BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN ĐÌNH CƯỜNG
GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CHO
THANH NIÊN THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐINH THẾ ĐỊNH
Nghệ An, 10/2014
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ giảng viên các
nhà khoa học, khoa Giáo dục chính trị, Phòng đào tạo Sau đại học trường Đại
học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đinh Thế Định đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn tôi trong quá trình làm luận văn.
Chân thành cảm ơn Ban Chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN
Việt Nam thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, cấp ủy chính quyền và thanh niên thị
xã Hồng Lĩnh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, tham gia đóng góp nhiều
ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do điều kiện
nghiên cứu và khả năng còn hạn chế, luận văn chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót về nội dung và hình thức. Tác giả rất mong nhận được sự nhận
xét, đóng góp của Hội Đồng để công trình được hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Đình Cường
MỤC LỤC
DANH MỤC QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐVTN : Đoàn viên thanh niên
LHTN : Liên hiệp thanh niên
TN : Thanh niên
TNCS : Thanh niên cộng sản
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, TN luôn nêu cao truyền thống
yêu nước, chí khí anh hùng, bất khuất của dân tộc, hăng hái đi tiên phong trên
mọi lĩnh vực và có nhiều cống hiến vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “ĐOÀN VIÊN
VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa “hồng” vừa “ chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và cần thiết” [36; 516].
Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” khẳng định: “ Thanh niên là rường cột của
nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên
vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền
của đất nước” [23; 41-42].
Thanh niên nước ta có lòng yêu nước nồng nàn, luôn phát huy truyền thống
tốt đẹp của các thế hệ cha anh, khẳng định niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng cách
mạng và sự lãnh đạo của Đảng. Có nhận thức và thái độ chính trị đúng đắn, kiên
quyết chống lại những biểu hiện sai trái, âm mưu “diễn biến hòa bình”, các hành
vi gây tổn hại đến sự phát triển đất nước của các thế lực phản động, thù địch.
Luôn quan tâm đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Có ý chí
vươn lên trong học tập, lao động và công tác, mong muốn đất nước sớm thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, được cống hiến nhiều nhất cho công cuộc chấn hưng
5
đất nước. Sẵn sàng vì lợi ích dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, tình nguyện vì
cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ TN có lối sống đua
đòi, buông thả chưa chuyên tâm vào việc học tập, rèn luyện, tự lực vươn lên và
cống hiến cho đất nước. Việc giáo dục lý tưởng và truyền thống cách mạng đối
với TN chưa sâu sắc, tổ chức Đoàn chưa có nhiều biện pháp và hình thức phong
phú, linh hoạt trong công tác tuyên truyền và giáo dục TN, phong trào TN phát
triển không đồng đều.
Trong những năm qua, công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho TN
thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đã có sự chuyển biến tích cực, với nhiều hình
thức phù hợp với đặc thù của địa phương. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay,
đất nước hội nhập sâu vào quá trình toàn cầu hóa quốc tế đã có tác động rất
mạnh mẽ đến một bộ phận không nhỏ TN, những mặt trái của nền kinh tế thị
trường đã có ảnh hưởng tiêu cực và làm thay đổi cách nhìn nhận về truyền thống
cách mạng của Đảng và của dân tộc, một bộ phận TN phai nhạt lý tưởng cách
mạng, giảm sút niềm tin, sống thực dụng, vị kỉ, xa rời truyền thống văn hóa dân
tộc, vọng ngoại, chủ nghĩa cá nhân. Một số ít TN dao động, tin theo những luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, làm mất ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội, cổ suý cho lối sống không lành mạnh, hoài nghi con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, hoài nghi vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Trước thực trạng đó đòi hỏi phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục
truyền thống cách mạng cho TN là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Với những nhận
thức trên, chúng tôi chọn đề tài “Giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh
niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
6
Thanh niên là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân
tộc, có vị trí quyết định đến sự hưng thịnh của mỗi quốc gia. Xung quanh vấn đề
TN, giáo dục TN đã có nhiều nghị quyết, văn bản của Đảng, Đoàn, nhiều tác giả
nghiên cứu ở những khía cạnh và phương pháp tiếp cận khác nhau, được trình
bày dưới dạng nghị quyết, sách, luận văn, luận án, đề tài.
Tiêu biểu là các công trình:
Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế
thị trường, do GS.TS Thái Duy Tuyên (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia Hà
Nội, 1994; Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường, của GS.TS Thái Duy Tiên, Tạp chí Triết học số 5-1995;
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong
nền kinh tế thị trường, của TS Hoàng Trung, Tạp chí Triết học số 5-1998; Lý
tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện
hiện nay, của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học số 2-2001; Một số biểu hiện
của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
và giải pháp khắc phục, của PGS.TS Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học số
6-2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên của Đoàn Nam Đàn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau, của Trần Quy Nhơn, Nxb Giáo dục, 2005; Định hướng
giá trị cho thanh niên, sinh viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, của Dương Tự Đàm, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên và vận dụng trong thực
tiễn cách mạng hiện nay của TS. Trần Văn Hải (chủ nhiệm), Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ năm 2007 của Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh; Nghị quyết của Bộ Chính trị, số 25-NQ/TW, ngày 9/2/1991, Về đổi mới
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên; Nghị quyết
hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, ngày
14/01/1993, Về công tác thanh niên trong tình hình mới; Nghị quyết hội nghị lần
7
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Các công trình trên đã khẳng định vị trí, vai trò của TN trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, TN là chủ nhân tương lai của đất nước, là người kế tục
sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Đồng thời các công trình trên
cũng đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ trong việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục
TN trong điều kiện hội nhập quốc tế, giúp TN có bản lĩnh chính trị vững vàng,
sẵn sàng nhận và hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì khi Đảng và Tổ quốc yêu cầu.
Vấn đề giáo dục truyền thống cách mạng cho TN đã có nhiều tác giả nghiên
cứu. Tiêu biểu là các công trình:
Tháng 2/1998, GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn đăng bài viết Vấn đề khai thác
các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển, trên Tạp chí Triết học. Bài viết đi
sâu vào các phần chính như: Truyền thống, cội nguồn của truyền thống, khai
thác truyền thống trong những điều kiện khác nhau. Trên cơ sở phân tích, biện
luận, tác giả đi đến kết luận: “Công cuộc phát triển đất nước theo định hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những chỉ đòi hỏi chúng ta khai thác, sử
dụng những mặt tích cực của truyền thống và các giá trị truyền thống mà còn đòi
hỏi chúng ta phát triển các giá trị đó, đồng thời phải biết tiếp thu tất cả những gì
tốt đẹp, những gì là mới và quý giá của các dân tộc khác và của thời đại” [3].
Cũng trên Tạp chí Triết học, tháng 4/1998, GS.TS. Nguyễn Văn Huyên cho
đăng bài viết Giá trị truyền thống- nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát
triển đất nước, dân tộc. Bài viết đã đề cập đến một số giá trị truyền thống tiêu
biểu của dân tộc, đồng thời phân tích và làm rõ vai trò, vị trí của nó trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày nay.
Trong xu thế giao lưu, mở rộng và hội nhập quốc tế, các tác giả GS.TS.
Nguyễn Trọng Chuẩn và GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên) cuốn sách
Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, do Nhà xuất bản
8
Chính trị quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2002. Cuốn sách là tập hợp những bài
viết của nhiều nhà khoa học, với những góc nhìn khác nhau, cuốn sách đã đề cập
đến nhiều vấn đề cơ bản như: Vấn đề truyền thống, những nguyên nhân tác động
đến truyền thống, những chiều hướng biến đổi và khả năng phát huy những giá
trị truyền thống trong sự giao lưu, đối thoại giữa các nền văn minh trong quá
trình toàn cầu hóa.
GS. Trần Đình Sử trong bài viết Truyền thống dân tộc và tính hiện đại của
truyền thống đăng trên Tạp chí Cộng sản số 15/1996, trong đó mục đích mấu
chốt là khẳng định mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong sáng tác,
tiếp nhận văn học.
Tác giả Lê Hoài Thanh trong luận án Tiến sĩ Quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện
nay (2002), đã đi sâu, làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong sự phát triển đạo đức và trong giáo dục đạo đức; phân tích đặc điểm và
xu hướng biến đổi về đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay và thực trạng
công tác giáo dục đạo đức thanh niên; đề xuất một số giải pháp chủ yếu trong
giáo dục đạo đức cho thanh niên theo hướng kết hợp truyền thống và hiện đại.
GS. Trần Văn Giàu với tác phẩm Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội (1980), là một công trình nghiên cứu
đồ sộ, từ sử học, triết học cho đến đạo đức học, tác giả đã nghiên cứu và đưa ra
những kiến giải sâu sắc về giá trị truyền thống đặc thù của dân tộc Việt Nam và
nêu lên 7 đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt Nam gồm: “Yêu nước, cần cù, anh
hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa” [26; 94]. Các phạm trù này
được trình bày một cách có hệ thống và khoa học và được xem như các giá trị
tinh thần của người Việt Nam.
TS Nguyễn Lương Bằng, Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa và ảnh
hưởng của nó đến sinh viên hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số 4-2006; TS. Đoàn
Minh Duệ, Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống
9
cho thanh thiêu nhi tỉnh Nghệ An; TS. Đinh Thế Định, Những giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục truyền thống cho sinh viên Đại học Vinh; GS Phan Huy
Lê, Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất nước;
Lương Ngọc, Giáo dục truyền thống cho thanh niên; TS Nguyễn Lương Bằng,
Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam hiện nay.
Các công trình nêu trên đã đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh,
dưới những góc độ khác nhau về truyền thống, giáo dục truyền thống cách mạng
cho TN, vị trí và vai trò của TN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm định hướng, giáo dục TN kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống của Đảng, của dân tộc trong điều kiện hội
nhập quốc tế.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu nêu trên mới
chỉ đề cập đến từng mặt, từng khía cạnh dưới nhiều góc độ khác nhau, chưa có
một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu và có hệ thống việc
giáo dục truyền thống cách mạng cho TN thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên những công trình đó đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp tác giả có sự kế thừa, phát triển để hoàn thành tốt luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cách mạng cho TN, góp phần
xây dựng thế hệ TN đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục truyền thống cách
mạng cho TN và tầm quan trọng của việc giáo dục truyền thống cách mạng cho
TN trong giai đoạn hiện nay.
10
Thứ hai, điều tra, khảo sát, đánh giá công tác giáo dục truyền thống cách
mạng cho thanh niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, đề xuất giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về truyền thống cách mạng và công tác giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh
niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục truyền thống cách
mạng cho TN. Ngoài ra, tác giả luận văn có kế thừa các thành tựu của các công
trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau đây:
+ Nghiên cứu thực tế: điều tra thực trạng; điều tra bằng bảng hỏi được thiết
kế sẵn, điều tra bằng phỏng vấn, điều tra bằng nghiên cứu tài liệu, hồ sơ lưu trữ.
+ Sử dụng các phương pháp: thống kê xã hội học, phân tích, so sánh để xử
lý kết quả điều tra, khảo sát.
11
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đề xuất và triển khai được các giải pháp khoa học và có tính khả thi, đề
tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cách mạng đối
với thanh niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
-Về lý luận: Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo
dục truyền thống cách mạng đối với thanh niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay.
-Về thực tiễn: Khảo sát thực trạng đưa ra các giải pháp có tính khoa học và
tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục truyền thống cách
mạng đối với thanh niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện
nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy Đảng, Đoàn thanh
niên, Hội LHTN trong công tác tuyên truyền, giáo dục và rèn luyện thanh niên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục truyền thống cách mạng cho
thanh niên.
Chương 2: Thực trạng giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên thị
xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay.
12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG
CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN
1.1. Truyền thống cách mạng và những truyền thống cách mạng cần giáo
dục cho thanh niên
1.1.1. Truyền thống cách mạng
1.1.1.1. Khái niệm truyền thống
Truyền thống là một khái niệm cho đến ngày nay có nhiều cách diễn đạt
khác nhau về nội hàm và ngoại diên của nó, tùy thuộc vào góc độ, vào đối tượng
từng nghành khoa học mà các tác giả có những cách trình bày khác nhau.
Trong từ điển Trung quốc xuất bản năm 1989 định nghĩa: “Truyền thống là
sức mạnh tập quán xã hội được lưu truyền lại từ lịch sử. Nó tồn tại ở các lĩnh
vực chế độ, văn hóa, đạo đức. Truyền thống có tác dụng khống chế vô hình đến
hành vi xã hội của con người. Truyền thống là biểu hiện tính kế thừa của lịch
sử” [55; 242].
Trong “Bách khoa từ điển Xô-Viết” định nghĩa truyền thống: “ Đó là những
yếu tố di tồn văn hóa, xã hội truyền từ đời này qua đời khác và được lưu giữ
trong các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội trong một quá trình lâu dài. Truyền
thống được thể hiện trong các chế định xã hội, chuẫn mực hành vi, các giá trị, tư
tưởng, phong tục, tập quán và lối sống Truyền thống tác dụng và khống chế
đến mọi xã hội và tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội” [56; 1339].
GS. Vũ Khiêu, tác giả cuốn “Đạo đức mới” đưa ra định nghĩa: “Truyền
thống là những thói quen lâu đời đã được hình thành trong nếp sống, nếp suy
nghĩ và hành động của một dân tộc, một gia đình, một dòng họ, một làng xã,
một tập đoàn lịch sử” [40; 536].
Khi nghiên cứu về “Truyền thống dân tộc và tính hiện đại của truyền
thống” GS.TS. Trần Đình Sử cho rằng: “Truyền thống là mối liên hệ của lịch sử,
13
mà một đầu là những giá trị tư tưởng, văn hóa, được sáng tạo trong quá khứ lịch
sử dân tộc và một đầu là sự thẩm định, xác lập và phát huy của người hiện đại”
[53; 45].
GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng: “Nói đến truyền thống là nói đến
phức hợp những tư tưởng, tình cảm, những tập quán, thói quen, những phong tục,
lối sống, cách ứng xử, ý chí của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch
sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [3; 17].
Như vậy trên cơ sở khai thác nội hàm và ngoại diên của khái niệm “Truyền
thống” các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau trên những
phương diện khác nhau. Song điểm chung nhất ở họ là đều dựa trên thế giới
quan khoa học và phương pháp luận biện chứng để xem xét, qua định nghĩa đó
có thể nhận dạng truyền thống có các đặc trưng sau:
Thứ nhất: Truyền thống là kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con
người trong quá khứ biểu hiện ở tính cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, tập
quán, thói quen trong tư duy
Thứ hai: Truyền thống bao giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng
người đồng thời là bản sắc của cộng đồng người đó.
Thứ ba: Truyền thống được hình thành trong lịch sử do tác động của môi
trường tự nhiên và điều kiện địa lý, do tác động của quá trình lao động sản xuất
và kết cấu kinh tế xã hội, tác động thường xuyên của lịch sử, tác động của môi
trường văn hóa khu vực và trên thế giới.
Thứ tư: Truyền thống có tính kế tục từ lớp người trước sang lớp người sau,
nó ăn sâu vào tâm lý, vào phong tục tập quán, nếp nghỉ của con người. Tuy
nhiên trước và sau không hoàn toàn giống nhau, đồng nhất với nhau nhưng về
căn bản thì không khác biệt.
Như vậy truyền thống có tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền.
Nhưng đặc trưng đó của truyền thống có tính độc lập tương đối, khi những cơ
sở, điều kiện hình thành nên truyền thống đã thay đổi thì sớm hay muộn những
14
nội dung của truyền thống cũng dần dần biến đổi theo cho phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh mới, hay những truyền thống mới được hình thành và phát triển. Cho
nên truyền thống sẽ có tính hai mặt đối lập nhau đó là truyền thống tốt và truyền
thống xấu, hai mặt này luôn luôn tồn tại, mâu thuẫn biện chứng với nhau trong
quá trình lịch sử. Truyền thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền
lại từ lịch sử, nó tồn tại ở các lĩnh vực chế định xã hội, phong tục, chuẫn mực
hành vi, tư tưởng, văn hóa Truyền thống có tác dụng khống chế vô hình đến
hành vi xã hội của con người biểu hiện tính kế thừa của lịch sử.
Truyền thống là mối liên hệ lịch sử giữa quá khứ và hiện tại của các hiện
tượng trong đời sống xã hội như tính cách, phẩm chất, tâm lý, phong cách suy
nghĩ và hoạt động, lối ứng xử, phong tục tập quán Mối liên hệ này mang tính
chất ổn định trường tồn trong sự thay đổi, được số đông thừa nhận và tuân theo,
được truyền lại từ đời này qua đời khác. Như vậy, truyền thống là yếu tố có mặt
trong đời sống của tất cả các dân tộc trên thế giới, trong nhiều lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội, không có một hiện tượng nào, quá trình nào ra đời từ hư vô,
mà nó phải được kế thừa từ những kết quả trước đó.
1.1.1.2. Khái niệm truyền thống cách mạng
Truyền thống cách mạng là một hệ thống những giá trị tốt đẹp, là tinh hoa
và là tài sản vô giá được Đảng đúc kết trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là một nhân tố cấu thành hệ giá trị tinh thần của dân
tộc Việt Nam, có sức sống trường tồn cùng dân tộc, có sức lan tỏa trong cộng
đồng dân cư, đó là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa, trí tuệ của Đảng và của dân tộc.
Nói đến truyền thống cách mạng là nói đến những truyền thống tốt đẹp,
được hình thành và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng, được tôi luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, là giá trị vững bền,
đồng thời là sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam, truyền thống đó là sự kế
thừa trên nền tảng truyền thống của dân tộc.
15
Trên cơ sở kế thừa và phát huy những phẩm chất cách mạng của các bậc
tiền nhân, thông qua giáo dục truyền thống cách mạng giúp các thế hệ mai sau ý
thức được những giá trị đích thực của cuộc sống hiện tại, ý thức được sự hy sinh
quyên mình, quyết tử để tổ quốc quyết sinh của các thế hệ cha anh, để TN hiểu
được ý nghĩa của độc lập và tự do, giúp TN ngày càng yêu quê hương đất nước,
biết sẽ chia, yêu thương và tôn trọng mọi người, tôn trọng quá khứ hào hùng của
dân tộc. Các giá trị truyền thống cách mạng có vai trò to lớn trong việc định
hướng con người hoàn thiện nhân cách để con người sống có trách nhiệm hơn
đối với gia đình, quê hương và tổ quốc. Đồng thời giúp TN ngày càng hoàn
thiện nhân cách trở thành người TN mẫu mực, sống có lý tưởng, ước mơ và hoài
bảo, có niềm tin vào quá trình đổi mới và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp
văn minh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của
các thế lực thù địch nhằm chia rẽ, chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chống phá Đảng, Nhà nước, phá hoại sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Nội dung giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên trong giai
đoạn hiện nay
1.1.2.1. Truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc
Truyền thống yêu nước lòng tự hào dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, yêu nước trở thành một triết lý xã hội
và nhân sinh của người Việt Nam, là giá trị hàng đầu, định hướng các giá trị đạo
đức truyền thống của Việt Nam, đó là một giá trị bền vững của dân tộc Việt
Nam, là tài sản vô giá đã được các bậc tiền nhân và các thế hệ mai sau vun đắp
trong suốt hàng ngàn năm lịch sử của quá trình dựng nước và giữ nước. Dẫu cho
xã hội trãi qua bao biến cố thăng trầm, truyền thống yêu nước lòng tự hào dân
tộc luôn luôn cháy mãi trong tim của mọi người dân yêu nước. Truyền thống
yêu nước, phản ánh những tư tưởng, tình cảm, ý chí và hành động của một quốc
gia, dân tộc, của một giai cấp, một cộng đồng xã hội nhằm bảo vệ nền độc lập tự
16
do, toàn vẹn lãnh thổ và những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà dân tộc và
cộng đồng đó đã tạo nên trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Truyền thống yêu nước được hình thành gắn với nền kinh tế nông nghiệp, trong
trị thủy, trong khai khẩn đất hoang, lập xóm làng và trong quá trình khai thiên
lập địa mở mang bờ cõi. Chính nền tảng là quê hương xứ sở đã vun đúc nên
truyền thống yêu nước lòng tự hào dân tộc, truyền thống đó càng được thể hiện
khi có núi sông bở cõi, yêu nước gắn liền với yêu quê hương xứ sở, yêu bờ cõi,
yêu bản sắc văn hóa bốn ngàn năm của tiên tổ. Chính vì vậy Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đúc kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sôi nỗi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
[31; 171]. Lịch sử dân tộc ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh
thần yêu nước của nhân dân ta, chúng ta tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang
thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung cho đến các
chí sĩ cách mạng thời cận đại và Hồ Chí Minh, các thế hệ cha anh không tiếc
máu xương của mình để vẽ nên hình hài đất nước, quyết tử để tổ quốc quyết
sinh, “Thà chết tự do hơn sống nô lệ” [29; 35], “Chúng ta đã thề thà chết chứ
không làm nô lệ” [30; 29]. Truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc được
thể hiện qua các thời đại ở tinh thần xã thân cứu nước mỗi khi đất nước bị xâm
lăng, đô hộ, ở ý chí quật cường của cả một dân tộc không chỉ biết bảo vệ tổ quốc
mà còn biết bồi đắp cho đất nước thành non sông gấm vóc với những con đê dài
rộng đến hàng ngàn vạn cây số, với những con kênh chạy suốt từ bắc vào nam,
những cánh đồng phì nhiêu từ cột cờ Lũng Cú ở cực bắc đến đất mũi Cà Mau ở
cực nam, những bờ biển dài, đẹp và dòng sông trù phú Việt Nam là một quốc
gia đất không rộng người không đông, địa hình phân hóa đa dạng và có sự khác
biệt về các vùng, miền núi, trung du và đồng bằng ven biển, với khí hậu nhiệt
đới gió mùa nắng lắm mưa nhiều, độ ẩm trong không khí cao, đó là điều kiện
17
thuận lợi cho lối nông nghiệp lúa nước. Đồng thời lại án ngữ vị trí địa chính trị
cực kỳ quan trong, là nơi giao nhau giữa Đông và Tây, tài nguyên thiên nhiên
phong phú và đa dạng, nên trong suốt hàng ngàn năm lịch sử dân tộc, các thế hệ
cha ông ta đã phải đương đầu với kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần, chính trong
thời gian lịch sử ấy, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc lại mạnh mẽ
hơn bao giờ hết, tinh thần đoàn kết và lòng quả cảm đã giúp dân tộc ta chiến
thắng mọi kẻ thù hung bạo, tàn ác, giang sơn gấm vóc thu về một mối. Mỗi
người dân mang trong mình dòng máu Lạc Hồng đều giữ vững lòng yêu nước
trong mọi hoàn cảnh, đều chung lưng đấu cật trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã tạo nên một mốc son chói lọi của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đó là của quý đựng
trong rương hòm mà cần phải trưng bày để mọi người dân Việt Nam đều tự hào
và hành động theo tiếng gọi bất diệt của nó. Trong buổi nói chuyện với cán bộ
Đại đoàn Quân Tiên Phong (Sư đoàn 308 ngày nay), tại Đền Hùng tỉnh Phú Thọ
trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn “Các
vua hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, đó
là lời căn dặn của vị Cha già dân tộc đối với con cháu trước anh linh quốc tổ đã
thôi thúc thế hệ trẻ đi theo tiếng gọi bất diệt của tổ quốc. Theo Giáo sư Trần Văn
Giàu “Yêu nước là một tình cảm và tư tưởng phổ biến, dân tộc nào cũng có
riêng gì Việt Nam, vậy nói rằng yêu nước là một tình cảm và tư tưởng lớn nhất,
quán thông cổ kim của dân tộc Việt Nam, phải chăng là nêu lên một chân lý
không cần nói ai cũng biết, phải chăng là dành về ta một đức tính phổ biến mà
cuộc sống rộng lượng ban cho bất kì một quốc gia dân tộc nào”. “Quả thật yêu
nước là một tình cảm và tư tưởng tự nhiên phổ biến, chim luyến tổ, cá quen
đồng, người sao không yêu quê hương, quê hương nhỏ là bản làng, nơi đó có
cha mẹ, anh chị em, mồ mả tổ tông, quê hương lớn là nước nhà, ở đó có tất cả
đồng bào cùng tiếng nói, phong tục, có đồng rộng sông dài, đủ làm nơi sinh tụ
18
cho giống nòi ta, quê hương lớn cũng gọi là Tổ quốc, người Việt Nam yêu nước
Việt Nam cho dù nước nhà cỏ cháy, đồng khô” [26; 102].
Là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam,
nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, khi các thế lực thù địch ra sức phô diễn sức mạnh
quân sự, sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, hòng làm thay đổi hiện trạng
quốc gia, nhất là vấn đề chủ quyền biển đảo, do vậy hơn ai hết bản thân mỗi
người dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ phải có trái tim nóng và cái đầu lạnh, tỉnh
táo, biểu thị lòng yêu nước đúng cách, tránh để các thế lực thù địch lợi dụng
lòng yêu nước gây mất ổn định chính trị và phá hoại nền kinh tế quốc gia. Dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời chiến hay thời bình, dòng máu Lạc Hồng luôn
chảy mãi trong tim người dân đất Việt, mỗi khi chủ quyền thiêng liêng của tổ
quốc bị đe dọa thì lòng yêu nước lại sôi sục, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
truyền thống yêu nước lòng tự hào dân tộc được Đảng kế thừa và phát triển lên
tầm cao mới phù hợp với yêu cầu của xã hội mới, yêu nước là kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân
dân, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của
Nhà nước, yêu nước gắn liền với tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương, sẵn
sàng đem tài năng và sức khỏe để phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, yêu
nước còn thể hiện ở ý chí tự lực, tự cường, quyết không cam chịu đói nghèo, lạc
hậu, hăng hái thi đua trong lao động, học tập góp phần tích cực vào sự nghiệp
CNH, HĐH do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, yêu nước là tăng cường mở rộng
và cũng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống chia rẽ nội bộ, kiên quyết đập
tan mọi âm mưu và thủ đoạn chống phá của kẻ thù nhằm thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
19
1.1.2.2. Tinh thần đoàn kết, ý thức tập thể, tương thân tương ái, phấn đấu vì lợi
ích chung
Trãi qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, triết lý nhân sinh
và hành động của con người Việt Nam được đúc kết thành chân lý: “Nhiễu điều
phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng” [34; 321]; “Bầu
ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Hay “Một
cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tinh thần đoàn kết
phải được xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích, lấy nhiệm vụ chấn
hưng và phát triển đất nước làm điểm tương đồng, quy tụ sức mạnh của từng cá
nhân, tập thể và cả cộng đồng trong nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước. Truyền thống đó là một trong những động lực to lớn giúp dân tộc ta dành
được nhiều kỳ tích trong các cuộc chiến đấu chống thiên tai, dịch bệnh.
Cùng với chiều dài lịch sử đất nước, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc ngày
càng được bồi đắp và phát huy, trở thành một trong những giá trị tinh thần
truyền thống thiêng liêng, cao quý của dân tộc. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết
tạo ra sức mạnh, nhờ tinh thần đoàn mà cha ông ta đã xây dựng và bảo vệ được
đất nước trước nguy cơ xâm lăng của kẻ thù, trước sự đồng hóa của phong kiến
phương bắc, đoàn kết trong trị thủy, đoàn kết trong xây dựng và phát triển đất
nước. Đến nữa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam phải đương đầu
với kẻ thù là chủ nghĩa thực dân phương tây, đứng trước một cuộc chiến không
cân xứng, dân tộc Việt Nam đã biết khơi nguồn sức mạnh từ chủ nghĩa yêu nước
chân chính và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân đứng lên đánh đuổi
giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi gian sơn.
Trong thời đại Hồ Chí Minh đã nâng truyền thống đại đoàn kết dân tộc lên
một tầm cao mới, một chất mới. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, nó mang
một sức mạnh mới làm nên chiến thắng hào hùng của dân tộc. Để tăng cường
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng biên độ
khái niệm quần chúng đến tất cả những ai cùng gốc tích Việt Nam, người chung
20
một nước, con Rồng cháu Tiên, tiếng gọi “đồng bào” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh thiêng liêng mà gần gũi, là điểm quy tụ, mẫu số chung của toàn dân tộc.
Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa II, ngày 8/12/1956 Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [33; 276]. Sức mạnh
đoàn kết đó là lẽ sinh tồn của dân tộc, là một chân lý lớn của thời đại. Chính nhờ
sức mạnh đoàn kết của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc
kháng chiến toàn dân, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, cùng chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân, là pho tượng sống của một nhân cách
mới, thông qua cuộc sống bình dị làm toát lên những phẩm chất cao quý và
thiêng liêng. Người thương con người một cách chân thành, không giới hạn
tiếng nói màu da. Người quan tâm đến mọi người ở trong nước cũng như ở
ngoài nước, triết lý của người là lòng khoan dung độ lượng, truyền thống đó lại
được nhân lên khi đất có thiên tai, lũ lụt, hay hoạn nạn, thể hiện tình thương yêu
đồng loại, tinh thần giúp đỡ nhau trong khó khăn, hết lòng hết sức giúp đỡ nhau
trong mọi hoàn cảnh, thể hiện lòng vị tha cao thượng, trên tất cả là tình thương,
tình người và tình đồng loại, dẫu cho người đó lầm đường lỡ bước sa ngã vào
những cạm bẫy của cuộc đời, tinh thần đoàn kết, ý thức tập thể, tương thân
tương ái là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Trong thư gửi đồng bào Nam bộ,
6/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ
và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều
họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu người cũng có người thế này thế
khác, nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít
hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy
21
tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết
thì tương lai chắc chắc sẽ vẻ vang” [29; 574-575].
Tiếp nối truyền thống của dân tộc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh đậm nét trong chữ “đồng”:
“Dân ta xin nhớ chữ “đồng”
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” [52; 288].
Đại đoàn kết toàn dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là động lực nội sinh
có ý nghĩa quyết định, nhưng Người rất quan tâm tới đại đoàn kết quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trước kia ông cha mình đoàn kết
để đắp đê làm thủy lợi, khi có chiến tranh thì đoàn kết toàn dân tộc đấu tranh
chống ngoại xâm bảo vệ biên cương Tổ quốc, ngày nay truyền thống đó lại được
nhân lên gấp bội trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đó là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt trong tiến trình lịch sử của dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức tập
thể và yêu thương lại được kế thừa và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu và
nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn viết: “Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta” [36; 516]. Đoàn kết trong
Đảng, đoàn kết trong nhân dân và đoàn kết quốc tế, đoàn kết trong Đảng là hạt
nhân để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong học tập, trong lao động
sản xuất, đoàn kết vì một mục đích chung là phấn đấu đưa đất nước Việt Nam
trở thành hùng cường và thịnh vượng theo như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tinh thần đó đã trở thành điểm tựa vững chắc, một động lực mạnh mẽ
trong sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc. Vận dụng tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là đại hội
của “Trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc: “Kế thừa truyền thống quí báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn
sức mạnh và động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [18; 44].
22
Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định:
“Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm,
định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung Để tập hợp đoàn kết mọi người vào mặt trận chung,
tăng cường đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải
quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong
Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân”
[24; 239-240].
Trong xu thế hội nhập sâu vào quá trình toàn cầu hóa quốc tế, đảm bảo
quyền và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Văn kiện lần thứ XI của Đảng khẳng
định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” [24; 83-84].
1.1.2.3. Yêu lao động, phát huy truyền thống hiếu học, cần cù và sáng tạo
Yêu lao động, hiếu học, cần cù và sáng tạo là một truyền thống cực kỳ quý
báu của dân tộc Việt Nam, xuyên suốt trong tiến trình phát triển của đất nước.
Truyền thống đó thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc họa
nét đặc trưng tiêu biểu của con người Việt Nam trong suốt chiếu dài của lịch sử
đất nước.
Đức tính yêu lao động, cần cù và sáng tạo là một giá trị đạo đức nỗi bật
trong hệ giá trị đạo đức có từ bao đời nay của dân tộc ta. Để làm ra của cải vật
23
chất nuôi sống xã hội thì bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng phải lao động, và yếu
tố đầu tiên để thu được thành tựu là phải cần cù, chịu khó, khôn ngoan và sáng
tạo. Chính lao động và nhờ lao động mà vượn biến thành người. Ph.Ăngghen đã
khẳng định rằng: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài
vật là ở chổ: loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản
xuất” [46; 241]. Bất kỳ một quốc gia dân tộc nào muốn phát triển giàu mạnh
không thể không lao động sản xuất, lao động càng phát triển, sự phân công lao
động càng sâu sắc, giúp con người biến đổi tự nhiên theo nhu cầu của mình.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Lao động là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng
ta phải nói lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [47; 641]. Do vậy, lao
động là bản chất đặc trưng cố hữu của loài người và trải qua các giai đoạn lịch
sử xã hội loài người đã làm đa dạng, phong phú cả hình thức lao động lẫn
phương tiện lao động.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao
động sản xuất để tạo ra của cải nuôi sống chính bản thân mình, lao động của dân
cư Việt Nam có đặc trưng riêng, vì là nên nông nghiệp lúa nước nên phụ thuộc
rất niều vào điều kiện tự nhiên. Từ xa xưa ông cha ta đã can đảm vật lộn với
điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt để kiếm miếng cơm manh áo, để duy trì cuộc
sống của chính bản thân mình, vừa trồng trọt và chăn nuôi, vừa bám đất, bám
làng, đánh giặc và giữ nước, chính trong giai đoạn đó, những phẩm chất cần cù
và tiết kiệm đã thôi thúc con người tồn tại và phát triển. Nhờ siêng năng trong
lao động sản xuất, cần cù vượt khó, sáng tạo, mà ông cha ta đã xây dựng được
cái nôi dân tộc từ châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã tạo thành nơi
sinh sống của giống nòi, từ khai hoang, đắp đập, lấn biển, dựng làng đến dựng
nước và giữ nước. Đức tính này được thể hiện bằng những câu ca dao tục ngữ,
mà nhân dân ta đã ca tụng:
24
“Mặt trời sắp lé rạng đông
Anh ơi thức dậy ra đồng kẻo trưa
Cơm ăn bao quản muối dưa
Việc làm bao quản nắng mưa dãi dầu” [26; 153].
Để có bát cơm manh áo, người nông dân phải một nắng hai sương, bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời, hình ảnh nói lên sự vất vả của người nông dân còn
đó: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Đức tính
cần cù gắn liền với tiết kiệm, nên tổ tiên thường nhắc con cháu: “Được mùa chớ
phụ ngô khoai, đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”, hay “Khi có mà không ăn de,
đến khi ăn hết thì dè chẵng ra”, và đưa ra kinh nghiệm: “Buôn tàu buôn bè
không bằng ăn dè lỗ miệng”.
Nhà thơ Hoàng Trung Thông có câu:“Bàn tay ta làm nên tất cả, có sức
người sỏi đá cũng thành cơm”. Trong lúc đó khí hậu là nắng lắm, mưa nhiều,
nên sẽ rất bất lợi trong lối canh tác truyền thống, kèm theo các hiện tượng thiên
nhiên cực đoan như lốc, lũ lụt, hạn hán Chính do điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt như thế buộc con người không ngừng lao động và sản xuất, cải tạo thiên
nhiên, chính vì vậy lao động không chỉ là mục đích của cuộc sống mà xa hơn
nữa là duy trì giống nòi. Việt Nam có vị trí địa chính trị rất quan trọng nên đất
nước phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, chính trong giai
đoạn lịch sử đó, tinh thần lao động không chỉ để nuôi sống xã hội mà còn là biểu
hiện của tinh thần yêu nước với khẩu hiệu: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách
thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập” [29; 122]. Chính điều
đó đã làm cho đức tính cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất ngày càng trở
thành một giá trị tiêu biểu. Truyền thống đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu
có kế thừa và chọn lọc nhằm phù hợp với nhiệm vụ xây dựng đất nước trong
thời kì mới: “Cần cù đi đôi với tiết kiệm”. Đây là phẩm chất đáng quý của con
người Việt Nam của quá khứ cũng như hiện tại, cần cù, sáng tạo trong lao động
25