Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Nghiên cứu một số liều lượng phân bón thích hợp cho một số giống ngô trồng phổ biến tại ba bể, bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 135 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HÀ THỊ HINH
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ LIỀU LƯỢNG
PHÂN BÓN THÍCH HỢP CHO MỘT SỐ GIỐNG
NGÔ TRỒNG PHỔ BIẾN TẠI BA BỂ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Thái Nguyên, 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HÀ THỊ HINH
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ LIỀU LƯỢNG
PHÂN BÓN THÍCH HỢP CHO MỘT SỐ GIỐNG
NGÔ TRỒNG PHỔ BIẾN TẠI BA BỂ
Ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60.62.01.10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Hồng
Thái Nguyên, 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực, đầy đủ, rõ nguồn gốc và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị
nào. Các thông tin, tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn này đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn, trước phòng quản
lý sau đại học và nhà trường về các thông tin, số liệu trong đề tài.
Thái Nguyên,ngày 21 tháng 11 năm 2014
Tác giả
Hà Thị Hinh
ii


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành bản luận văn, tôi luôn
nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, khoa Sau Đại học
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng các tập thể, cá nhân và gia đình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn: PGS.TS. Nguyễn Hữu Hồng, giảng viên khoa
Nông học, giảng viên khoa sau Đại học, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
đã trực tiếp hướng dẫn tận tình tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài này.
Và cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè, và đồng
nghiệp, những ngươi luôn động viên giúp đỡ trong suốt thời gian tôi học tập và
nghiên cứu vừa qua.
Thái Nguyên,ngày 21 tháng 11 năm 2014
Tác giả
Hà Thị Hinh
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CỤM, TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ viii
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Yêu cầu của đề tài 3
4. Ý nghĩa của đề tài 3
4.1. Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học 3
4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4

1.2. Tình hình sản xuất ngô trên Thế giới và Việt Nam 5
1.2.1.Tình hình sản xuất ngô trên Thế giới 5
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 7
1.2.3.Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn 9
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô của huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn 10
1.3. Dinh dưỡng của cây ngô 12
1.3.1. Các nguyên tố dinh dưỡng và nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô 12
1.3.2. Nhịp độ tạo chất khô và hấp thụ một số dinh dưỡng chính. 13
1.4. Ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến quá trình hút khoáng 16
1.4.1. Không khí trong đất 16
1.4.2. Nồng độ các chất tan trong đất 16
1.4.3. Độ chua của môi trường 17
1.5. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên Thế giới và ở Việt Nam 17
1.5.1. Nhu cầu về phân bón của cây ngô 17
1.5.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho ngô trên Thế giới 18
iv
1.5.3. Tình hình nghiên cứu về phân bón cho ngô ở Việt Nam 20
1.6. Kết luận rút ra từ tổng quan tài liệu 24
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 25
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu: 25
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 26
2.3. Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 26
2.3.1. Nội dung nghiên cứu 26
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu 26
2.3.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm 26
2.3.4. Quy trình kỹ Thuật 28
2.3.5. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi, đánh giá 29
2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu 32

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 33
3.1. Khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống ngô thí nghiệm vụ Đông 2013
và vụ Xuân 2014 33
3.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến khả năng sinh trưởng và phát triển
của một số giống ngô thí nghiệm vụ Đông 2013 và vụ Xuân 2014 tại Ba Bể 33
3.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến một số đặc điểm hình thái, sinh lý
của một số giống ngô lai thí nghiệm 38
3.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến chiều cao cây và chiều cao đóng bắp
của một số giống ngô lai thí nghiệm 38
3.1.3. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến khả năng chống chịu của một số
giống ngô thí nghiệm 44
3.1.4. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của một số giống ngô lai thí nghiệm 49
3.5. Hiệu quả kinh tế của các công thức thí nghiệm đối với 4 giống ngô trồng phổ
biến tại dịa phương vụ Đông, vụ Xuân năm 2013 - 2014 tại Ba Bể 61
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 63
v
DANH MỤC CÁC CỤM, TỪ VIẾT TẮT
CSDTL
: Chỉ số diện tích lá
CT
: Công thức
ĐC
: Đối chứng
CV(%)
: Hệ số biến động
ĐHNL
: Đại học Nông Lâm
ĐVT
: Đơn vị tính

A, B, C, D
: NK66, NK4300, C919, CP999
LSD
0.05
: Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa 95%
NSLT
: Năng suất lý thuyết
NSTT
: Năng suất thực thu
TB
: Trung bình
TG
: Thời gian
TGST
: Thời gian sinh trưởng
VĐ 2013
: Vụ Đông 2013
VX 2014
: Vụ Xuân 2014
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Sản xuất ngô Thế giới giai đoạn 1961 - 2013 6
Bảng 1.2. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn năm 1975 - 2013 8
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn năm 2008 - 2012 10
Bảng 1.4. Tình hình sản xuất ngô tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn năm 2008 - 2012 11
Bảng 1.5: Lượng dinh dưỡng cây lấy đi từ đất để đạt được 10 tấn/ha 18
Bảng 1.6. Lượng dinh dưỡng của cây ngô ở các thời kỳ sinh trưởng 18
Bảng 1.7. Nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô trong giai đoạn sinh trưởng (%) 20
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến thời gian sinh trưởng
qua các thời kỳ phát dục của giống ngô thí nghiệm, vụ Đông năm 2013 34

Bảng 3.2. Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến thời gian sinh trưởng qua
các thời kỳ phát dục của giống ngô thí nghiệm, vụ Xuân năm 2014 34
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến tốc độ tăng trưởng
chiều cao cây của giống ngô thí nghiệm, vụ Đông năm 2013 37
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến tốc độ tăng
trưởngchiều cao cây của giống ngô thí nghiệm, Vụ Xuân năm 2014 37
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bó đến chiều cao cây và chiều
cao đóng bắp của 4 giống ngô thí nghiệm vụ Đông năm 2013 39
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến chiều cao cây và
chiều cao đóng bắp của 4 giống ngô thí nghiệm vụ Xuân năm 2014 39
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến số lá và chỉ số diện
tích lá của 4 giống ngô thí nghiệm vụ Đông, năm 2013 41
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến số lá và chỉ số diện
tích lá của 4 giống ngô thí nghiệm vụ Xuân, năm 2014 42
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến đổ rễ và gẫy thân của
giống ngô thí nghiệm vụ Đông, năm 2013 44
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến đổ rễ và gẫy thân của
giống ngô thí nghiệm vụ Xuân, năm 2014 44
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm vụ Đông 47
Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân 47
vii
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến chiều dài bắp và đường
kính bắp của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Đông năm 2013 49
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến chiều dài bắp và đường
kính bắp của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Xuân năm 2014 50
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến số bắp/cây và số hàng
Hạt/bắp của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Đông, năm 2013 52
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến số bắp/cây và số hàng
Hạt/bắp của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Xuân, năm 2014 52
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến số hạt/hàng và khối lượng

1.000 hạt của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Đông năm 2013 54
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến số Hạt/hàng và khối lượng
1000 Hạt của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Xuân năm 2014 54
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến năng suất lý thuyết của
4 giống ngô lai thí nghiệm vụ Đông, vụ Xuân năm 2013 - 2014 56
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của các liều lượng phân bón đến năng suất thực thu của
4 giống ngô lai thí nghiệm vụ Đông,vụ Xuân năm 2013- 2014 57
Bảng 3.21: So sánh năng suất thực của các công thức phân bón khác nhau đối
với 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Đông năm 2013 58
Bảng 3.22: So sánh năng suất thực của các công thức phân bón khác nhau đối
với 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ Xuân năm 2014 59
Bảng 3.23. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng phân bón qua các công thức thí
nghiệm, vụ Đông, năm 2013 61
Bảng 3.24. Hiệu quả kinh tế của các liều lượng phân bón qua các công thức thí
nghiệm, vụ Xuân, năm 2014 62
viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Năng suất thực thu của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ
Đông qua các công thức phân bón khác nhau. 60
Biểu đồ 3.2: Năng suất thực thu của 4 giống ngô tham gia thí nghiệm vụ
Xuân năm 2014 qua các công thức phân bón khác nhau 60
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây ngô (Zea mays L.) là một trong ba cây lương thực quan trọng của loài
người và là nguồn thức ăn cho gia súc, làm thực phẩm, cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến, làm hàng hóa xuất khẩu. Với vai trò làm lương thực cho
người (17% tồng sản lượng) ngô được sừ dụng để nuôi sống 1/3 dân số toàn cầu,
trong đó các nước ở Trung Mỹ, Nam Mỹ và Châu Phi sử dụng ngô làm lương thực
chính như: các nước Đông Nam Phi sử dụng 72% sản lượng ngô làm lương thực,

Tây Trung Phi 66%, Bắc Phi 45%, Tây Á 23%, Nam Á 75%, Đông Nam Á và Thái
Bình Dương 43% (Ngô Hữu Tình, 2003)[25]. cộng với đặc tính nông sinh học quý
như: thích ứng rộng, chống chịu tốt với các điều kiện bất Thuận, hiệu suất quang
hợp lớn có tiềm năng năng suất cao nên cây ngô đã được trồng ở nhiều Quốc gia
trên Thế giới.
Sở dĩ nhu cầu sử dụng ngô ngày càng tăng ở nhiều Quốc gia vì diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị Thu hẹp, dân số ngày càng tăng nhanh nên ngành chăn nuôi cũng
phát triển, nhu cầu về thức ăn gia súc đang hết sức cấp bách trên toàn cầu.
Ngoài chức năng làm lương thực cho người và thức ăn cho chăn nuôi thì ngô
còn là nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế
biến. Từ ngô người ta sản xuất ra được 670 mặt hàng khác nhau của các ngành
lương thực thực phẩm, công nghiệp dược và công nghiệp nhẹ. Do ngô có giá trị
dinh dưỡng cao: hàm lượng Prôtêin (10%) nên trong ngành chế biến hiện nay
người ta đã dùng ngô để sản xuất bánh kẹo. Mặt khác ngô còn được dùng làm thực
phẩm (ngô bao tử). Nghề trồng ngô rau đang ngày càng phát triển ở nhiều nước
như: Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam,…
Ở Việt Nam ngành trồng ngô chỉ thực sự có những bước tiến nhảy vọt từ
những năm 1990 đến nay, đồng thời với việc không ngừng mở rộng diện tích ngô
lai, các biện pháp kỹ Thuật canh tác tiên tiến đã được áp dụng trong sản xuất. Ngô
là cây lương thực có vị trí quan trọng được trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau,
2
trong những năm gần đây sản xuất ngô phát triển rất nhanh chóng. Theo thống kê
2010 diện tích trồng ngô cả nước là 1.126,9 nghìn ha, năng suất đạt 40,9 tạ/ha và
sản lượng đạt 4.606,8 nghìn tấn (Tổng cục thống kê, tháng 7, 2012) [28].
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc, phía
Nam giáp Thái Nguyên, phía Bắc giáp Cao Bằng, phía Đông giáp Lạng Sơn, phía
Tây giáp Tuyên Quang. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 485.721 ha, trong đó đất
nông nghiệp có 30.509ha, gồm 7 huyện, 1 thị xã với 122 xã, phường, thị trấn, nhiều
dân tộc anh em sinh sống gồm: Kinh, Tày, Dao, Mông,…trong đó có tới 90% dân
số tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nên cũng có nhiều lợi thế để phát

triển sản xuất ngô. Trong những năm qua tỉnh luôn chú trọng tập trung đầu tư, phát
triển nông lâm nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất ngô ngoài việc mở rộng diện tích cần thay đổi
cơ cấu giống, đặc biệt là mở rộng diện tích trồng các giống ngô lai, sử dụng phân
bón cân đối và hợp lý và áp dụng đồng bộ những biện pháp kỹ thuật thâm canh
cùng với các chính sách phù hợp. Do vậy, để nâng cao hiệu quả của việc bón phân
cho ngô thì việc xác định liều lượng phân bón cho ngô sẽ giúp cho cây ngô sinh
trưởng, phát triển tốt cho năng suất cao.
Xuất phát từ thực tế trên, sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường và Ban chủ
nhiệm khoa Nông học, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu một số
liều lượng phân bón thích hợp cho một số giống ngô trồng phổ biến tại Ba Bể”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng phân bón đến sinh trưởng, phát
triển và năng suất của 4 giống ngô lai thí nghiệm.
- Nghiên cứu khả năng chống chịu sâu bệnh và khả năng chống đổ của 4 giống
ngô ở các liều lượng phân bón khác nhau.
- Xác định được công thức phân bón thích hợp nhất cho 4 giống ngô thí
nghiệm trồng phổ biến tại địa phương, nhằm nâng cao năng suất ngô, nâng cao hiệu
quả sử dụng phân bón
3
3. Yêu cầu của đề tài
- Theo dõi đặc điểm nông sinh học, khả năng chống chịu sâu, bệnh của một số
giống ngô lai thí nghiệm.
- Đánh giá ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến các yếu tố cấu thành năng suất của
một số giống ngô lai thí nghiệm trồng phổ biến tại địa phương.
4. Ý nghĩa của đề tài
4.1. Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho công tác lựa chọn công thức phân bón thích
hợp nhất cho từng giống ngô được trồng phổ biến tại huyện Ba Bể và tỉnh Bắc Kạn.
Từ đó giúp nâng cao năng suất cây trồng; giảm chi phí sản xuất; bảo vệ môi trường sống.

- Nắm rõ hơn về quy trình sản xuất ngô và áp dụng các tiến bộ kỹ Thuật mới
vào sản xuất.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Hiện nay, các giống ngô lai đang là lựa chọn của nhiều hộ nông dân tại tỉnh
Bắc Kạn nói chung và huyện Ba Bể nói riêng. Kết quả của đề tài bước đầu xác định
được liều lượng phân bón thích hợp nhất để các giống ngô lai trồng phổ biến phát
huy được tiềm năng, năng suất, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế sản suất ngô tại
huyện Ba Bể và tỉnh Bắc Kan, góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm chi phí, tăng
Thu nhập cho các hộ nông dân vùng miền núi.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Ở Việt Nam, nông nghiệp - nông thôn - nông dân có vị trí rất quan trọng. Hiện
nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển của nông nghiệp, nông
thôn và đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn để đẩy nhanh sự phát triển
của khu vực này. Trải qua các giai đoạn phát triển, nông dân, nông nghiệp và nông
thôn đã có những đóng góp tạo nên những thành tựu lớn trong công cuộc đổi mới.
Cho đến nay, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển tương đối toàn diện, tăng
trưởng khá, quan hệ sản xuất từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của
nền nông nghiệp hàng hoá. Những thành tựu đó đã góp phần rất quan trọng vào sự
ổn định kinh tế - xã hội, tạo tiền đề đầy nhanh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước. Đóng góp một phần không nhỏ đối với sự phát triển đó là hệ thống các cây
lương thực, trong đó có cây ngô. Tuy hiện nay cây lúa vẫn đang giữ vị trí đứng đầu
về sản lượng cũng như tầm quan trọng nhưng với khả năng phát triển trong tương
lai, cây ngô đã từng bước tự khẳng định được mình.
Ngô là cây trồng quang hợp theo chu trình C4, có tiềm năng năng suất cao mà
không một cây ngũ cốc nào có thể so sánh được. Để nâng cao hiệu quả trong sản
xuất nông nghiệp nói chung và khai thác triệt để vị trí, vai trò của cây ngô nói riêng,
công tác lai tạo những giống ngô mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng

rộng là một yêu cầu cấp thiết. Trong đó yếu tố giống có vai trò hết sức quan trọng
đối với việc nâng cao năng suất và sản lượng ngô.
Bên cạnh việc sử dụng các gống ngô lai thì việc xác định được liều lượng
phân bón thích hợp nhất của cây cũng rất quan trọng giúp cây trồng phát huy được
năng suất tối đa của mình. Để xác định được liều lượng phân bón thích hợp nhất
qua các giai đoạn phát triển của cây cho hiệu quả cao nhất đối với 4 giống ngô lai
5
thí nghiệm trồng phổ biến tại địa phương, góp phần làm giảm chi phí đầu tư, tăng
năng suất, sản lượng ngô huyện Ba Bể cũng như tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã tiến
hành: “Nghiên cứu một số các liều lượng phân bón thích hợp cho một số giống
ngô trồng phổ biến tại huyện Ba Bể”.
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam
1.2.1.Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Do có nền di
truyền rộng và thích ứng với nhiều vùng sinh thái khác nhau nên cây ngô được
trồng ở hầu hết các nước trên Thế giới. Hiện nay trên Thế giới có khoảng 140 nước
trồng ngô, trong đó có 38 nước là các nước phát triển còn lại là các nước đang phát
triển (Báo cáo tổng kết 29 của ISAAA) [2]. Tổng diện tích trồng ngô năm 2009 lên
đến 159,53 triệu ha, năng suất 5,12 tấn/ha và sản lượng 817,11 triệu tấn một năm
(FAOSTAT, 2010) [40].
Ngô được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực như: làm lương thực, thực phẩm,
thức ăn cho gia súc, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến, Hiện nay
ngô còn là nguồn nguyên liệu quan trọng trong sản xuất năng lượng sinh học
(ethanol). Đây được coi là giải pháp cho sự thiếu hụt năng lượng trong tương lai. Ở
Mỹ, trên 90% ethanol được sản xuất từ ngô với hơn 2680 nhà máy. Trung Quốc
cũng đang tập trung đầu tư xây dựng nhiều cơ sở nghiên cứu về nguồn năng lượng
sinh học này với mục tiêu tăng sản xuất ethanol nhiên liệu sẽ tăng lên 2 tỷ lít vào
năm 2010 và 10 tỷ lít vào năm 2020 (Ngô Sơn, 2007) [21]. Để cung cấp nguyên liệu
cho sản xuất ethanol, các nhà khoa học thuộc Đại học bang Michigan (Mỹ) đã tạo ra
một số giống ngô mới chuyên sản xuất ethanol, giống ngô mới này cho phép tạo ra

sản phẩm ethanol hiệu quả hơn và mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Nhờ những tiến bộ
trong nghiên cứu và sản xuất mà năng suất, sản lượng và diện tích ngô trên Thế giới
tăng lên liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay.
Kết quả được thể hiện qua bảng 1.1.
6
Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2013
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1961
105,48
19,4
205.00
2004
147,47
49,48
729,21
2005
147,44
48,42
713,91
2006
148,61
47,53
706,31
2007

158,61
49,69
788,11
2008
161,01
51,09
822,71
2009
155,7
51,9
809,02
2010
161,91
52,15
844,41
2011
170,39
51,85
883,46
2012
178,55
48,88
872,79
2013
184,19
55,20
1.016,73
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT, 9/2014) [42]
Qua bảng số liệu trên cho thấy, năm 1961, năng suất ngô trung bình của
Thế giới chỉ đạt sấp xỉ 20 tạ/ha nhưng đến năm 2004 năng suất ngô trên Thế giới đã

đạt 49,48 tạ/ha. Năm 2010, diện tích trồng ngô gieo trồng với 161,91 triệu ha, năng
suất đạt 52,15 tạ/ha và sản lượng đạt 844,41 triệu tấn. Trong khi đó, diện tích trồng
lúa nước năm 1961 là 115, 3 triệu ha, năng suất 19 tạ /ha, sản lượng 215,3 triệu tấn.
Năm 2010, diện tích 153,65 triệu ha, năng suất đạt 43,74 tạ/ha, sản lượng đạt 672,0
triệu tấn. Diện tích trồng lúa mỳ năm 1961 đạt 200,9 triệu ha, năng suất đạt 11tạ/ha,
sản lượng Thu được 219,22 triệu tấn. Năm 2010, diện tích 222,39 triệu ha, năng
suất 29,1 tạ/ha, sản lượng đạt 684,21 triệu tấn, năm 2012 năng suất ngô giảm (48,88
tạ/ha) do sự biến đổi khí hậu, nhiều vùng trồng ngô bị hạn hán làm ảnh hưởng đến
năng suất, đến năm 2013 năng suất tăng đạt 55,2 tạ/ha. Do diện tích và năng suất
tăng nên sản lượng ngô 5 năm gần đây tăng lên đạt 1.016,73 triệu tấn (năm 2013).
(FAOSTAT, 9/2014)[42]. Như vậy, trong những năm qua, lúa nước, lúa mỳ và ngô
vẫn là những cây trồng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp.
Có được kết quả trên, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý Thuyết ưu thế lai
trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ Thuật canh
7
tác. Đặc biệt, từ năm 1996 đến nay, cùng với những thành tựu mới trong chọn tạo
giống ngô lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học thì
việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác cây ngô đã góp phần đưa sản lượng
ngô Thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước.
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở nước ta, ngô là cây trồng nhập nội được đưa vào Việt Nam khoảng 300 năm
trước và đã trở thành một trong những cây trồng quan trọng trong hệ thống cây
lương thực Quốc gia (Ngô Hữu Tình và cộng sự, 1997)[22]. Cây ngô đã khẳng định
vị trí trong sản xuất nông nghiệp và trở thành cây lương thực quan trọng đứng thứ
hai sau cây lúa đồng thời là cây màu số một, góp phần đáng kể trong việc giải quyết
lương thực tại chỗ cho người dân Việt Nam, nhờ những đặc tính sinh học ưu việt
như khả năng thích ứng rộng, chịu thâm canh, đứng đầu về năng suất, trồng được ở
nhiều vùng sinh thái và ở các vụ khác nhau trong năm, từ đó diện tích trồng ngô
nhanh chóng được mở rộng ra khắp cả nước, đặc biệt là các vùng Trung du và miền
núi phía Bắc. Trong hơn mười năm trở lại đây, những thành công trong công tác

nghiên cứu và sử dụng các giống ngô lai được coi là cuộc cách mạng thực sự trong
ngành sản xuất ngô ở Việt Nam. Những thành tựu nghiên cứu về cây ngô đã thay
đổi sâu sắc tập quán trồng ngô ở Việt Nam và đã có những đóng góp nhất định cho
mục tiêu phát triển cây ngô ở nước ta.
Nếu như năm 1991, diện tích trồng ngô lai ở nước ta chỉ đạt 1% tổng diện tích
trồng ngô, nhưng đến năm 2010, giống ngô lai đã chiếm khoảng 95% trong tổng số
hơn 1 triệu ha trồng ngô. Trong đó giống được cung cấp do các cơ quan nghiên cứu
trong nước chọn tạo và sản xuất chiếm khoảng 50 - 55%, còn lại là của các công ty Hạt
giống ngô lai hàng đầu Thế giới. Một số giống ngô lai được dùng chủ yếu ở vùng núi
hiện nay như LVN99, LVN4, LVN61, DK888, DK999, B9698, NK54, NK4300,
NK66, NK67, VN8960, CP999, CP919
Năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình Thế
giới trong suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980, năng suất ngô nước ta chỉ bằng 34% so
với trung bình Thế giới, năm 1990 bằng 42%, năm 2000 bằng 59,8%, năm 2005
8
bằng 74,4% và năm 2010 đạt 80,8%. Năm 1990, sản lượng ngô vượt ngưỡng 1 triệu
tấn, năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn, và đến năm 2010 Việt Nam đạt năng suất,
diện tích, sản lượng ngô cao nhất từ trước cho đến nay (diện tích đạt 1.269,9 nghìn
ha, năng suất đạt 40,9tạ/ha và sản lượng 4,606 triệu tấn).
Có thể nói tốc độ phát triển ngô lai ở Việt Nam rất nhanh so với lịch sử phát
triển ngô lai trên Thế giới. Đây là bước tiến vượt bậc so với một số nước trong
vùng, kết quả này đã được CIMMYT và nhiều nước đánh giá cao. Hiện nay nhiều
tỉnh có diện tích trồng ngô lai đạt gần 100% như; Đồng Nai, An Giang, Trà Vinh,
Bà Rịa - Vũng Tàu, Sơn La, Hà Tây, Vĩnh Phúc,
Bảng 1.2. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn năm 1975 - 2013
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)

Sản lượng
(nghìn tấn)
1975
276,6
10,42
278,4
1980
389,6
11,00
428,8
1985
392,2
14,90
584,9
1990
431,8
15,50
671,0
1995
556,8
21,3
1.184,2
2000
730,2
27,50
2.005,9
2005
1.052,6
36,0
3.787,1

2006
1.033,1
37,30
3.854,6
2007
1.096,1
39,30
4.303,2
2008
1.125,9
40,20
4.531,2
2009
1.086,8
40,80
4.431,8
2010
1.126,9
40,90
4.606,8
2011
1.121,6
43,13
4.835,7
2012
1.118,2
42,95
4.803,2
2013
1.170,3

44,35
5.190,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 9/2014 [18]
Qua bảng 1.2 ta thấy diện tích trồng ngô của nước ta có sự biến động, năm
2013 có diện tích cao nhất đạt 1170,3 nghìn ha. Năng suất tăng từ 40,14 tạ/ha
(2009), đến 44,35 tạ/ha (năm 2013).
9
Mặc dù năng suất ngô năm 2013 đã đạt 44,35 tạ/ha, song nếu so với năng
suất trung bình của thế giới, đặc biệt là năng suất của các nước phát triển thì năng
suất ngô của Việt Nam còn rất thấp. Những nguyên nhân chính làm giảm năng suất
ngô ở Việt Nam là do ngô chủ yếu được trồng trên đất dốc (> 60% diện tích), sản
xuất ở những vùng này phụ thuộc chủ yếu vào nước trời, trong đó hạn hán là yếu tố
chính làm giảm năng suất ngô; Kỹ thuật canh tác vẫn chưa được nghiên cứu một
cách hệ thống, quy trình canh tác giống mới vẫn còn chung chung chưa cụ thể từng
giống, từng vùng, từng thời vụ, cả về phân bón, chăm sóc; Hạn chế về giống, nhất là
giống chịu hạn, ít nhiễm sâu bệnh, thời gian ngắn, năng suất cao.
Sản lượng ngô năm 2013 đạt cao nhất là 5.190,9 nghìn tấn. Sản lượng ngô ở
nước ta tăng khá nhanh, song nhu cầu nguyên liệu để chế biến thức ăn chăn nuôi
tăng với tốc độ cao hơn nên năm 2013 nước ta nhập khẩu 2.189 nghìn tấn.
Sự phát triển ngô lai ở Việt Nam đã được CIMMYT và FAO cũng như các
nước trong khu vực đánh giá cao. Việt Nam đã đuổi kịp các nước trong khu vực về
trình độ nghiên cứu tạo giống ngô lai và đang ở giai đoạn đầu đi vào công nghệ cao
(công nghệ gen, nuôi cấy bao phấn và noãn) (Ngô Hữu Tình, 2003)[21].
1.2.3.Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc, phía
Nam giáp Thái Nguyên, phía Bắc giáp Cao Bằng, phía Đông giáp Lạng Sơn, phía
Tây giáp Tuyên Quang. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 485.721 ha, trong đó đất
nông nghiệp có 30.509ha, gồm 7 huyện, 1 thị xã với 122 xã, phường, thị trấn, gồm
nhiều dân tộc anh em sinh sống gồm: Kinh, Tày, Dao, Mông , trong đó có tới 90%
dân số tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nên cũng có nhiều lợi thế để

phát triển sản xuất ngô. Trong những năm qua tỉnh luôn chú trọng tập trung đầu tư,
phát triển nông lâm nghiệp.
Sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn còn mang tính tự cung tự cấp cao, sản xuất
hàng hóa chưa phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đa số bà con
nông dân bón phân không cân đối, không lấp đất trước khi gieo Hạt nên dẫn đến hiện
tượng chết sót mất khoảng làm giảm năng suất và diện tích đất trồng ngô.
10
. Tuy nhiên do cây ngô có một vị thế quan trọng trong nền kinh tế nên
tỉnh đã rất chú trọng đưa ra những giải pháp khắc phục khó khăn, đưa các
giống ngô lai năng suất cao vào sản xuất và áp dụng các biện pháp kỹ
Thuật thâm canh. Vì vậy bước đầu đã đạt được những thành quả nhất định.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Bắc Kạn năm 2008 - 2012
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2008
16,036
34,10
54,682
2009
16,136
35,14
56,701
2010
16,178
36,28

58,693
2011
16,914
38,24
64,678
2012
17,140
38,30
65,584
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn, 2013[25]
Qua bảng 1.3. cho thấy: Từ năm 2008 đến năm 2012 diện tích ngô của tỉnh Bắc
Kạn tăng từ 16,036 nghìn ha đến 17,140 nghìn ha. Năng suất ngô của tỉnh tăng đều
từ 34,10 tạ/ha năm 2008 lên 38,30 tạ/ha vào năm 2012, tăng 4,2 tạ/ha so với năm
2008. Sản lượng tăng từ 54,682 nghìn tấn năm 2008 lên 65,584 nghìn tấn vào năm
2012, tăng 10,902 nghìn tấn so với năm 2008. Tuy nhiên năng xuất ngô của tỉnh Bắc
Kạn vẫn thấp hơn nhiều so với năng suất ngô của cả nước. Sản lượng ngô năm 2012
đạt 65,584 nghìn tấn. Điều này chứng tỏ trong những năm gần đây tỉnh Bắc Kạn cây
ngô đã được Đảng bộ và chính quyền tỉnh đặc biệt chú trọng quan tâm và đầu tư phát
triển đã đạt được những thành tựu như vậy đó chính là nhờ áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ Thuật mới vào sản xuất ngô như: Sử dụng các giống mới, kỹ thuật canh tác
cải tiến. Tuy nhiên sản xuất ngô ở Bắc Kạn cần được quan tâm và đầu tư phát triển
nhiều hơn, mạnh hơn nữa như: Tăng diện tích gieo trồng ngô xuống ruộng 1 vụ, gieo
trồng ngô trên đất đồi, đất bãi, sử dụng giống mới, thâm canh tăng năng suất nhằm
khai thác tối đa tiềm năng đất sẵn có của tỉnh đặc biệt là những huyện vùng thấp.
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô của huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
Ba Bể là huyện nghèo của tỉnh Bắc Kạn có điều kiện đất đai phức tạp gây cản
trở lớn trong việc sản xuất ngô của huyện. Đại đa số huyện còn nghèo nàn, cơ sở vật
11
chất, trình độ thâm canh còn thấp. Điều kiện tự nhiên phức tạp, hệ thống Thuỷ lợi
còn chưa đáp ứng được nhu cầu nước tưới cho nên sản xuất nông nghiệp nói chung

và sản xuất ngô nói riêng còn nhiều Hạn chế. Tuy nhiên do cây ngô có một vị thế
quan trọng trong nền kinh tế nên huyện đã rất chú trọng đưa ra những giải pháp
khắc phục khó khăn, đưa các giống ngô lai năng suất cao vào sản xuất và áp dụng
các biện pháp kỹ Thuật thâm canh. Vì vậy bước đầu đã đạt được những thành quả
nhất định.
Bảng 1.4. Tình hình sản xuất ngô tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn năm 2008 - 2012
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2008
2,133
34,07
7,267
2009
2,454
35,64
8,746
2010
2,354
39,43
9,281
2011
2,464
38,80
9,575
2012

2,468
40,06
9,870
Nguồn: Niên Giám thống kê huyện Ba Bể, 2013[26]
Qua bảng 1.4 cho thấy: Từ năm 2008 đến năm 2012 diện tích ngô của huyện
Ba Bể tăng từ 2,133 nghìn ha đến 2,468 nghìn ha. Năng suất ngô của huyện tăng
đều từ 34,07 tạ/ha lên đến 40,06 tạ/ha vào năm 2012, tăng 5,99 tạ/ha so với năm
2008. Sản lượng tăng từ 7,267 nghìn tấn năm 2008 lên đến 9,870 nghìn tấn vào năm
2012, tăng 2,603 nghìn tấn so với năm 2008. Điều này chứng tỏ trong những năm
gần đây ở tỉnh Bắc Kạn nói chung, huyện Ba Bể nói riêng cây ngô đã được Đảng bộ
và chính quyền huyện đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển. Đạt được những thành
tựu như vậy đó chính là nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ Thuật mới vào sản
xuất ngô như: Sử dụng một số tập đoàn các giống mới, áp dụng kỹ thuật canh tác
tốt. Tuy nhiên sản xuất ngô ở huyện Ba Bể cần được quan tâm và đầu tư phát triển
nhiều hơn, mạnh hơn nữa như: Tăng diện tích gieo trồng ngô xuống ruộng 1 vụ,
gieo trồng ngô trên đất đồi, đất soi bãi, sử dụng giống mới, thâm canh tăng năng
suất nhằm khai thác tối đa tiềm năng đất sẵn có của huyện từ sự phát triển đó đã
12
phần nào đảm bảo được cuộc sống cho đồng bào vùng sâu, đảm bảo được an ninh
lương thực cho toàn huyện, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo
cho nông dân. Để không ngừng nâng cao năng suất và sản lượng ngô, chúng ta cần
phải có các giống ngô lai mới, phù hợp với điều kiện mỗi địa phương và tiến hành
nghiên cứu về các loại phân bón, liều lượng và cách bón từng loại phân sao cho đạt
được hiệu quả cao nhất của phân bón.
1.3. Dinh dưỡng của cây ngô
1.3.1. Các nguyên tố dinh dưỡng và nhu cầu dinh dưỡng của cây ngô
Cây ngô hút các chất dinh dưỡng cần thiết để sinh trưởng và phát triển bình
thường qua các chất vô cơ. Trong quá trình quang hợp, để tạo lập hydatcacbon, ngô
sử dụng CO
2

thu được trong không khí, ion H
+
trong không khí và nguyên tử oxy có
nguồn gốc từ nước. Nước thẩm thấu xuống đất được cây hút vào nhờ các tế bào rễ
con, sau đó dẫn từ tế bào này đến tế bào khác để tham gia các dòng vật chất trong
cây. Các yếu tố trong đất như muối khoáng được hòa tan và tồn tại trong dung dịch
đất hoặc bám trên bề mặt keo đất .
Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của cây mà người ta chia ra các loại:
- Nhóm đa lượng: Cacbon,oxy, hydro, nitow, photpho, lưu huỳnh, kaly,
canxi, magiê.
- Nhóm vi lượng: Sắt, mangan, kẽm, đồng, molipden, bo, clo, nhôm, bạc,
natri, coban, bari…
Các nguyên tố tạo thành cơ thể ngô chiếm số lượng lớn, chúng ta tham gia
xây dựng nên các hợp chất hữu cơ trong cây. Ví dụ: C,O,H,N,P,S… tạo nên nước,
đường, tinh bột, xenluloza, amino axit, protein, lipit
Các nguyên tố khoáng tham gia trực tiếpvào quá trình chuyển hóa vật chất và
năng lượng trong cây. Chúng có vai trò to lớn trong quá trình quang hợp, hô hấp,
cân bằng nước cũng như toàn bộ quá trình sinh trưởng, phát triển của cây. Chúng là
yếu tố chính hoặc là thành phần tham gia cấu trúc các hệ thống như là bộ máy
quang hợp, chuỗi hô hấp, các trung tâm tổng hợp protein. Trong cây tồn tại các ion
K
+,
Ca
+,
Mg
+
và Na
+
, chúng điều khiển các tính chất và khả năng thẩm thấu trên bề
13

mặt keo của thành tế bào. Các nguyên tố kim loại có hóa trị thay đổi khi ở dạng ion
(Fe,Mn) điều khiển quá trình oxy hóa khử trong trao đổi chất, chúng là thành phần
của các chất enzen.
Có thể nói ít nhất là 16 nguyên tố dinh dưỡng cần thiết để tạo thành cơ thể và
ổn định bình thường của cây ngô. Thiếu các yếu tố này có thể gây ra những biến đổi
làm suy yếu hoặc rối loạn thay đổi sinh trưởng phát triển của cây ngô. Điều quan
trọng những nguyên tố này phải có hàm lượng thích hợp trong đất và có hàm lượng
dễ tiêu đối với ngô.
Khoảng không gian và diện tích đất để cây ngô tiến hành quá trình dinh
dưỡng chính là nơi quyết định số lượng chất lượng sản phẩm thu hoạch được. Cây
ngô hấp thụ các yếu tố khoáng dưới dạng ion từ dung dịch đất hay từ bề mặt keo đất
theo quá trình chung về dinh dưỡng khoáng.
Nguồn cung cấp chủ yếu cho cây là đất trồng trọt. Độ màu mỡ của đất được
hình thành và phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố, trong đó có tác động trực tiếp của
người trồng và cây trồng. Những đặc điểm như: Thành phần đá mẹ, hay nguồn sa
bồi, hàm lượng và chất lượng mùn, sét khoáng, thành phần cơ giới, độ bám kết, độ
chua, chế độ nước, hàm lượng dinh dưỡng tổng số hay dễ tiêu, khả năng cung cấp
dinh dưỡng,… đã qui định độ màu mỡ của đất.
1.3.2. Nhịp độ tạo chất khô và hấp thụ một số dinh dưỡng chính.
Sự hút các chất dinh dưỡng thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng, phát
triển của ngô. Dựa vào biến đổi hình thành của cây để xác định nhu cầu dinh dưỡng
từng thời kỳ cho ngô.
Viện kỹ thuật cây ngũ cốc và thức ăn gia súc (Pháp) chia quá trình sinh
trưởng của cây ngô ra làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn tăng trưởng chậm: Từ khi mọc đến khi 7 – 8 lá: Đây là giai đoạn
hình thành và phát triển bộ rễ, đây cũng là giai đoạn phân hóa tạo bông cờ. Giai
đoạn này lượng dinh dưỡng cây hút không lớn chỉ 1-4% tổng lượng dinh dưỡng so
với cả vòng đời cây hút.
Sự hút chất dinh dưỡng ở các thời kỳ đầu tuy chậm nhưng rất quan trọng cho
14

ngô, bao gồm các dạng dễ hấp thu của các hợp chất chứa NPK so với tổng lượng
dinh dưỡng và tổng chất khô đã tích lũy, thấy rằng ngô mọc 20 – 30 ngày ngô tích
lũy được 4% chất khô, 9% lân, 10% đạm, 14% kali; sau 60 ngày: 45% chất khô,
57% lân, 66% đạm, 92% kali.
- Giai đoạn tăng trưởng nhanh: Từ 7 – 8 lá đến sau trỗ 15 ngày: ở giai đoạn
này các bộ phận trên mặt đất (thân, lá) và dưới mặt đất đều tăng trưởng nhanh. Các
cơ quan sinh trưởng phát triển mạnh, lượng tinh bột và chất khô trong bắp tăng
nhanh. Đây là giai đoạn cây hấp thu tối đa dinh dưỡng bằng 75 – 95% tổng lượng
dinh dưỡng so với cả vòng đời cây hút. Thiếu chất dinh dưỡng ở thời kỳ 8 -11 lá sẽ
cản trở sinh trưởng của lá và giảm từ 10 -20% năng suất, đặc biệt ở thời kỳ trỗ cờ
phun râu cây đòi hỏi dinh dưỡng rất cao, nên vào thời kỳ này một nửa số lá bị héo
khô sẽ làm giảm 25 -30% năng suất. Thời kỳ nở hoa, ngô đã hút gần như toàn bộ số
kali cần thiết và lượng lớn đạm và lân.
- Giai đoạn chín: Quá trình tích lũy chất khô đã hoàn thành, ngô bắt đầu mất
nước nhanh, các bộ phận sinh trưởng sinh dưỡng chuyển sang màu vàng. Hầu hết
các giống đều cần khoảng 60 ngày để hình thành hạt; trong đó các giống ngắn ngày
cần ít hơn, khoảng 35 – 40 ngày trong thời gian hình thành hạt, mỗi ngày bình quân
tạo thành 2,5 – 3% trọng lượng hạt khi chín hoàn toàn.
Trong giai doạn chín cây ngô thực hiện các chức năng phân phối lại lượng
dinh dưỡng đã hấp thụ. Lượng dinh dưỡng cây hấp thụ được không chỉ tích lũy ở
hạt mà còn một lượng lớn ở thân lá. Tiêu tốn nước trong quá trình tích lũy chất khô
ở ngô thấp hơn lúa. Để tạo 1gam chất khô cho ngô cần 349 gam nước, trong khi đó
lúa cần 628gam.
* Đạm: Là nguyên tố cấu thành của tất cả các bộ phận sống. Dạng đạm quan
trọng nhất trong đất là NH
4
+
và NO
3
. Trong điều kiện bình thường cây hút đạm

nitrat và đạm amon. Hai dạng đạm có tác dụng sinh lý khác nhau. Khi hút đạm, độ
PH trong cây cao lên, khi PH 6,8 cây hút cả hai dạng đạm này như nhau, cây phản
ứng khác nhau với đạm, ở đất chua cây chủ yếu hút nitrat hỗ trợ việc hút cation ,
trong khi đó đạm amon gây khó khăn cho việc hút cation. Thiếu đạm những lá già ở
15
gốc thường vàng và khô đi bắt đầu từ đầu mút lá rồi lan dần ra sống lá. Khi thừa
đạm cây mọc um tùm, kéo dài thời gian sinh trưởng. Bón trực tiếp đạm lên cây sẽ
làm lá cháy xém.
Ngô cần đạm ngay từ lúc đầu, tức là khi nẩy mầm, tuy cần lượng rất nhỏ
nhưng rất quan trọng. Điều đó nói lên vai trò quan trọng của chọn đất tốt và bón lót.
Nhịp độ hút đạm lớn hơn lân tính đến lúc trỗ cờ, sự hút đạm kéo dài đến khi hạt
chín. Có thể phân tích lượng đạm trong lá để đánh gí hiệu quả cung cấp đạm và khả
năng cho năng suất ngô. Ở thời kỳ 6 lá lượng đạm trong lá chiếm 6% coi như lượng
tối thích cho năng suất cao.
Nếu đạm dưới 3,5%: Cung cấp đạm yếu
Từ 3,5 – 5% : Cung cấp đạm thỏa mãn
Trên 5% : Cung cấp nhiều
Sự hút đạm phụ thuộc vào mức độ cung cấp lân và kali… Tỷ lệ N/P ảnh
hưởng tới tốc độ ra hoa và tốc độ lớn của hạt khi chín, khoảng 2/3 lượng đạm đã hút
được chuyển vào hạt.
* Lân: Là thành phần cấu tạo của tế bào, lân tham gia vào những hợp chất và
các yếu tố cấu trúc vật chất cơ bản điều khiển các quá trình sinh sống, lân giữ vai
trò quan trọng ADP và ATP của quá trình quang hợp. Lân được hút dưới dạng H
2
PO
4
-
và HPO
4
2-

. Phân lân sau khi bón tùy theo độ PH của môi trường sẽ bị đất liên
kết, do sự di động yếu nên lượng sử dụng được rất ít.
Lân rất cần khi cây con nhỏ. Trong thời kỳ đầu tốc độ hút lân lớn hơn sự tích
lũy chất khô, về sau hai quá trình này tương đương nhau. Cây thực sự ngừng hút lân
trước chín sinh lý vài ngày. Giữa 3 nguyên tố N - P – K, lượng lân được cây vận
chuyển vào hạt chiếm tỷ lệ cao nhất so với tổng số lượng đã hút (khoảng 80%). Ở
những điều kiện đất chua, đất xấu, mà nhiều đất bị gí chặt làm cản trở sự phát triển
của bộ rễ thường thiếu lân.
Thiếu lân sẽ gây nên rối loạn sinh trưởng khi cây còn non. Thiếu lân cản trở
sự hình thành sắc tố, trên lá và thân có màu tím hơi đỏ, gọi là bệnh huyết dụ. Ngược
lại, lân quá nhiều gây rối loạn cho việc hút sắt và kẽm.

×