm chất tốt, tay nghề giỏi… đúng với khẩu hiệu “Lương
y như từ mẫu”.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy ở
trường cũng như việc nghiên cứu, học tập và nâng cao chất lượng dục đạo đức
nghề nghiệp cho SV các trường ĐHYK ở nước ta.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên trường Đại học Y Khoa Vinh.
Chương 2: Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp của sinh
viên trường Đại học Y Khoa Vinh hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Y Khoa Vinh trong giai
đoạn hiện nay.
11
B. N&I DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
1.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.1.1. Đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm

Theo quan niệm phương Đông, trong các học thuyết của Phật giáo, của
Đạo giáo, của Nho giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự
rèn luyện mình, khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác. Các học thuyết
ấy đề xuất các quy tắc, các chuẩn mực, những ràng buộc trong các hoạt động
sống của con người. Có thể nói khái niệm đạo đức ở phương Đông có nghĩa là
đạo làm người, bao gồm rất nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha
con, vợ chồng, anh em, làng xóm, bạn bè, tu thân, dưỡng tâm, rèn luyện khí
tiết theo những định hướng giá trị nhất định.
Ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ mos trong ngữ vựng
Latinh có nghĩa là lề thói. Moralis có nghĩa là thói quen. Ngoài ra, trong tiếng
Hy Lạp còn có khái niệm ethicos cũng có nghĩa là tập tục gắn với thói quen. Cả
hai từ này đều chỉ đạo đức của xã hội, tức là nói về tập quán, tập tục, lề thói
trong các quan hệ giao tiếp giữa con người với con người.
Nội dung xã hội của đạo đức hay luân lý bắt nguồn từ quan niệm người
này giúp đỡ người khác một cách vô tư. Khái niệm quốc tế của đạo đức là
moral, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp đều dùng thuật ngữ moral để chỉ các
quan hệ, các hành vi, các phẩm giá về sự quan tâm của người này với người
khác theo các chuẩn mực về cái tốt trong một cộng đồng xã hội từ gia đình, nhà
trường, làng xóm, phố phường đến toàn xã hội.
12
Theo Martin Heigdergger thì: “Đạo đức là lĩnh vực của con người mà
hành vi, các mối quan tâm, những tình cảm được sẻ chia giữa người này và
người khác theo những mục tiêu và tiêu chí nhất định có liên quan đến tự do và
trật tự phức tạp của cộng đồng” [31; 90-91].
Theo nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga là G. Bandzeladze
đã viết “Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do
những người khác và xã hội nơi nào không có những hành động tự nguyện, tự
giác của con người thì nơi ấy không có nhân phẩm, không thể thấy thực sự có
đời sống xã hội, đặc trưng của đời sống con người và của bản thân tính người là
ở đạo đức và nội dung của đạo đức chính là năng lực phục vụ tự nguyện, tự giác

lợi ích của người khác và toàn thể xã hội [6; 48-49].
Trong tâm lý học, "đạo đức" có thể định nghĩa theo các khía cạnh sau:
Theo nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các
quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nhờ nó con người tự giác điều chỉnh
hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với
tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân-cá nhân và quan hệ cá nhân-xã hội.
Theo nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu hiện
sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã
hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình.
Theo nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ
xã hội và quan hệ với tự nhiên.
Đạo đức có thể định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh
và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội” [18; 8].
13
Như vậy trên cơ sở khai thác nội hàm và ngoại diên của khái niệm “Đạo
đức”, đã có nhiều cách lý giải khác nhau trên những phương diện khác nhau,
điểm chung giữa họ là đều dựa trên thế giới quan khoa học và phương pháp luận
biện chứng để xem xét. Qua định nghĩa đó có thể nhận dạng “Đạo đức” có
những đặc trưng sau:
Thứ nhất: Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội, ý thức xã hội của con người là
phản ánh tồn tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau tùy
theo phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối với đời sống
xã hội, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực riêng biệt
trong tồn tại xã hội của con người.
Thứ hai: Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.

Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người:
phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật… Đối với đạo đức sự đánh giá hành vi
con người theo khuôn phép, chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành
những khái niệm thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Các quan
niệm đó thay đổi theo thời gian, và trong xã hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu
hiện lợi ích một giai cấp nhất định.
Thứ ba: Đạo đức là một hệ thống các giá trị, đạo đức là một hiện tượng xã
hội mang tính chuẩn mực, các hiện tượng đạo đức thường biểu hiện dưới hình
thức khẳng định, hay phủ định một lợi ích chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bày tỏ
sự tán thành hay phản đối trước thái độ hay hành vi ứng xử của các cá nhân,
giữa cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy đạo đức là một
nội dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình thành phát triển và hoàn
thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý
thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp
với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo.
Ngược lại hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
14
1.1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Từ rất sớm, vấn đề đạo đức đã được chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến một
cách toàn diện. Người khẳng định đạo đức là gốc của con người cách mạng.
Trong tác phẩm Đường Cách Mạng, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc "Tư cách
người cách mạng", trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ
yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: "Làm
cách mạng để cải tạo xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là
một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ.
Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang".
Trong xã hội, đạo đức được xem là thước đo thang giá trị con người mọi
thời đại. Tuy thời đại thay đổi nhưng những giá trị đạo đức thì không thay đổi.

Có chăng chỉ là sự thay đổi về cách nhìn nhận đánh giá những giá trị đó. Trong
cuộc sống, nếu cá nhân con người không lấy đạo đức làm nền tảng định hướng
hành vi của bản thân, thì không thể xây dựng được một xã hội theo đúng nghĩa
tên gọi của nó. Ngày nay, với sự phát triển của xã hội, Cuộc sống hiện đại đã
làm cho con người có những cách nhìn mới về những giá trị đạo đức. Sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật tân tiến mang lại cho con người nhiều tiện nghi thoải mái.
Tuy nhiên, nó cũng mang lại cho con người nhiều nỗi phiền toái, và còn lấy mất
khỏi con người nhiều giá trị cao đẹp - vốn là những điều quan trọng trong việc
hình thành nhân cách, lý tưởng sống của con người.
Những phương tiện khoa học kỹ thuật vốn không tốt cũng không xấu. Nó
tốt hay xấu là phụ thuộc vào người sử dụng nó. Thế nhưng, những phương tiện
khoa học kỹ thuật, hay nói một cách nôm na hơn là cuộc sống hiện đại đã làm
cho con người, nhất là những người trẻ, có những thay đổi cách nhìn về giá trị
đạo đức. Giới trẻ ngày nay có cách nhìn về cuộc sống, con người, thời đại và về
những giá trị đạo đức khác những người xưa nhiều. Đạo đức truyền thống đối
15
với họ không phải là điều bắt buộc nữa. Thứ đạo đức đó đối với họ đã trở thành
những món đồ cổ rồi. Phải chăng bây giờ lớp trẻ đang sống thiếu đạo đức ? Một
vấn nạn không dễ trả lời. Đạo đức ngày nay bao gồm nhiều lãnh vực, chứ không
gói gọn trong cách học làm người: Đạo đức sinh học, đạo đức trong kinh doanh,
đạo đức trong chính trị, đạo đức trong nhà trường, đạo đức trong tôn giáo… mỗi
một trong những nền đạo đức này nói lên một khía cạnh nào đó của cuộc sống
con người. Giá trị của chúng khác nhau, tuy nhiên, chúng có một điểm chung là
con người. Giá trị đạo đức thực là cái bảo đảm cho một cuộc sống hạnh phúc
hơn, sung mãn hơn.
Vai trò của đạo đức thể hiện ở chức năng của nó:
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là một phương thức điều chỉnh
hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội phát triển, đảm bảo quan
hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức
điều chỉnh hành vi trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo đức. Điều chỉnh

hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức
điều chỉnh. Pháp quyền được biểu hiện bằng pháp luật, là ý chí của giai cấp
thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Trong khi đó, pháp quyền là đạo đức
tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng. Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến
tối đa hành vi của cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và
lương tâm. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng xã hội và lương tâm
đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để
phân biệt đạo đức với các hình thái y thức khác. Mục đích chính là để đảm bảo
sự tồn tại và phát triển xã hội.
- Chức năng giáo dục: Con người vươn lên “chân – thiện – mỹ”. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Hệ thống đạo
đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại khách
quan, tác động, chi phối đến hành vi của con người. Môi trường đạo đức tác
động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Hiệu
16
quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ
chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình
giáo dục.
- Chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đạo đức
có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh của
đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác. Đạo
đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện
thực. Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, là tổng số các quy tắc,
các nguyên tắc định hướng hành vi của con người trong giao tiếp xã hội. Những
quy tắc, nguyên tắc ấy là sự biểu hiện của quan hệ hiện thực xác định giữa con
người với con người. Việc giáo dục đạo đức là chuyển những quy tắc, chuẩn
mực đạo đức được xã hội thừa nhận vào trong ý thức mỗi cá nhân để cá nhân tự
điều chỉnh hành vi của mình. Bởi vậy ý thức đạo đức có vai trò hết sức to lớn.
Không có ý thức đạo đức thì xã hội không tiến lên được. Sự hình thành, hoàn
thiện và phát triển hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn

thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Ý thức đạo đức phải được
thể hiện bằng hành động thì mới đem lại những lợi ích xã hội và loại trừ cái ác.
Đối với ngành Y tế, đạo đức chính là Y đức của người CBYT. Đó là
những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, nó quy định hành vi trong
mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, với đồng nghiệp. Cũng như nghề
thầy giáo, nghề thầy thuốc lấy con người là đối tượng công tác nhưng đặc điểm
nghề nghiệp của người thầy thuốc còn nhạy cảm hơn nhiều. Chức năng nghề
nghiệp của ngành Y tế là chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người, đó là vốn quý
nhất của con người và xã hội. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, trước thực
trạng đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận CBYT đang xuống dốc thì việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Phấn đấu
trở thành người thầy thuốc cách mạng có đức độ, bao dung, gần gũi, thương yêu
17
người bệnh như mẹ hiền, vừa là mục tiêu chiến đâu của chiến sĩ quân y và cũng
là yêu cầu, mong muốn của người bệnh.
1.1.2. Đạo đức nghề nghiệp
Trong xã hội có rất nhiều nghành nghề khác nhau, mỗi nghành nghề có
đặc thù riêng, tính chất công việc riêng, cho nên có vai trò và vị trí khác nhau
trong nền kinh tế quốc dân. Khi bàn về khái niệm nghề nghiệp có một số quan
điểm khác nhau. Theo Từ điển Việt Nam: “Nghề nghiệp là một công việc mà
người ta thực hiện trong suốt cả cuộc đời” [46; 698]. Ví dụ; nghề kiến trúc sư,
nghề kỹ sư Theo quan điểm Mác-Lênin thì nghề là một hiện tượng xã hội có
tính lịch sử, tức là có quá trình ra đời, phát triển và suy vong. Đặc điểm để có
nghề là phải lao động, lao động là một hoạt động sáng tạo của con người, đồng
thời cũng là tiền đề, là cơ sở để xuất hiện nhiều nghành nghề hơn trong lịch sử
loài người.
Trong các lớp từ vựng của tiếng Việt, từ "nghề nghiệp" nằm ở vị trí khá
khiêm tốn. Khái niệm và đặc điểm của nghề nghiệp ít được đề cập đến. Trong
một số tài liệu về ngôn ngữ học, những quan niệm hiện có về từ nghề nghiệp
vẫn chưa có định nghĩa nào làm thỏa mãn sự hiểu biết của chúng ta về bản chất

của tên gọi này.
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa từ nghề
nghiệp là: "các từ, ngữ đặc trưng cho ngôn ngữ của các nhóm người thuộc cùng
một nghề hoặc cùng một lĩnh vực hoạt động nào đó" [47; 234].
Theo GS.TS.NGND Nguyễn Thiện Giáp, thì từ nghề nghiệp là những từ
ngữ biểu thị những công cụ, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất của một
nghề nào đó trong xã hội. Những từ này thường được những người trong ngành
đó biết và sử dụng. Những người không làm nghề ấy tuy ít nhiều cũng có thể
biết nhiều từ ngữ nghề nghiệp nhưng ít hoặc hầu như không sử dụng chúng. Do
18
đó từ ngữ nghề nghiệp cũng là một lớp từ vựng được dùng hạn chế về mặt xã
hội.
Từ bản chất nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp được hiểu là đạo đức trong
một nghành nghề nhất định, mang những đặc trưng riêng đặc thù cho ngành
nghề đó. Ví dụ: nghề khai thác mỏ thì người thợ khai thác bên cạnh những kĩ
năng cần có phải có kiến thức chuyên sau về khai thác; hoặc nghề giáo viên phải
có kĩ năng giảng dạy nhằm tạo được hứng thú học tập cho người học
Đạo đức nghề nghiệp cũng có những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức,
được dư luận xã hội thừa nhận và quy định hành vi ứng xử trong mối quan hệ
với xã hội. Bản chất của đạo đức nghề nghiệp có những đặc thù riêng phản ánh
tính chất công việc của ngành, nghề nhất định, nó quy định những hành vi của
con người lao động trong ngành nghề đó. Khi những nguyên tắc chuẩn mực đạo
đức của ngành nghề đó thực hiện không đầy đủ hay không được thực hiện trong
công việc nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng và hiệu quả hoạt động của
ngành đó. Ví dụ: là chiến sĩ công tác trong quân đội nhân dân Việt Nam thì phải
tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với nhân dân, quyết tâm bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội, là một hình thái ý thức xã hội,
luôn bị chi phối bởi xã hội bằng sức mạnh và dư luận của xã hội, đạo đức nghề
nghiệp là một bộ phận cấu thành đạo đức xã hội. Do đó đạo đức nghề nghiệp là

một hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội phù hợp với đặc thù của
từng ngành, từng nghề nhất định. Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện theo sự phân
công trong lao động sản xuất. Trong xã hội có bao nhiêu nghề thì có bấy nhiều
đạo đức nghề nghiệp. Trong bất cứ giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử nào thì đạo
đức nghề nghiệp luôn luôn là đạo đức xã hội, chịu sự chi phối của đạo đức xã
hội.
Đạo đức nghề nghiệp là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, những
chuẩn mực đạo đức xã hội mang tính đặc thù của một bộ phận xã hội nhất định
19
nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi ứng xử và giải quyết những mối quan
hệ giữa các thành viên và xã hội, chịu sự chế ước cả pháp luật trong xã hội.
1.2. Nội dung cơ bản của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên trường y trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Giáo dục chuẩn mực đạo đức nghề y
Ở Việt Nam, nghề y và đạo đức nghề y ra đời từ rất sớm và chịu ảnh
hưởng lớn của đạo đức truyền thống phương Đông, thích ứng với nền sản xuất
nhỏ, tự cung tự cấp. Lý luận về đạo đức nghề y được xây dựng trên cơ sở đạo
đức của Nho giáo và Phật giáo. Sự tự giác rèn luyện theo các chuẩn mực đạo
đức của đạo Nho và đạo Phật tạo nên những nét riêng trong đạo đức nghề y Việt
Nam. Các tên tuổi lớn gắn với nghề y trong lịch sử có Phạm Công Bân, Nguyễn
Bá Tĩnh thời nhà Trần; Đào Công Chính, Lê Hữu Trác thời nhà Lê, Nguyễn Gia
Phan thời Tây Sơn… Từ khi đất nước giành được độc lập, đạo đức xã hội nói
chung, đạo đức nghề y nói riêng, được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác –
Lênin và tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc. Qua thực tiễn của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới, đạo đức nghề y đã hình thành
rõ nét, được các nhà khoa học bàn luận nhiều, khái quát lại, y đức có nghĩa
chung là những nguyên tắc phẩm hạnh và các chuẩn mực phẩm hạnh của người
thầy thuốc (đại diện cho nghề y) trong quan hệ với bệnh nhân, với công việc, với
y học, với đồng nghiệp và với xã hội. Y đức là một phẩm chất tốt đẹp của những
người tham gia hoạt động trong ngành y, đó là tinh thần trách nhiệm, là sự tận

tụy với công việc, hết lòng yêu thương chăm sóc bệnh nhân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn: “Lương y như từ mẫu” [24; 476]. Trong “Thư gửi Hội nghị quân
y” tháng 3 năm 1948 Người viết: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ
cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu”. Để
hoàn thành tốt nhiệm vụ cao cả đó đòi hỏi người CBYT phải có lòng yêu ngành,
yêu nghề, coi việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân là lẽ sống, là niềm vui, là
hạnh phúc của chính mình. Hơn lúc nào hết, đạo đức nghề nghiệp phải được đề
20
cao và thực hiện một cách hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi, coi hạnh
phúc của người bệnh là hạnh phúc của chính mình.
Thực hiện lời dặn của Người ngành y tế đã ban hành 12 điều y đức nhằm
giúp đội ngũ cán bộ ngành y tế tự học tập, tu dưỡng và rèn luyện để trở thành
những người thầy thuốc của nhân dân. Với đặc thù nghề nghiệp là SV chuyên
ngành y, cần phải thấm nhuần 12 điều y đức:
1. Chăm sóc sức khỏe cho mọi người là nghề cao quí. Khi đã tự nguyện
đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải có
lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề rèn luyện nâng cao phẩm chất
đạo đức của người thầy thuốc. Không ngừng học tập nghiên cứu khoa học để
nâng cao trình độ chuyên môn. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vì sự
nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn,
không được sử dụng người bệnh là thực nghiệm cho các phương pháp chuẩn
đoán, điều trị nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của bộ y tế và sự chấp
nhận của người bệnh.
3. Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân, tôn trọng
những bí mật riêng tư về sức khỏe của người bệnh. Khi thăm khám, chăm sóc
cần bảo đảm sự kín đáo và lịch sự. Quan tâm đến những người trong diện chính
sách ưu đãi xã hội, không được phân biệt đối xử với người bệnh, không được có
thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho người bệnh, phải
trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh.

4. Khi tiếp xúc với bệnh nhân và gia đình họ phải có thái độ niềm nở, tận
tình, trang phục chỉnh tề, sạch sẽ tạo niềm tin cho người bệnh. Phải giải thích
tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác chữa
bệnh; phổ biến cho họ về chế độ chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người
bệnh; động viên an ủi, khuyến khích người bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi
21
phục. Trường hợp bệnh nặng hoặc tiên lượng xấu cũng phải hết lòng cứu chữa
chăm sóc đến cùng, đồng thời báo cho gia đình người bệnh biết.
5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử lý kịp thời không được
đùn đẩy người bệnh.
6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý,
an toàn; không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất,
thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh.
7. Không được rời khỏi vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử lý
kịp thời các diễn biến của người bệnh.
8. Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều
trị, tự chăm sóc và giữ gìn sức khỏe.
9. Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng
dẫn gia đình họ làm các thủ tục cần thiết.
10. Thật thà, đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn
sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
11. Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình,
không đổ lỗi cho đồng nghiệp, cho tuyến trước.
12. Hăng hái tham gia tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch
bệnh, cứu chữa người bị tai nạn, ốm đau tại cộng đồng, gương mẫu thực hiện
nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường sống trong sạch [40].
Khi xây dựng các quy định về Y đức cần xác định 4 mối quan hệ mật thiết
đó là
Thứ nhất: Mối quan hệ của người cán bộ Y tế với đồng nghiệp
Thứ hai: Mối quan hệ của người cán bộ Y tế với người bệnh

Thứ ba: Mối quan hệ giữa người cán bộ Y tế với các bậc thầy, với đồng
nghiệp
Thư tư: Mối quan hệ giữa người cáan bộ Y tế với xã hội
22
Để thực hiện tốt nhiệm vụ cao cả vừa chữa bệnh vừa cứu người, người
CBYT ngay từ ban đầu khi tiếp xúc với môi trường y khoa, trước hết phải tình
nguyện trở thành “môn đồ” của nghề y, các em phải hun đúc trong bản thân
mình lòng yêu ngành, yêu nghề, ham mê trong công việc, không ngừng phấn
đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, không trở nên lạc hậu trước sự
phát triển của y học hiện đại. Để trở thành người CBYT tốt, trước hết các em
phải biết tự rèn luyện bản thân, phải đoàn kết tôn trọng bạn bè, thầy cô, đồng
nghiệp. Phải chân thành với bản thân mình, có như vậy mới có sự chân thành
với người bệnh, đồng thời phải có ý thức tập thể cao.
Ngành y là một hoạt động mang tính xã hội cao, mọi hoạt động của nó
luôn luôn đòi hỏi có sự chặt chẽ. Chính vì thế việc trang bị cho các em những
kiến thức về chuyên môn thôi chưa đủ, cần phải trau dồi những phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp của người CBYT để các em hiểu thêm về nghề, từ đó điều
chỉnh các hành vi của bản thân theo chuẩn mực đạo đức xã hội nói chung, chuẩn
mực đạo đức nghề y nói riêng.
1.2.2. Giáo dục phẩm chất chính trị, ý thức pháp luật
Ngày 29 tháng 8 năm 2007 Bộ giáo dục & Đào tạo ban hành Quyết định
50/2007/QĐ-BGDĐT về công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống cho HS, SV trong các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng và trung
cấp chuyên nghiệp. QĐ nêu rõ mục đích thực hiện công tác giáo dục phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống cho HS-SV nhằm rèn luyện và phát triển phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống văn minh, tiến bộ, góp phần giáo dục toàn diện cho
HS-SV. Nội dung công tác giáo dục phẩm chất chính trị gồm những nội dung
được quy định tại Điều 5:
1. Giáo dục lòng yêu nước, lý tưởng cộng sản, niềm tin đối với sự lãnh
đạo của Đảng, bản lĩnh chính trị

2. Giáo dục ý thức chấp hành các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
23
3. Giáo dục thái độ tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, phân
biệt đánh giá các sự kiện chính trị, xã hội, nhận ra và phê phán các âm mưu, thủ
đoạn chính trị của các thế lực thù địch.
Để thực hiện nội dung trên cần:
1. Tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện các quy định về công tác giáo
dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh , sinh viên.
2. Lựa chọn, lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục chính trị, đạo đức,
lối sống thích hợp vào hoạt động giảng dạy, học tập của chương trình chính
khóa.
3. Tổ chức các hoạt động nhân dịp ngày lễ, kỷ niệm các sự kiện trọng đại
của đất nước, địa phương và nhà trường, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
thao, các hoạt động, phong trào tình nguyện trong học sinh, sinh viên.
4. Tổ chức tuần sinh hoạt công dân học sinh, sinh viên đầu khóa, cuối
khóa, đầu năm học.
5. Tổ chức các hoạt động giáo dục theo chuyên đề, bao gồm:
a) Giáo dục pháp luật;
b) Giáo dục phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm;
c) Giáo dục môi trường, kỹ năng sống;
d) Giáo dục truyền thống, đạo đức nghề nghiệp
đ) Giáo dục phòng, chống tham nhũng
e) Giáo dục an toàn giao thông
g) Giáo dục truyền thống nghề nghiệp
h) Tư vấn tâm lý, nghề nghiệp và các vấn đề xã hội
i) Hội nhập với thế giới
6. Tổ chức các hoạt động đối thoại với học sinh, sinh viên, thực hiện quy
chế dân chủ trong nhà trường
7. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ học tập, rèn luyện cho học sinh, sinh viên

nhằm phát triển tài năng, giúp đỡ những học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó
24
khăn, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, chống tiêu cực, gian lận trong
học tập, rèn luyện.
8. Xây dựng các quy định về thi đua, khen thưởng và tổ chức tổng kết, tự
kiểm tra, tự đánh giá trong phạm vi nhà trường.
9. Kháo sát, đánh giá kết quả rèn luyện, thực trạng về phẩm chất đạo đức,
lối sống của học sinh, sinh viên theo định kỳ. Đề xuất những nội dung, biện
pháp và cách thức mới, khả thi, hiệu quả trong quá trình thực hiện.
10. Nghiên cứu, dự báo những biến động, ảnh hưởng của các điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội đối với phẩm chất đạo đức, lối sống của học sinh, sinh
viên.
11. Trao đổi, học tập kinh nghiệm thực hiện công tác giáo dục phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên giữa các trường trong nước
và quốc tế.
12. Trang bị cho các đơn vị, cá nhân có liên quan trong trường những kiến
thức, kỹ năng cần thiết của công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống cho học sinh, sinh viên [39].
Một nhân cách tốt phải trước tiên phải có ý thức tốt, có phẩm chất chính
trị tốt. Một thầy thuốc giỏi trước hết phải có tấm lòng yêu thương bệnh nhân.
Ngày nay nền kinh tế thị trường tác động và làm biến đổi tâm lý, ý thức đạo đức
của SV theo những tiêu chí mới, những định hướng giá trị mới. Đó là tính hiệu
quả, tính năng động và tháo vát trong hoạt động, chú trọng lợi ích, nhất là lợi ích
kinh tế, ý thức về năng lực, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ được đề
cao. Đi liền với nó là ý thức chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cá nhân
được coi trọng. Đây là vấn đề phức tạp nhất. Nền KTTT chứa đựng nhiều yếu tố
tích cực nhưng cũng bộc lộ không ít tiêu cực như sự phân hóa giàu nghèo diễn ra
với tốc độ nhanh, nhiều người bằng mọi cách, mọi thủ đoạn để làm giàu Đây
là những yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến đạo đức nghề nghiệp SV
theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực.

25

×