Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Một số biện pháp quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh trường dự bị đại học dân tộc sầm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.58 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ HẠNH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ HẠNH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC SẦM SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Quốc Lâm

Nghệ An, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu, kết quả
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn
Trần Thị Hạnh
i

LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là một phần kết quả trong quá trình được đào tạo tại chuyên ngành
Quản lý giáo dục - Trường Đại học Vinh. Để có được sản phẩm này, tác giả đã dành nhiều
thời gian, tâm trí trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đây cũng là kết quả của sự tận tình


giảng dạy, giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Vinh.
Với tất cả tình cảm chân thành của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám
hiệu, tới toàn thể các thầy giáo, cô giáo của trường Đại học Vinh, nhất là đối với các thầy
cô giáo trực tiếp giảng dạy lớp QLGD K20A chúng tôi; tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới Tiến sĩ Phan Quốc Lâm - người hướng dẫn khoa học - người đã rất ân cần, tận tâm chỉ
bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình tham gia học tập, nghiên cứu và có số liệu
cho chúng tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp, các em học sinh cùng các bạn đã giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi hy
vọng nhận được sự góp ý, xây dựng của các thầy giáo, cô giáo và các bạn để luận văn được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
ii

MỤC LỤC
Trang
iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBQL Cán bộ quản lý
CNH - HĐH Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CSVC Cơ sở vật chất
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
DBĐH Dự bị đại học

ĐH Đại học
HSSV Học sinh sinh viên
HS Học sinh
DTTS Dân tộc thiểu số
KTX Ký túc xá
iv

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Cơ cấu Trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn
Bảng 2.2. Thống kê số lượng HS từ năm 2009 đến năm 2013
Bảng số 2.3: Việc thực hiện nội quy ở trường
Bảng 2.4: Động cơ, thái độ học tập của học sinh
Bảng số 2.5: Khảo sát về kế hoạch giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức
cho học sinh
Bảng số 2.6: Triển khai kế hoạch công tác giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cho học sinh
Bảng số 2.7: Kết quả CBQL, giáo viên tham gia giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức
Bảng số 2.8: Kết quả giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức thông qua các
môn học
Bảng số 2.9: Việc quản lý GVCN tham gia giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cho học sinh……………….…………………………………

Bảng số 2.10: Các hoạt động của GVCN trong giờ sinh hoạt chủ nhiệm
Bảng số 2.11: Các hoạt động của đoàn thanh niên
Bảng số 2.12: Những yếu tố ảnh hưởng đến học sinh
Bảng số 2.13: Ảnh hưởng của các tổ chức, đoàn thể
Bảng số 2.14: Đánh giá thi đua khen thưởng trong công tác giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh

Bảng số 2.15: Những ưu điểm
Bảng số 2.16: Những hạn chế
Bảng số 3.1: Đối tượng khảo sát
v

Bảng 3.2. Kết quả khảo sát mức độ cần thiết và tính khả thi
vi

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh là một lĩnh vực quan
trọng trong hình thành nhân cách, phát triển con người trong nhà trường. Giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức giúp người học có ý thức về chính trị, ý thức
về pháp luật, ý thức đạo đức. Đây là hoạt động có tổ chức có mục đích, có kế
hoạch của nhà giáo dục nhằm chuyển hoá những chuẩn mục giá trị tư tưởng
chính trị, đạo đức và phẩm chất xã hội thành những phẩm chất và giá trị của
mỗi cá nhân. Giúp người học có ý thức đúng về tinh thần dân tộc về đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, về quyền và nghĩa vụ của công
dân, thực hiện các chuẩn mực đạo đức đối với xã hội, đối với cộng đồng, gia
đình và cá nhân.
Đứng trước tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ giáo viên và những vấn đề tác động đến
thanh niên, học sinh như: sống thực dụng; thiếu ước mơ và hoài bão; không
quyết tâm lập thân, lập nghiệp; tiêu cực trong thi cử, chạy theo thành tích đã
làm cho giá trị đạo đức của học sinh có phần mai một. Thêm vào đó, việc hội
nhập, sử dụng rộng rãi của intenet, đã làm cho một bộ phận thanh niên choáng
ngợp với văn hóa ngoại lai, trang phục không kín đáo, phim ảnh đồi trụy
không phù hợp với thuần phong mỹ tục làm ảnh hưởng đến tình bạn, tình yêu
trong lứa tuổi học sinh. Đặc biệt là đối với những học sinh, sinh vên chưa
được giáo dục, trang bị đầy đủ về đạo đức, kỹ năng sống.

Đánh giá thực trạng giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII đã nhấn mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên
có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực
dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất
1
nước. Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý
thức công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh… tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa, thể
thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện” [7].
Giáo dục - Đào tạo cùng với việc dạy chữ thì việc dạy người việc rèn
luyện tu dưỡng đạo đức cho học sinh trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng.
Bởi lẽ thanh niên là chủ nhân tương lai của đất nước, là nguồn lực thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là những người kế thừa chủ nghĩa xã
hội Việt Nam.
Trường DBĐH Dân tộc Sầm Sơn là trường chuyên biệt, thuộc hệ thống
các trường đại học: Nhiệm vụ của trường là bổ túc nâng cao trình độ văn hoá
cho học sinh dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp trung học phổ thông, trung học bổ
túc, trung học chuyên nghiệp, trung học nghề, thi trượt đại học có đủ kiến
thức vào học các trường đại học, cao đẳng. Trong thời gian qua nhà trường đã
có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng dạy học và từng bước nâng cao chất
lượng, nội dụng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên
kết quả vẫn còn nhiều mặt cần quan tâm. Bên cạnh những mặt tốt của đại đa
phần học sinh thì vẫn một bộ phận học sinh vẫn còn ỷ vào chế độ của Đảng và
Nhà nước đối với con em đồng bào dân tộc, mơ hồ lý tưởng cách mạng, ngại
tham gia các hoạt động xã hội, thờ ơ với chính trị thời cuộc, thiếu kỹ năng
sống. Một bộ phận còn lười học, vi phạm nội quy, quy chế nhà trường, thiếu
trung thực trong học tập, thi cử. Một số cán bộ quản lý, giáo viên chỉ tập trung
vào truyền đạt kiến thức chưa chú trọng vào giáo dục tư tưởng chính trị, đạo
đức cho học sinh,chưa thực sự là tấm gương cho học sinh noi theo.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và nhận thức nêu trên, chúng tôi chọn đề tài:

“Một số biện pháp quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức
cho học sinh trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn ”.
2
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cho học sinh.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức học sinh.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng quản lý giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh sẽ
được nâng cao nếu đề xuất và áp dụng linh hoạt, sáng tạo đồng bộ các biện
pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác quản lý giáo dục tư tưởng
chính trị, đạo đức cho học sinh
5.2. Nghiên cứu thực trạng của công tác quản lý giáo dục tư tưởng
chính trị, đạo đức cho học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn
5.3. Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý công tác giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu lý thuyết về quản lý; quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường; quản lý giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức.
- Nghiên cứu tài liệu, văn kiện, quy chế, quy định liên quan đến quản lý
giáp dục tư tưởng chính trị, đạo đức học sinh.
- Phân tích, khái quát hệ thống các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
3
- Phương pháp chuyên gia trao đổi phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát, theo dõi, đúc rút kinh nghiệm.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Tổng hợp, phân tích số liệu điều tra để khẳng định sự cần thiết và tính
khả thi của các biện pháp
7. Đóng góp của đề tài
7.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý nâng cao chất lượng giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức học sinh trường dự bị đại học dân tộc
7.2. Đánh giá thực trạng quản lý chất lượng giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức của học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn
7.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức của học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị. Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục tư tưởng chính trị, đạo
đức học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn.
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cho học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn.
Chương 3: Biện pháp quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo
đức cho học sinh trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho thế hệ trẻ là
một nội dung quan trọng nhằm giúp các nhà trường thực hiện mục tiêu giáo

dục toàn diện nhân cách người học.
Dù sống trong xã hội nào, con người cũng phải có hai mặt: năng lực và
phẩm chất (tài và đức), là hai mặt cơ bản hợp thành trong một cá nhân tạo nên
hạnh phúc của cá nhân và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “ Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có
đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”.
Con người sinh ra chưa có đạo đức và nhân cách, nó hình thành và phát
triển bởi giáo dục trong suốt cuộc đời, trong môi trường kinh tế- xã hội được
xác định. Chính vì lẽ đó vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức ở thời đại nào
cũng được quan tâm, chú ý của mọi thành viên xã hội. Sự cần thiết phải
thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để tận dụng tài năng phục vụ cho
lợi ích gia đình và xã hội là nhân cách tốt đẹp của con người chân chính trong
sự nghiệp CNH - HĐH hiện nay.
Công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức góp phần quan trọng vào
việc định hướng hình thành và phát triển nhân cách. Những phẩm chất tư
tưởng chính trị, đạo đức tiến bộ không phải tự nhiên mà có, mà phải thông
qua quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện trong lao động và đấu tranh bền
bỉ như Bác Hồ đã dạy: “Gạo đem vào giã bao đau đớn / gạo giã xong rồi trắng
tựa bông / sống ở trên đời người cũng vậy / gian nan rèn luyện mới thành
5
công”, “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, [24] mới có
thể giữ vững và nâng cao được phẩm chất đạo đức tốt đẹp của cá nhân, phù
hợp với lợi ích chung của xã hội.
Theo Phạm Minh Hạc - nhà tâm lý học hàng đầu Việt Nam đã nêu lên
các định hướng giá trị đạo đức của con người Việt Nam trong thời kỳ CNH -
HĐH và bàn về thực trạng cũng như giải pháp ở tầm vĩ mô về giáo dục - đào
tạo con người Việt Nam theo định hướng trên. Về mục tiêu giáo dục tác giả
Phạm Minh Hạc nêu rõ “trang bị cho mọi người những tri thức cần thiết về tư
tưởng chính trị, đạo đức nhân văn kiến thức pháp luật văn hóa xã hội. Hình
thành cho mọi công dân có thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin, đạo đức

trong sáng đối với bản thân, mọi người với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
dân tộc với mọi người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội, có
thói quen chấp hành quy định, nỗ lực học tập rèn luyện, tích cực cống hiến
sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp CNH - HĐH đất nước [17tr 168,169,170].
Nhiều nhà giáo dục đã nghiên cứu sâu về lĩnh vực giáo dục tư tưởng
chính trị, đạo đức. Qua nghiên cứu đã nêu nhiều tài liệu cụ thể chứng minh
các tình trạng lệch lạc về tư tưởng, suy thoái đạo đức của học sinh, ảnh hưởng
của lối sống thờ ơ với thời cuộc, thực dụng, chỉ biết hưởng thụ, không biết
cống hiến, bỏ học, chán học, mục đích học tập không rõ ràng là những vấn đề
nổi cộm.
Từ đó khẳng định vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức trong xã
hội nói chung và trong nhà trường nói riêng là việc làm cần thiết và phải tiến
hành thường xuyên, liên tục. Để làm tốt công tác giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cho học sinh cần phải có biện pháp quản lý giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức phù hợp mang lại hiệu quả cao trong tình hình hiện nay.
Trong những năm gần đây trước vấn đề hội nhập, công tác giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức, pháp luật cho học sinh trong các nhà trường được
6
Đảng, Nhà nước quan tâm thể hiện qua các Chỉ thị, Nghị quyết, các Quyết
định về công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức pháp luật trong các nhà
trường chuyên nghiệp cụ thể là:
+ Nghị quyết T.Ư 5 khóa IX từng bước đổi mới công tác giáo dục
chính trị tư tưởng.
+ Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tăng cường công tác tư
tưởng rèn luyện phẩm chất đạo đức Cách mạng.
+ Nhiệm vụ và giải pháp tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình
hiện nay (Ban tư tưởng văn hóa TW - nhà xuất bản chính trị quốc gia).
+ Quyết định số 50/2007/BGDĐT ngày 29/8/2007 giáo dục phẩm chất
chính trị đạo đức lối sống cho HSSV trong các trường Đại học, Cao đẳng.
Trung cấp chuyên nghiệp.

+ Công văn số 5410/BGDĐT-CTHSSV ngày 05/08/2013 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân – HSSV” năm học
2013 - 2014”.
- Bộ GD&ĐT chủ trì tổ chức nhiều Hội nghị, tập huấn cho cán bộ làm
công tác văn hoá, tư tưởng ở các cơ sở giáo dục. Qua các buổi tập huấn nhiều
cán bộ quản lý đã có những ý kiến về công tác giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cho học sinh. Có những kiến nghị với Bộ về triển khai những phương
pháp giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức đối với học sinh là người dân tộc
thiểu số.
Vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà giáo dục, cán bộ quản lý giáo dục, đã có một số
công trình nghiên cứu như:
- Một số ý kiến về nhân cách thế hệ trẻ, thanh niên - sinh viên và
phương pháp giáo dục- của tác giả Đặng Quốc Bảo.
7
- Việc giáo dục đạo đức cho giới trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh- của tác
giả Đoàn Nam Đàn.
Những luận văn thạc sĩ và công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến
công tác quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức và khẳng định
ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học
sinh. Các tác giả đã đề xuất được một số biện pháp cần thiết, khả thi nâng cao
hiệu quả quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho hoc sinh.
Thời gian qua Trường DBĐH Dân tộc Sầm Sơn đã có một số công
trình nghiên cứu về: “Quản lý dạy học ở Trường DBĐH Dân tộc Sầm Sơn
theo yêu cầu tạo nguồn đào tạo cán bộ cho miền núi hiện nay” của Mai Công
Khanh [2009]; "Một số biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý Trường
DBĐH Dân tộc Sầm Sơn đến năm 2020" của Mai Thanh Lâm [2010]; "Một
số biện pháp quản lý tài chính theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở
Trường DBĐH Dân tộc Sầm Sơn" của Đặng Xuân Cảnh [2010]; "Một số biện
pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dạy học ở Trường DBĐH

Dân tộc Sầm Sơn" của Chu Hồng Thắng [2011]. Các công trình nghiên cứu
đã đề cập đến vấn đề quản lý dạy học trong nhà trường; xây dựng đội ngũ cán
bộ quản lý đối với loại hình Trường DBĐH Dân tộc; quản lý tài chính theo
hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý dạy học Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc
quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh. Vì vậy tôi
chọn và nghiên cứu đề tài này, mong muốn đề xuất được một số biện pháp
quản lý công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh nhằm góp
phần cùng nhà trường nâng cao chất lượng quản lý hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến công tác quản lý giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh trường dự bị đại học
1.2.1. Giáo dục
8
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và
người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách
người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La
tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa
như là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn,
truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn
hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và
nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ
của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên
cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và
làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử
trong xã hội.

Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho
sự phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh.
Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các
thành tố có liên hệ mang tính hệ thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung
giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và
chỉ tiêu đánh giá. Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp
tục trong suốt cuộc đời.
1.2.2. Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh
- Khái niệm về tư tưởng: Thuật ngữ “tư tưởng có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp cổ “idea”, có nghĩa là hình thức. Cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa tư
9
tưởng khác nhau: tư tưởng là sự phán ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu
hiện quan hệ của con người đối với thế giới chung quanh. Là những quan
điểm, ý nghĩa phán ánh thế giới vật chất trong nhận thức con người và thể
hiện mặt này hay mặt khác của thế giới khách quan [Từ điển tiếng việt, tr.107,
Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học,2002]
Bt c t t  ng nào cng   u do ch   xã hi, i u kin sinh hot vt
cht ca con ng i quyt  nh. Theo Mác, t t ng phi gn vi li ích, t
t  ng mà không gn vi li ích là i u ht sc vô ngha. Nhng cn thy là
các nhà t t ng th ng bo v li ích d  i hình thc lý t ng hoá, tc là gn
cho mình s mnh   i din chân chính cho toàn xã hi. Trong tác phm “H
t t ng   c ” Mác và  ngghen vch rõ: mi giai cp mi thay th cho giai
cp thng tr tr c mình, mun thc hin    c mc ích ca mình,   u nht
thit phi biu hin li ích ca bn thân mình thành li ích ca mi thành viên
trong xã hi hay nói cách tru t ng: phi gn cho nhng t t ng ca bn
thân mình thành mt hình thc ph bin, phi biu hin nhng t t ng ó
thành nhng t t ng duy nht hp lý, duy nht có giá tr ph bin. Trong
toàn b lch s t t ng t tr c   n nay, ch có t t ng vô sn mi thc s
bo v    c li ích chung, ph bin ca toàn xã hi. Bi vì, li ích ca giai
cp vô sn phù hp vi li ích ca   i a s ng  i dân trong xã hi.

T t ng là s phn ánh khái quát hin thc khách quan trong ý thc
con ng  i, biu hin nhng li ích ca con ng i, giai cp v xã hi.  ó là ý
thc phn ánh tn ti xã hi d i dng khái quát, phn ánh li ích ca mt con
ng  i, biu hin nhng li ích ca con ng i, ca mt tp oàn ng  i.
- Khái niệm về chính trị: Chính trị là một lĩnh vực đặc biệt, đa dạng và
phức tạp, liên quan đến lợi ích của giai cấp, các lực lượng xã hội. Vì vậy, có
nhiều cách tiếp cận khác nhau. Kế thừa các nhân tố hợp lý trong các quan
điểm về chính trị, tác giả luận văn cho rằng: chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, các lực lượng xã hội trong vấn đề chính quyền; là sự tham gia của
nhân dân vào công việc xã hội trong vấn đề chính quyền; là sự tham gia của
nhân dân vào công việc của Nhà nước; là tổng hợp những phương pháp,
phương thức hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái nhằm giáo
10
dục, giác ngộ quần chúng tham gia vào quá trình giành, giữ và điều khiển
hoạt động của Nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp, với mục đích và phạm vi
nghiên cứu, qua thực tế ở Việt Nam luận văn tiếp cận đến chính trị với tư
cách là những hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhằm giáo dục đối
với học sinh để góp phần hoàn thiện nhân cách của học sinh.
- Khái nim v t t  ng chính tr: Là mt hình thái ý thc xã hi có ý
ngha   c bit quan trng trong   i sng xã hi. Nó xut hin trong lch s
cùng vi s xut hin ca Nhà n c c   i. T t  ng chính tr ca mt th ch
xã hi là h thng quan i m t t ng th hin li ích cn bn ca mt giai
cp nht  nh ni dung và hình thc hot   ng ca nhà n c v mt   i ni
cng nh   i ngoi.
- Khái nim  o   c: Trong cuốn “Từ điển học sinh” do tác giả Nguyễn
Lương Ngọc và Lê Khả Kế (Nhà xuất bản Hà Nội - 1972) định nghĩa: “Đạo là
phép tắc cơ bản thông thường, cần phải có giữa người với người” và “Đức là
tính nết tốt, tư cách tốt, hợp với phép tắc đối xử đúng đắn giữa con người với
nhau” [26].
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống

các quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.
Trong từ điển Liên Xô (trước đây) do M.M Rodentan chủ biên đã được
dịch bằng tiếng Việt (Nxb Sự thật - 1986) định nghĩa: “Đạo đức là một trong
những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội, thực hiện chức năng điều
chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội”.
Tóm lại: Đạo đức là một hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự
tự giác trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng
đồng xã hội, với tự nhiên và với bản thân mình.
Trong quá trình xã hội phát triển, những quan niệm về đạo đức và vô
đạo đức, thiện và ác, chính và tà cũng thay đổi theo. Như trong xã hội phong
kiến, quy định con người phải có 5 cái đức lớn “Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí -
11
Tín”, riêng người phụ nữ phải có thêm “Tam tòng, Tứ đức”. Đến thời đại Hồ
Chí Minh “Ngũ thường” của Người là: “Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm”.
Như vậy mỗi giai cấp lại có một kiểu đạo đức của mình để giải quyết những
mâu thuẫn giữa cái chung và cái riêng của xã hội, khái niệm đạo đức ngày
càng đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Đạo đức gồm 3 vấn đề lớn: quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức và hành vi
đạo đức. Chúng hợp thành một tam giác có quan hệ hữu cơ với nhau.
+ Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Như quan hệ giữa các thế hệ,
giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ tập thể, quan hệ giữa cá nhân với
xã hội, quan hệ bạn bè, quan hệ giữa nam và nữ.
+ Ý thức đạo đức phản ánh những quan hệ đạo đức dưới dạng những quy
tắc, chuẩn mực phù hợp với những quan hệ đạo đức. Trong thành phần của ý
thức đạo đức có hai hệ thống có bản gồm tri thức đạo đức và tình cảm đạo
đức. Ý thức đạo đức là tiêu chuẩn giá trị cao nhất tạo nên bản chất đạo đức
của con người, tạo nên đồng cảm của hành vi đạo đức. Ý thức đạo đức luôn
được gắn với hành vi đạo đức.
Hệ thống hành vi đạo đức của con người và sự hiện thực hóa ý thức đạo

đức trong đời sống, tạo nên thực tiễn đạo đức. Không có thực tiễn đạo đức thì
ý thức đạo đức trở lên vô nghĩa, trống rỗng và chỉ là những giáo lý chung.
Trong nhà trường XHCN, giáo dục đạo đức cho học sinh là phát triển
mặt đạo đức của nhân cách, là hoàn thành ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức,
hành vi và thói quen đạo đức của học sinh theo những nguyên tắc đạo đức
cách mạng mà tấm gương sáng ngời là Chủ tich Hồ Chí Minh .
Giáo dục đạo đức gắn bó hữu cơ với giáo dục tư tưởng chính trị. Giáo
dục tư tưởng chính trị có tác dung xây dựng cơ sở thế giới quan và định
hướng chính trị - xã hội cho ý thức và hành động cá nhân. Ngoài ra giáo dục
12
đạo đức còn liên quan mật thiết tới giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật có
tác dụng củng cố và thúc đẩy việc thực hiện các yêu cầu đạo đức .
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: “Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội.
Đạo đức là một hình thức ý thức xã hội phản ánh và chịu sự chi phối của tồn
tại xã hội. Vì tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo, như
vậy đạo đức xã hội luôn mang tính giai cấp, tính dân tộc".
1.2.3. Quản lý và quản lý giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức cho học sinh
- Khái niệm quản lý:
Từ khi con người sống thành xã hội có sự phân công và hợp tác trong lao
động thì bắt đầu có sự quản lý. Tính chất của việc quản lý thay đổi và phát
triển theo sự phát triển của xã hội loài người, nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
Đã có nhiều tác giả định nghĩa về quản lý:
- Tác giả Hà Sĩ Hồ và Lê Tuấn đã định nghĩa “Quản lý là một quá trình
tác động có định hướng, có tổ chức lựa chọn trong số các tác động có thể có
dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ
cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục
đích đã định” [19].

- Tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là
khách thể quản lý, nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến” [27].
Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội có liên
quan mật thiết với nhau. Nếu không có tổ chức thì không biết quản lý ai và
ngược lại, nếu không có quản lý thì tổ chức sẽ không tồn tại và phát triển được.
Quản lý là hoạt động cần thiết trong mọi hoạt động của xã hội từ thấp
13
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Quản lý bao gồm những công việc chỉ huy
và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công việc nhằm đạt mục tiêu
của tổ chức, của nhóm đề ra. Mục đích hay mục tiêu của hoạt động quản lý là
do chủ thể quản lý đề ra dựa vào mục đích hay mục tiêu chung của xã hội hay
do sự cam kết, thỏa thuận giữa chủ thể và khách thể quản lý.
Như vậy quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về các mặt: Chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, giáo dục…bằng một hệ thống các luật định, chính sách, nguyên tắc,
phương pháp, biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng.
- Khái niệm Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một bộ phận trong quản lý nhà nước XHCN Việt
Nam. Vì vậy quản lý giáo dục mặc dù có những đặc điểm riêng biệt song
cũng chịu sự chi phối bởi mục tiêu quản lý nhà nước XHCN.
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là quản lý trường học, thực
hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là
đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo
dục, mục tiêu đào tạo với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh".
[16, tr 32]
Giáo dục và quản lý giáo dục tồn tại song hành. Nếu nói giáo dục là hiện
tượng xã hội và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người thì cũng có thể nói như vậy về quản lý giáo dục. Giáo dục xuất hiện

nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người, của
thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để cho thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa,
phát triển kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo, làm cho xã hội và bản thân con
người phát triển không ngừng. Để đạt mục tiêu đó, quản lý được coi là nhân
tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên.
14
Cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt động có ý
thức của con người nhằm đạt được những mục đích của mình. Chỉ có con
người mới có khả năng khách thể hóa mục đích, nghĩa là biến cái hình mẫu ý
tưởng của đối tượng trong tương lai, mà ta gọi là mục đích thành trạng thái
hiện thực. Mục đích giáo dục nằm trong mục đích của quản lý giáo dục.
Xét theo quan điểm lý thuyết hệ thống thì quản lý giáo dục là sự tác động
liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục
nhằm tạo ra tính “trồi” của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng,
các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống tới mục tiêu một cách tốt nhất
trong điều kiện bảo đảm sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến
động.
Ở các cơ sở giáo dục, thì quản lý giáo dục được hiểu là những tác động
tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của
chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha
mẹ học sinh và các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm thực
hiện có chất lượng và có hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Tiêu điểm của nhà trường là quá trình giáo dục nên cũng có thể hiểu
quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá
trình giáo dục được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ
đắc lực của các lực lượng xã hội nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Từ những khái niệm nêu trên chúng ta có thể thấy rõ bốn yếu tố của quản
lý giáo dục, đó là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý và
mục tiêu quản lý. Thực tế các yếu tố này không tách rời nhau mà ngược lại,

chúng có mối quan hệ tương tác gắn bó với nhau. Chủ thể quản lý tạo ra
những tác nhân tác động lên đối tượng quản lý, nơi tiếp nhận tác động của
chủ thể quản lý và cùng với chủ thể quản lý hoạt động theo một quỹ đạo
15
nhằm cùng thực hiện mục tiêu của tổ chức. Chủ thể quản lý và đối tượng quản
lý hợp thành hệ thống quản lý. Khách thể quản lý nằm ngoài hệ thống quản
lý, nó có thể là hệ thống khác hoặc các ràng buộc của môi trường,…Nó có thể
chịu tác động hoặc tác động trở lại hệ thống quản lý. Vấn đề đặt ra đối với
chủ thể quản lý là làm như thế nào để cho những tác động từ phía khách thể
quản lý đến quá trình giáo dục là những tác động tích cực, cùng nhằm thực
hiện mục tiêu chung.
Trong quản lý giáo dục, những sự tác động qua lại giữa chủ thể quản lý
và đối tượng quản lý mang tính chất mềm dẻo, đa chiều. Ở đây không thể chỉ
có mệnh lệnh cứng nhắc, rập khuôn, máy móc vì đối tượng quản lý không
phản ứng lại một cách thụ động các tác động quản lý. Vấn đề là phải tôn trọng
họ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của họ trong công việc chung.
Quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục nói riêng vừa là khoa học,
vừa là nghệ thuật. Vì vậy, về mặt khoa học, người cán bộ quản lý giáo dục
không chỉ cần nắm các nội dung cơ bản của khoa học quản lý mà còn cần phải
nắm được các quy luật chi phối quá trình giáo dục cùng các khoa học khác
liên quan đến giáo dục. Nhà quản lý cần luôn tìm cách đúc kết kinh nghiệm
và cải tiến công việc để có hiệu quả tốt. Mặt khác, nhà quản lý còn cần phải
có và biết vận dụng khéo léo nghệ thuật quản lý. Nghệ thuật quản lý giáo dục
có thể hiểu là sự tích hợp của của khoa học giáo dục, khoa học quản lý giáo
dục, kinh nghiệm quản lý và sự sáng tạo của chủ thể quản lý. Nhà quản lý
giáo dục cần làm cho tính khoa học và tính nghệ thuật luôn gắn bó với nhau,
bởi nếu chỉ chú ý đến tính nghệ thuật thì hoạt động của nhà quản lý mang tính
ngẫu hứng, kết quả hoạt động thiếu bền vững, thiếu ổn định và có tính may
rủi. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến tính khoa học thì dễ rơi vào cứng nhắc, máy
móc và giáo điều.

16
1.2.4. Biện pháp quản lý giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức cho học sinh
- Vị trí, ý nghĩa của giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức:
+ Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức là quá trình tác động có mục đích,
có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát
triển đúng đắn, giúp cho học sinh có lập trường tư tưởng vững vàng tin tưởng
vào những chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, yêu đất
nước, có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân
với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh
và của cá nhân với chính mình.
+ Trong các mặt giáo dục, giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giữ một
vị trí hết sức quan trọng vì như Hồ Chí Minh đã nêu: “Dạy cũng như học phải
biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất
quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”.
+ Giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức còn có ý nghĩa cơ bản, lâu dài,
được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống chứ không phải chỉ
được thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những đòi hỏi cấp bách.
+ Trong nhà trường, giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức là mặt giáo dục
phải được đặc biệt coi trọng. Nếu công tác này được quan tâm quản lý, chỉ
đạo sẽ là cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung vì giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức có mối quan hệ mật thiết và định hướng cho
các hoạt động khác trong nhà trường.
+ Để thực hiện những mục đích, những nội dung giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức cho học sinh trong trường DBĐH nhất định phải tập hợp được
nhiều lực lượng, nhiều tác động, trong đó:
Vai trò của tập thể sư phạm giữ một vị trí quan trọng, trong đó quan
trọng nhất là vai trò của người hiệu trưởng, người quản lý, chỉ đạo việc thực
17

×