Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện đức thọ, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.51 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ HỒNG VÂN
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ HỒNG VÂN
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ BÌNH
NGHỆ AN - 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp tôi xin được
bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới Hội đồng khoa học, Khoa Giáo dục
Chính trị, phòng Đào tạo sau đại học Trường Đại học Vinh cùng các thầy cô đã
trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa học của mình. Qua đây
cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu trường THPT Trần
Phú, Ban giám hiệu trường THPT Minh Khai, Ban giám hiệu trường THPT


Đức Thọ, các thầy cô trong trường, gia đình, người thân, bạn bè đã giúp đỡ,
động viên, cung cấp thông tin, tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành tốt
luận văn tốt nghiệp này.
Đặc biệt tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất tới cô giáo TS.
Phạm Thị Bình, người trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, chỉ bảo tận tình cho tôi
trong suốt quá trình học tập cũng như trong quá trình hình thành và hoàn chỉnh
luận văn.
Mặc dù đã cố gắng trong suốt quá trình thực hiện nhưng chắc chắn luận
văn sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô và
bạn bè để tôi có thể hoàn thiện luận văn đầy đủ hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Hồng Vân
2
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
GDCD : Giáo dục công dân
KNS : Kỹ năng sống
PPDH : Phương pháp dạy học
QĐDH : Quan điểm dạy học
THPT : Trung học phổ thông
UNESCO : United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization
UNICEF : The United Nations Children’s Fund
WHO : World Health Organization
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
3
DANH MỤC BẢNG

Trang
A. MỞ ĐẦU
4
1. Lý do chọn đề tài
Thành tựu của công cuộc đổi mới đã giúp cho nước ta có điều kiện để
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài phục vụ cho sự nghiệp
phát triển đất nước. Xu thế đó đã mở ra những điều kiện thuận lợi mới và ngày
càng tạo ra nhiều cơ hội hơn cho thế hệ trẻ nước ta. Chính vì vậy, phần lớn thế
hệ trẻ ngày nay đã xác định được ước mơ, hoài bão, sống có lý tưởng, tích cực
học tập, rèn luyện, từng bước khẳng định giá trị để thăng tiến về vị thế, vai trò
của mình trong xã hội. Nhiều người trong số đó trở thành những tấm gương
thanh niên - học sinh vượt khó học giỏi, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, hòa nhã
với bạn bè, những tấm gương thanh niên - học sinh “sống đẹp, sống có ích”
Song bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ thanh niên, học sinh sống
thiếu lý tưởng, thiếu niềm tin vào cuộc sống. Trong thực tế đã xuất hiện những
vụ án giết người, cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn
nhân không ai khác lại chính là bạn học, thầy cô, người thân của họ. Nhiều em
học giỏi, điểm số cao nhưng khả năng giao tiếp và tự chủ kém, khi gặp phải
vướng mắc trong cuộc sống các em không biết cách chia sẻ với người khác dẫn
đến bi quan, chán nản, thậm chí tự sát để giải thoát cho mình… Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng theo các chuyên gia giáo dục,
nguyên nhân sâu xa là do các em còn thiếu kỹ năng sống (KNS) cần thiết để có
thể tự bảo vệ mình trước những cám dỗ và thử thách của cuộc sống.
Từ thực trạng trên, cùng với các cuộc vận động “Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm
gương đạo đức tự học và sáng tạo” để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả
giáo dục toàn diện cho học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Chỉ thị về việc phát
động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 - 2013. Đặc biệt, trong Chỉ thị có đề
cập đến nội dung “Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh”.

Từ năm học 2008 - 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa nội dung giáo
dục KNS vào giảng dạy và từ năm 2011 Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện giáo
5
dục KNS cho học sinh ở trường Trung học phổ thông (THPT) với sự hỗ trợ của
các tổ chức quốc tế, tiêu biểu là của UNICEF tại Việt Nam. Giáo dục KNS cho
học sinh được thực hiện bằng việc khai thác nội dung của một số môn học chiếm
ưu thế, trong đó có môn Giáo dục công dân (GDCD).
GDCD là một môn học có tầm quan trọng trong việc giáo dục nhân cách,
rèn luyện kỹ năng cho học sinh. GDCD còn là môn đóng vai trò chính trong việc
tích hợp rất nhiều vấn đề như: giáo dục đạo đức, giáo dục giới tính, sức khỏe
sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ môi trường, giáo dục pháp luật, giáo dục
về an toàn giao thông, một số kiến thức phổ thông về triết học, kinh tế, chính trị,
mỹ học… Những kiến thức này giúp trang bị cho học sinh thế giới quan duy vật,
phương pháp luận nhận thức khoa học để các em phát triển toàn diện hơn cả về
đức, trí, thể, mỹ phục vụ cho thực tiễn cuộc sống. Có thể nói, môn GDCD là
môn có nhiều kiến thức liên quan với cuộc sống hiện tại, rất thích hợp để giáo
dục KNS cho học sinh, nhằm đào tạo cho học sinh phát triển toàn diện phù hợp
với điều kiện mới của xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, từ năm học 2008 - 2009
các trường THPT trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh đã thực hiện giáo
dục KNS cho học sinh thông qua dạy học môn GDCD và đã thu được những kết
quả thiết thực, đáng ghi nhận. Tuy nhiên, việc giáo dục KNS cho học sinh còn
gặp rất nhiều khó khăn, bất cập vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, nghiên
cứu cơ sở lý luận cũng như thực trạng để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục KNS cho học sinh là một vấn đề cấp thiết và quan trọng. Vì
vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy
học môn Giáo dục công dân ở các trường Trung học phổ thông trên địa bàn
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
6

Thuật ngữ KNS được người Việt Nam bắt đầu biết đến từ chương trình
của UNICEF (1996) Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng
chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường. Thông qua
quá trình thực hiện chương trình này, nội dung của khái niệm KNS và giáo dục
KNS ngày càng được mở rộng. “Bởi lẽ những thách thức mà trẻ em và thanh
niên phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi là những kỹ năng đọc, viết, tính toán”
(UNICEF) [26; 18].
Cùng với việc triển khai chương trình nêu trên, vấn đề KNS và giáo dục
KNS bắt đầu được quan tâm nghiên cứu. Những nghiên cứu có xu hướng xác
định những kỹ năng cần thiết, ở những lĩnh vực hoạt động mà thanh thiếu niên
tham gia nhằm đưa ra các đề xuất, tìm ra những biện pháp hình thành những kỹ
năng này cho thanh thiếu niên, học sinh.
Khái niệm KNS thực sự được hiểu với nội hàm đầy đủ và đa dạng sau hội
thảo Chất lượng giáo dục và kỹ năng sống do UNESCO tài trợ được tổ chức từ
ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. Từ đó, những người làm
công tác giáo dục ở Việt Nam đã có những cài nhìn đầy đủ hơn về KNS và trách
nhiệm phải giáo dục KNS cho người học.
Ngày 22 tháng 7 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Chỉ thị Số:
40/2008/CT-BGDĐT “Về việc phát động phong trào thi đua Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 -
2013”. Nội dung của Chỉ thị có đề cập tới việc rèn luyện các KNS như: “kỹ
năng ứng xử; kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; kỹ năng phòng, chống tai
nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; kỹ năng ứng xử văn
hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội” [8; 1-2].
Văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi
đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực giúp chúng ta có định
hướng rõ ràng hơn trong việc giáo dục KNS cho học sinh.
7
Ngày 28 tháng 7 năm 2013, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn
Vinh Hiển ký duyệt Kế hoạch Số 1088/KH-BGDĐT về Hoàn thiện bộ tài liệu

giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục cấp tiểu học,
trung học cơ sở và trung học phổ thông trên toàn quốc với mục tiêu nâng cao chất
lượng và đảm bảo tính thiết thực của bộ tài liệu theo ý kiến góp ý của các cán bộ
quản lý giáo dục các cấp và giáo viên trực tiếp giảng dạy; bổ sung nội dung
hướng dẫn đánh giá kết quả giáo dục KNS và bộ công cụ đánh giá KNS theo từng
môn học và hoạt động giáo dục. Với danh mục tài liệu đính kèm vừa bổ sung cho
giáo viên nguồn tài liệu phong phú về KNS vừa có thể lấy ý kiến của các chuyên
gia, các nhà khoa học, các giáo viên trực tiếp giảng dạy để bộ tài liệu thực sự hữu
ích đối với nhà trường phổ thông. Kế hoạch trên căn cứ vào chỉ thị 40/2008/CT-
BGDĐT về việc phát động phong trào thi đua xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực cho thấy, vấn đề KNS và giáo dục KNS thực sự được quan tâm,
đầu tư nghiên cứu, phát triển.
Năm 2010, Luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh Phan Thanh Vân “Giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp”, đây là một đề tài khai thác thế mạnh của hoạt động
ngoài giờ lên lớp để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường. Nội
dung đề tài nhằm giáo dục cho các em một cuộc sống tích cực trong xã hội hiện
đại, xây dựng hoặc thay đổi hành vi ở các em theo hướng tích cực phù hợp với
mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học, dựa trên cơ sở giúp học sinh
có giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.
Đối với các môn học có đưa KNS vào nội dung giảng dạy thì môn GDCD
là môn có nhiều yếu tố thích hợp để giáo dục KNS cho học sinh. Năm 2010, Bộ
Giáo dục và Đào tạo cho xuất bản cuốn tài liệu dành cho giáo viên về Giáo dục
kỹ năng sống trong môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông. Cuốn
sách được biên soạn nhằm giúp giáo viên có thêm hiểu biết chung về KNS và
nội dung, cách thức giáo dục KNS cho học sinh trong môn GDCD ở trường
8
THPT, giúp giáo viên nhận thức đầy đủ về bản chất, mục tiêu, nguyên tắc giáo
dục KNS, nội dung của các KNS và việc lựa chọn các KNS cần giáo dục cho
học sinh. Bên cạnh đó, tài liệu cung cấp nội dung liên quan đến việc thực hành,

vận dụng những phương pháp, kỹ thuật… liên quan đến việc tổ chức dạy KNS
trên lớp. Đồng thời, tài liệu cũng phân tích khả năng, mục tiêu giáo dục KNS
cho học sinh trong môn GDCD, giới thiệu một số nội dung và địa chỉ các tiết
học/ bài học tiêu biểu, một số bài soạn minh họa về giáo dục KNS.
Các bài viết, tài liệu nghiên cứu về KNS rất phong phú và đa dạng. Một
tác phẩm gần gũi, cụ thể hơn với các bạn trẻ là cuốn Bạn trẻ và kỹ năng sống
của TS. Huỳnh Văn Sơn, Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách
như chính tâm sự của tác giả gửi tới các bạn trẻ những vấn đề trong cuộc sống.
Chính tác giả đã thuyết phục các bạn trẻ phải quan tâm tới các kỹ năng cần thiết
trong cuộc sống như kỹ năng phát huy nội lực của bản thân, kỹ năng tư duy sáng
tạo, kỹ năng tác động đến tâm lý của người khác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng
thuyết trình.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học và sách báo, tài liệu trên
đã phân tích, làm rõ tính tất yếu và đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục KNS cho thanh thiếu niên nói chung, cũng như cho học sinh THPT nói
riêng sẽ góp phần tạo nên giá trị truyền thống, giáo dục đạo đức và qua đó hình
thành nhân cách tốt cho các em.
Như vậy, quan điểm về giáo dục KNS đã được đề cập đa dạng với nhiều
hình thức khác nhau nhưng việc thực hiện giáo dục KNS trong nhà trường vẫn
còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trên địa bàn huyện Đức Thọ nói riêng và tỉnh Hà
Tĩnh nói chung chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu giáo dục KNS cho
học sinh thông qua dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT vì vậy
chúng tôi chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học
môn Giáo dục công dân ở các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nâng cao hiệu quả giáo dục KNS cho học sinh thông qua môn GDCD ở
các trường THPT trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về KNS, và giáo dục KNS
cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD.
- Thực nghiệm sư phạm về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông
qua dạy học môn GDCD ở các trường THPT trên địa bàn huyện Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất quy trình và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
KNS cho học sinh thông qua dạy học môn GDCD ở các trường THPT trên địa
bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục KNS cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh thông qua dạy học môn GDCD (phần Công dân với đạo đức
lớp 10).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Trong giới hạn của luận văn đề tài tập trung nghiên cứu các KNS cơ bản
cần giáo dục cho học sinh THPT là: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự tự
tin, kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ
năng tìm kiếm và xử lý thông tin và kỹ năng đảm nhận trách nhiệm; khảo sát,
đánh giá thực trạng giáo dục KNS này cho học sinh THPT thông qua dạy học
môn GDCD (phần Công dân với đạo đức lớp 10).
- Về địa bàn và thời gian:
Nghiên cứu thực trạng giáo dục KNS cho học sinh ở các trường THPT
trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2008 - 2013.
10
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên những quan điểm của Chủ nghĩa Mác -
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước
XHCN Việt Nam về sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn vận dụng các
phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử
dụng tổng hợp các phương pháp như:
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích tổng hợp
6. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và triển khai đồng bộ các giải pháp được đề xuất trong luận
văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục KNS cho học sinh thông qua dạy
học môn GDCD ở các trường THPT trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa và những đóng góp của đề tài
- Đề tài hệ thống hóa và góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về
KNS và giáo dục KNS cho học sinh THPT.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ thực trạng giáo dục
KNS cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh thông qua dạy học môn Giáo dục công dân giai đoạn 2008 - 2013.
- Đề tài đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
KNS cho học sinh thông qua dạy học môn GDCD ở các trường THPT trên địa
bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
Giáo dục chính trị và các giáo viên dạy học môn GDCD.
11
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh thông qua dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông.
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
thông qua dạy học môn Giáo dục công dân tại các trường Trung học phổ thông

trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Quy trình và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học môn Giáo dục công dân ở các
trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung học
phổ thông thông qua dạy học môn Giáo dục công dân
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Kỹ năng sống
Kỹ năng sống là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi
trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Ngay
những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức quốc tế như Tổ chức y tế Thế giới (WHO),
Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục
KNS cho thanh thiếu niên. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm này vẫn nằm trong
tình trạng chưa có một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Kỹ năng sống là khả năng để có
hành vi thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các
nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” (Bộ Giáo dục và Đào tạo) [7; 7].
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF): “Kỹ năng sống là cách tiếp
cận giúp thay đổi hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu
kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng” (Bộ Giáo dục và Đào tạo) [7; 7].
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO): “KNS gắn với bốn trụ cột của giáo dục đó là học để biết gồm các
kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết

vấn đề, nhận thức được hậu quả…; Học làm người gồm các kỹ năng cá nhân
như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…; Học để
13
sống với người khác gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự
khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để làm
gồm kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kỹ năng đặt mục tiêu,
đảm nhận trách nhiệm…” (Bộ Giáo dục và Đào tạo) [7; 7-8].
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể thấy rằng, KNS bao gồm một
loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản
chất của KNS là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác “KNS
là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống” (Bộ Giáo dục và Đào tạo) [7; 8]. KNS có nhiều tên gọi khác nhau ví
dụ như kỹ năng tâm lý xã hội, kỹ năng cá nhân lĩnh hội và tư duy. Một KNS có
thể có nhiều tên gọi khác nhau. Do đó, cần phân biệt giữa những kỹ năng để
sống còn như học chữ, học nghề, làm toán, v.v… tới bơi lội, v.v… với khái niệm
KNS đã được đề cập ở các định nghĩa trên.
Như vậy, KNS là khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình và
người khác phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp con người có thể kiểm soát,
quản lý có hiệu quả các nhu cầu trong cuộc sống, đồng thời giúp con người giải
quyết có hiệu quả những khó khăn, thách thức trong cuộc sống.
KNS vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá
nhân vì đó là khả năng của mỗi cá nhân, KNS còn mang tính xã hội vì trong mỗi
giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi vùng miền lại đòi hỏi ở mỗi cá nhân có
những kỹ năng thích hợp. Vì vậy, KNS không phải tự nhiên có được mà phải
hình thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện. Quá trình đó diễn
ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
1.1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống
Khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau ở cấp độ xã

hội và cấp độ nhà trường. Ở cấp độ nhà trường khái niệm giáo dục chỉ quá trình
14
giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được thực hiện thông
qua các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục là những hoạt động do các cơ
sở giáo dục (trường học và các cơ sở khác) tổ chức thực hiện theo kế hoạch,
chương trình giáo dục, trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về chúng. Trong
các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học là nền tảng và chủ đạo không chỉ
trong các môn học, mà ở tất cả các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường.
Nó là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí nền tảng và chức năng chủ đạo
trong hệ thống các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục được tổ chức có định
hướng về mặt giá trị nhằm tạo ra những môi trường hoạt động và giao tiếp có
định hướng của người học. Khi tham gia các hoạt động giáo dục, người học tiến
hành các hoạt động của mình theo những nguyên tắc chung, những mục tiêu
chung, những chuẩn mực giá trị chung và những biện pháp chung, nhờ vậy họ
được giáo dục theo những tiêu chí chung (tuy hoạt động của mỗi người luôn
diễn ra ở cấp cá nhân).
Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây
dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực
trên cơ sở giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kỹ năng, giá trị cá nhân thích hợp
với thực tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục KNS là làm thay đổi hành vi
của học sinh, chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả
tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để
nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã hội bền vững.
Giáo dục KNS còn mang ý nghĩa tạo nền tảng tinh thần để học sinh đối mặt với
các vấn đề từ hoàn cảnh, môi trường sống cũng như phương pháp hiệu quả để
giải quyết các vấn đề đó. Trong thực tiễn, giáo dục KNS được xem xét dưới hai
khía cạnh khác nhau: là một lĩnh vực học tập như giáo dục sức khỏe, HIV/AIDS,
ở lĩnh vực này đã tồn tại cách tiếp cận KNS từ khá lâu; là một cách tiếp cận giúp
giáo viên tiến hành giáo dục có chất lượng xuyên suốt các lĩnh vực học tập.
UNICEF và UNESCO cũng quan niệm rằng, giáo dục KNS không phải là

lĩnh vực hay môn học nhưng nó được áp dụng lồng ghép vào các kiến thức, giá
15
trị và kỹ năng quan trọng trong quá trình phát triển của cá nhân và học tập suốt
đời. Như vậy, giáo dục KNS được xem như là một cách tiếp cận giáo dục nhằm
mục đích giúp con người có những khả năng tâm lý để tương tác với người khác
và giải quyết những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày một
cách có hiệu quả.
Có bốn con đường để giáo dục KNS cho học sinh: Thứ nhất, có thể tích
hợp giáo dục KNS thông qua khai thác tiềm năng giáo dục trong nội dung môn
học qua phương pháp dạy học tích cực khuyến khích sự tương tác, cùng tham
gia, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo… của học sinh. Thứ hai, giáo dục thông
qua các chủ đề chuyên biệt về KNS dưới hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp của
các tổ chức Đoàn thanh niên, câu lạc bộ, Đội nhóm. Thứ ba, giáo dục KNS qua
tiếp cận bốn trụ cột: học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để
tự khẳng định bản thân; Thứ tư, thông qua tham vấn trực tiếp với cá nhân hoặc
nhóm học sinh.
Là những nhà giáo dục, những người luôn đồng hành với quá trình phát
triển của học sinh, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng phải giáo dục KNS cho
học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung
học phổ thông
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh trung học phổ thông
Tuổi học sinh THPT là giai đoạn đã trưởng thành về mặt thể lực, nhưng
sự phát triển cơ thể còn chưa vững chắc, các em bắt đầu thời kỳ phát triển tương
đối êm ả về mặt sinh lý. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan
trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát
triển. Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc
tế bào đại não của người lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết
các phần khác nhau của vỏ não lại, điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp
hóa hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học

tập và rèn luyện.
16
Ở học sinh THPT, tính chủ định trong nhận thức được phát triển, tri giác đã
đạt tới mức cao, quan sát trở nên có mục đích, hệ thống và toàn diện hơn. Tuy
nhiên, nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên thì quan sát của các em cũng khó đạt kết
quả cao. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm hướng quan sát của các em vào những
nhiệm vụ nhất định, không vội kết luận khi chưa tích lũy đủ các sự kiện. Cũng ở
lứa tuổi này, các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách
độc lập sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn,
tính phê phán cũng phát triển. Có thể nói, nhận thức của học sinh THPT chuyển
dần từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính, do đó, học tập và rèn luyện
KNS sẽ dễ đạt kết quả tốt hơn.
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân
cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của
các em. Học sinh THPT có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý
của mình: quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng
lực riêng, xuất hiện ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ đó là
những giá trị nổi trội và bền vững. Các em có khả năng đánh giá mặt mạnh, mặt
yếu của bản thân mình và những người xung quanh, có những biện pháp kiểm
tra đánh giá sự tự ý thức bản thân như viết nhật ký, tự kiểm điểm trong tâm
tưởng, biết đối chiếu với các thần tượng, các yêu cầu của xã hội, nhận thức vị trí
của mình trong xã hội, hiện tại và tương lai.
Học sinh THPT là lứa tuổi quyết định sự hình thành nhân sinh quan, thế
giới quan về xã hội, tự nhiên, các nguyên tắc và quy tắc cư xử. Chỉ số đầu tiên
của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển hứng thú nhận thức đối với
những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ, những quy luật phổ biến
của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài người. Lứa tuổi này, các em
quan tâm nhiều tới các vấn đề liên quan tới con người, vai trò của con người
trong lịch sử, quan hệ giữa con người và xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa
lý trí và tình cảm.

17
Tóm lại, sự phát triển nhân cách của học sinh THPT là một giai đoạn rất
quan trọng, giai đoạn chuyển đổi từ trẻ em lên người lớn. Đây là lứa tuổi đầu
thanh niên với những đặc điểm tâm lý đặc thù khác với tuổi thiếu niên, các em
đã đạt tới sự trưởng thành về thể lực và sự phát triển nhân cách. Đặc điểm tâm
sinh lý của học sinh THPT là điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục KNS cho các
em có hiệu quả. Các lực lượng giáo dục phải biết phát huy các yếu tố tích cực,
khắc phục những hạn chế trong sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi này để lựa
chọn nội dung, hình thức tổ chức thích hợp, phát huy được tính tích cực, chủ
động của các em trong hoạt động giáo dục theo định hướng của mục tiêu giáo
dục KNS.
1.1.2.2. Các yếu tố về chương trình giáo dục trung học phổ thông
Theo khoản 1, Điều 29, Luật Giáo dục năm 2005: “Chương trình giáo dục
trung học phổ thông quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc, nội
dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục,
cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp của giáo dục
phổ thông” [20; 7]. Theo đó, mục tiêu giáo dục THPT là học sinh được phát
triển hài hòa về thể chất và tinh thần, con người cá nhân và con người xã hội
trên cơ sở duy trì, tăng cường và định hình các phẩm chất, năng lực đã hình
thành ở cấp Trung học cơ sở; có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản, được định
hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp, phù hợp với năng khiếu và sở thích; phát triển
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học lên hoặc bước vào
cuộc sống lao động với phẩm chất, năng lực của một công dân. Để thực hiện
giáo dục KNS cho học sinh THPT thì mục tiêu về giáo dục KNS phải được đặt
ra trong chương trình giáo dục THPT. Do đó, nội dung giáo dục KNS cho học
sinh THPT phải được hoạch định; các hình thức, phương pháp, kiểm tra, đánh
giá giáo dục KNS cho học sinh phải được xác định cụ thể. Các yếu tố nêu trên
phải được mô tả trong văn bản chương trình giáo dục KNS cho học sinh THPT
và trở thành một nội dung của chương trình giáo dục THPT.
18

Những phân tích trên cho thấy, nếu vấn đề KNS chưa được đặt ra, chưa
được xác định như một yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của chương trình giáo dục
THPT thì khó có thể thực hiện giáo dục KNS cho học sinh THPT.
1.1.2.3. Tác động của môi trường gia đình và xã hội
Dưới góc độ giáo dục, gia đình, xã hội không chỉ là lực lượng tham gia
vào quá trình giáo dục mà còn là môi trường giáo dục quan trọng. Trong lĩnh
vực giáo dục KNS cho học sinh THPT, môi trường gia đình và môi trường xã
hội có thể tác động theo hướng tích cực hoặc không tích cực đối với quá trình
hình thành và phát triển KNS của học sinh. Do KNS thuộc phạm trù năng lực
nên sự trải nghiệm có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và phát
triển KNS. Gia đình và xã hội chính là môi trường nơi xác lập các tình huống
diễn ra sự trải nghiệm của học sinh.
Gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con người.
Những mối quan hệ trực tiếp giữa đứa trẻ và cha mẹ là những tác động qua lại
đầu tiên trong đời sống xã hội. Trong gia đình, các em nhận được những kinh
nghiệm và KNS đầu tiên. Môi trường gia đình giúp các em có thể học hỏi và
tiếp nhận những KNS, cách giao tiếp, cách ứng xử xã hội từ cha mẹ và các thành
viên trong gia đình. Cha mẹ, ông bà hay anh chị là biểu tượng, hình mẫu cho sự
phấn đấu và hoàn thiện nhân cách của các em. Tuy nhiên, gia đình ít dành thời
gian dạy các em KNS cần thiết, ngay cả những kỹ năng tự chăm sóc và phục vụ
bản thân. Với thực trạng hiện nay, rất nhiều em học sinh THPT ở các thành phố
lớn, thị xã hoặc một số gia đình giàu có thiếu hụt những KNS cơ bản và cần
thiết, các em không biết làm bất cứ một công việc nào cho dù là những công
việc tự phục vụ nhu cầu của bản thân hay những công việc nhà đơn giản mà
đáng lẽ ở lứa tuổi này các em bắt buộc phải biết để chuẩn bị cho bản thân những
KNS cần thiết trước khi bước vào cuộc sống của một người trưởng thành. Chính
vì vậy, hướng dẫn, khuyến khích và tạo điều kiện để các em tham gia tích cực
vào công việc gia đình, chú trọng dạy các KNS cho các em là việc làm cần thiết
của các bậc phụ huynh.
19

Các mối quan hệ trong xã hội tác động tích cực tới việc hình thành và phát
triển năng lực của học sinh THPT. Xã hội là môi trường thực tế, giúp học sinh hoàn
thiện các kỹ kỹ năng cuộc sống, chi phối một phần lớn trong suy nghĩ và hành động
của học sinh. Bước ra môi trường xã hội, học sinh có thể học hỏi và hình thành cho
mình những KNS cơ bản, cần thiết một cách tự nhiên. Từ những tình huống thực
tế, các em tự tìm cách giải quyết hay tìm kiếm sự hỗ trợ từ người thân, bạn bè đều
có thể hình thành KNS cho bản thân. Môi trường xã hội cũng cần tạo điều kiện để
học sinh tham gia các hoạt động hình thành năng lực cho bản thân bằng việc chung
tay góp sức của toàn thể cộng đồng.
1.1.3. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường Trung học phổ thông
1.1.3.1. Vai trò của môn Giáo dục công dân trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông
Môn GDCD là một môn học có thể giáo dục nhiều KNS cho học sinh trong
nhà trường THPT, góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục và
hoàn thiện nhân cách toàn diện cho học sinh. Điều đó thể hiện:
Về kiến thức, môn GDCD giúp học sinh có hiểu biết ban đầu về thế giới
quan và phương pháp luận biện chứng; một số phạm trù cơ bản của đạo đức học;
một số yêu cầu đạo đức đối với người công dân hiện nay. Giúp học sinh biết một
số phạm trù và quy luật kinh tế cơ bản, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước,
bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Học sinh có thể hiểu
đường lối, quan điểm của Đảng; các chính sách quan trọng của Nhà nước về xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Môn GDCD còn giúp học
sinh hiểu được bản chất và vai trò của pháp luật đối với sự phát triển của công
dân, đất nước, nhân loại; hiểu quyền và nghĩa vụ công dân trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đồng thời, học sinh cũng hiểu được trách nhiệm trong việc
thực hiện đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
hiểu trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tham gia kinh tế của công dân.
20
Về kỹ năng, học sinh có thể vận dụng được kiến thức đã học để phân tích,

đánh giá các hiện tượng, các sự kiện, các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống phù
hợp với lứa tuổi. Học sinh biết lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù
hợp với các giá trị xã hội. Bên cạnh đó, các em học sinh cũng biết bảo vệ cái
đúng, cái tốt, cái đẹp và biết đấu tranh, phê phán đối với các hành vi, hiện tượng
tiêu cực trong cuộc sống phù hợp với khả năng của bản thân.
Về thái độ, học sinh biết yêu cái đúng, cái tốt, cái đẹp; không đồng tình
với các hành vi, việc làm tiêu cực, biết yêu quê hương, đất nước, trân trọng và
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Đồng thời, tin tưởng vào các đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tôn trọng pháp luật của Nhà nước và các quy
định chung của cộng đồng, của tập thể. Học sinh phải có hoài bão và mục đích
sống cao đẹp.
Xuất phát từ mục tiêu môn học, nội dung môn GDCD ở trường THPT
được xác định thành 5 phần chính:
Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp
luận khoa học. Phần này trang bị cho học sinh những cơ sở ban đầu về thế giới
quan, phương pháp luận trong cuộc sống.
Phần thứ hai: Công dân với đạo đức. Phần công dân với đạo đức ở bậc
THPT là sự phát triển tiếp nối của môn GDCD ở bậc Trung học cơ sở. Những
chuẩn mực đạo đức mà học sinh đạt được ở lớp dưới được nâng lên thành những
giá trị đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm giúp học sinh giải quyết hợp lý, có hiệu quả các
mối quan hệ xã hội.
Phần thứ ba: Công dân với kinh tế. Phần này cung cấp cho học sinh
những hiểu biết cơ bản về một số phạm trù, quy luật kinh tế và phương hướng
phát triển kinh tế ở nước ta. Trên cơ sở đó giúp học sinh có thể xác định được
phương hướng học tập, lựa chọn ngành nghề, hoặc các lĩnh vực hoạt động khác
sau khi ra trường.
21
Phần thứ tư: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội. Phần này giúp
cho học sinh có những hiểu biết cơ bản về Chủ nghĩa xã hội và một số chính

sách quan trọng của Đảng và Nhà nước để học sinh có thể xác định được trách
nhiệm công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phần thứ năm: Công dân với pháp luật. Phần này cung cấp những hiểu
biết cơ bản về bản chất, vai trò và nội dung của pháp luật trong một số lĩnh vực
của đời sống xã hội nhằm giúp học sinh có thể chủ động, tự giác điều chỉnh
hành vi của cá nhân và đánh giá được hành vi của người khác theo quyền và
nghĩa vụ của công dân trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài những bài học chính trong sách giáo khoa, chương trình còn dành
một số thời gian cho các hoạt động thực hành, ngoại khóa, dạy học các vấn đề
gắn với tình hình địa phương.
Tất cả những điều đó cho thấy, mục tiêu và nội dung môn GDCD vốn đã
mang các yếu tố của giáo dục KNS, rất thuận lợi cho việc giáo dục đa dạng các
KNS cho học sinh. Từ đó, trang bị cho học sinh những KNS cần thiết, phù hợp
với lứa tuổi học sinh THPT; giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp trong các
mối quan hệ với những người thân trong gia đình, với thầy cô, bạn bè và những
người xung quanh; với cộng đồng, quê hương, đất nước, nhân loại, với môi
trường tự nhiên để các em trở thành người có trách nhiệm với bản thân, bạn bè,
gia đình và cộng đồng, người học sinh tích cực của nhà trường, người công dân
tốt của xã hội.
1.1.3.2. Nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua dạy học môn
Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông
Giáo dục KNS cho học sinh thông qua dạy học môn GDCD trong nhà
trường THPT cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tương tác: KNS không chỉ được hình thành qua việc
nghe giảng và tự đọc tài liệu mà còn phải thông qua các hoạt động tương tác với
22
người khác bởi việc nghe giảng và tự đọc tài liệu chỉ giúp học sinh thay đổi nhận
thức về một vấn đề nào đó; ngược lại, có nhiều KNS được hình thành trong quá
trình học sinh tương tác với những người xung quanh như kỹ năng thương lượng,

kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ứng xử, kỹ năng
hợp tác chia sẻ… thông qua hoạt động học tập hoặc các hoạt động xã hội trong
nhà trường. Mặt khác, khi tham gia các hoạt động có tính tương tác học sinh sẽ có
cơ hội để thể hiện các ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được
đánh giá và xem xét lại những kinh nghiệm sống của bản thân. Vì vậy, việc tổ
chức các hoạt động có tính chất tương tác trong các tiết học của môn GDCD trong
nhà trường THPT cũng như các hoạt động ở địa phương nơi học tập và sinh sống
sẽ tạo cơ hội thuận lợi để giáo dục các KNS cơ bản cho học sinh.
Thứ hai, nguyên tắc trải nghiệm: KNS được hình thành khi người học
được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. Học sinh chỉ có kỹ năng khi các
em tự làm việc đó, kinh nghiệm chỉ có được khi học sinh được hành động trong
các tình huống da dạng, qua đó các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kỹ
năng phù hợp với điều kiện thực tế. Vì vậy, giáo viên cần phải thiết kế và tổ
chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học môn GDCD sao cho học
sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh
nghiệm sống của bản thân mình và của người khác.
Thứ ba, nguyên tắc tiến trình: KNS không thể hình thành trong ngày một,
ngày hai mà phải trải qua một quá trình lâu dài từ nhận thức đến hình thành thái
độ và cuối cùng là thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà yếu tố có thể là
khởi đầu của một chu trình mới. Do đó, giáo viên dạy học môn GDCD có thể tác
động lên bất kỳ mắt xích nào trong chu trình trên, qua đó giúp các em thay đổi
thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi, hoặc hành vi thay
đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ…
Thứ tư, nguyên tắc thay đổi hành vi: mục đích cao nhất của giáo dục
KNS là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cực, thúc đẩy người
23

×