Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu tại huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang và thử nghiệm phác đồ điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.83 KB, 67 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


HÀ XUÂN BÁCH

TÊN ĐỀ TÀI
:

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH TIÊN MAO
TRÙNG (TRYPANOSOMIASIS) Ở TRÂU TẠI HUYỆN YÊN SƠN –
TỈNH TUYÊN QUANG VÀ THỬ NGHIỆM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi thú y
Khóa học : 2009 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Phạm Thị Trang




Thái Nguyên, tháng 11 năm 2013
59
LỜI CẢM ƠN



Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu và quý thầy cô
trường Đại học Nông lâm – Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ, giảng dạy,
truyền đạt những kiến thức bổ ích, những kinh nghiệm quý báu cho em
trong suốt quá trình học tập tại trường giúp em tự tin vững bước đi trên con
đường khi không còn ngồi trên ghế nhà trường.
Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo khoa chăn nuôi thú y đã giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình và tạo những điều kiện thuận lợi nhất trong suốt khóa học
cũng như trong thời gian em thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ThS. Phạm Thị Trang
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, đóng góp ý kiến giúp đỡ em trong
suốt quá trình thực hiện bài khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Chi cục thú y tỉnh Tuyên Quang, trạm thú
y huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong
quá trình thực hiện khóa luận tại cơ sở.
Đồng thời em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè đã
giúp đỡ, động viên em hoàn thành tốt việc học tập, nghiên cứu của mình
trong suốt quá trình học tập vừa qua.
Cuối cùng em xin kính chúc quý thầy cô và gia đình luôn luôn
mạnh khỏe, hạnh phúc, thành đạt trong công tác giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.

Thái Nguyên,ngày… tháng … năm 2013

Sinh viên



Hà Xuân Bách




60
LỜI NÓI ĐẦU

Thực tập tốt nghiệp là một giai đoạn trong quá trình đào tạo cán bộ
khoa học kỹ thuật vững về lý thuyết, giỏi về tay nghề. Trong khoảng thời
gian này sinh viên phải đem những kiến thức đã học ứng dụng vào thực tế
sản xuất, để củng cố sâu thêm những kiến thức đã được học trong nhà
trường, nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn và học tập phương pháp
nghiên cứu khoa học.
Nhằm thực hiện đúng hiệu quả và phương châm đào tạo: "Học đi đôi
với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội",
giúp sinh viên nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững phương pháp
nghiên cứu và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
sau khi ra trường mỗi sinh viên trở thành một cán bộ có trình độ chuyên
môn vững vàng đưa ngành chăn nuôi ngày càng phát triển góp phần vào
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Từ phương châm đó, được sự nhất trí của nhà trường, của khoa chăn
nuôi thú y, dưới sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của trạm
thú y huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang . Em đã về thực tập tại địa bàn và
triển khai đề tài: "Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao
trùng (Trypanosomiasis) ở trâu tại huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang
và thử nghiệm phác đồ điều trị”.
Do thời gian thực tập có hạn, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực
tiễn chưa nhiều nên đề tài của em không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy, cô giáo cùng các bạn để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!




61
MỤC LỤC

Phần 1: MỞ ĐẦU 1

1.1. Đặt vấn đề 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2

1.3. Ý nghĩa của đề tài 2

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2

1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3

Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4

2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại Trypanosoma 4

2.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân
loại động vật học 4

2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng 5

2.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma
evansi 6


2.1.2. Dịch tễ học bệnh tiên mao trùng 9

2.1.2.1. Phân bố của bệnh 9

2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng 10

2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh 13

2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh 14

2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý 14

2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu 16


62
2.1.3.3. Bệnh tích của bệnh tiên mao trùng 17

2.1.4. Chẩn đoán bệnh tiên mao trùng 18

2.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng 18

2.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm 18

2.1.5. Phòng trị bệnh tiên mao trùng cho trâu 24

2.1.5.1. Phòng bệnh 24

2.1.5.2. Điều trị bệnh 27


2.2. Tình hình nghiên cứu về bệnh tiên mao trùng 28

2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 28

2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 30

Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 33

3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 33

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 33

3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 33

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 34

3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 34

3.2.2. Thời gian nghiên cứu 34

3.3. Nội dung nghiên cứu 34

3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng (Trypamosoma
evansi) ở trâu tại huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 34

3.3.1.1. Nghiên cứu tình hình nhiễm bệnh tiên mao trùng của trâu ở
một số xã thuộc huyện Yên Sơn – Tỉnh Tuyên Quang 34



63
3.3.1.2. Nghiên cứu về côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng 34

3.3.2. Nghiên cứu phác đồ điều trị bệnh T. evansi cho trâu và đề xuất
biện pháp phòng chống 35

3.3.2.1. Xây dựng phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng 35

3.3.2.2. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh do T. Evansigây ra cho
trâu ở huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 35

3.4. Phương pháp nghiên cứu 35

3.4.1. Phương pháp thu thập mẫu 35

3.4.1.1. Phương pháp thu thập mẫu máu trâu 35

3.4.1.2. Phương pháp lấy mẫu máu 36

3.4.2. Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trong mẫu 36

3.4.2.1. Phương pháp xem tươi (Direct smear) 36

3.4.2.2. Phương pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky) 36

3.4.2.3. Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm 37

3.4.3. Phương pháp thu thập định loại côn trùng môi giới truyền bệnh
tiên mao trùng 37


3.4.4. Một số quy định trong nghiên cứu đặc điểm dịch tễ 38

3.4.5. Xây dựng phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng 38

3.5. Phương pháp xử lý số liệu 39

Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 40

4.1. Xác định một số đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng ở trâu tại
huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 40

4.1.1. Tỷ lệ nhiễm bệnh tiên mao trùng ở trâu tại các xã thuộc huyện Yên
Sơn – tỉnh Tuyên Quang 40


64
4.1.2. Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở trâu theo lứa tuổi 41

4.1.3. Tỷ lệ nhiễm bệnh tiên mao trùng ở trâu theo mùa vụ 43

4.2. Nghiên cứu về côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng 45

4.2.1. Thành phần các loài ruồi, mòng ở huyện Yên Sơn 45

4.2.2. Quy luật hoạt động của các loài ruồi, mòng ở các xã thuộc huyện
Yên Sơn , tỉnh Tuyên Quang 47

4.3. Nghiên cứu phác đồ điều trị bệnh T. evansi cho trâu tại huyện Yên
Sơn – tỉnh Tuyên Quang 50


4.3.1. Xây dựng phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng 50

4.3.1.1. Thử nghiệm thuốc điều trị bệnh tiên mao trùng trên diện hẹp 50

4.3.1.2. Ứng dụng phác đồ có hiệu quả cao trong điều trị bệnh tiên mao
trùng ở huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 51

4.3.2. Đề xuất một số biện pháp phòng chống bệnh T. evansi cho trâu ở
các địa phương thuộc huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 52

Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 53

5.1. Kết Luận 53

5.2. Đề nghị 54

TÀI LIỆU THAM KHẢO 55


65
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Cs : Cộng sự
TMT : Tiên mao trùng
Kg : Kilôgam
TT : Thể trọng
Nxb : Nhà xuất bản
T. evansi : Trypanosoma evansi
VGS : Vanant Glycoprotein Surface

ISG : Invanant Surface Glycoprotein
VAT : Variable Antigen Typet
LATEX : Latex Agglutination Test
IFAT : Indirect Fluorecent Antibody Test
ELISA : Enzym Linked Immunosorbent Assay
CATT : Card Agglutination Test for
Trypanosomiasis

66
DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 4.1: Tỷ lệ nhiễm bệnh tiên mao trùng ở trâu tại một số xã
thuộc huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 40
Bảng 4.2: Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở trâu theo lứa tuổi 42
Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm bệnh tiên mao trùng ở trâu
theo các tháng trong năm 44
Bảng 4.4: Sự phân bố và tần suất xuất hiện các loài ruồi, mòng ở
huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 45
Bảng 4.5: Biến động thành phần loài ruồi, mòng ở các xã
thuộc huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 46
Bảng 4.6: Quy luật hoạt động theo tháng của các loài ruồi, mòng ở các xã
thuộc huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 47
Bảng 4.7: Quy luật hoạt động của các loài ruồi, mòng theo thời gian trong ngày
ở các xã thuộc huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 48
Bảng 4.8: Thử nghiệm thuốc điều trị tiên mao trùng trên diện hẹp 50
Bảng 4.9: Ứng dụng phác đồ có hiệu quả cao trong điều trị bệnh tiên mao trùng cho
trâu ở các địa phương thuộc huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang 51



1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh tiên mao trùng hay còn gọi là bệnh ngã nước, trâu bò mắc bệnh
thể cấp tính
thường
sốt cao 41 - 41,7
0
C với các triệu chứng thần kinh như
ngã quỵ, kêu rống, đi vòng tròn… Trâu bò bệnh sẽ chết sau 7 - 15 ngày. Ở
thể mãn tính, các triệu chứng lâm sàng nhẹ hơn và bệnh kéo dài 1 - 2 tháng,
con vật ngày càng gầy, da khô mốc, niêm mạc mắt tụ máu màu đỏ tía, đôi
khi có chấm máu, chảy nước mắt và mắt có nhiều dử đặc như keo, niêm
mạc mắt vàng nhạt hay sẫm. Sức khoẻ suy yếu dần, kém ăn, kém nhai lại,
đi phân táo có lẫn máu hoặc đi tháo lỏng mùi thối khắm, có khi con vật đi
ỉa ra cả màng ruột, nát từng đoạn. Thường thấy có thuỷ thũng ở hầu, ức,
nách, chân, háng. Trường hợp bệnh nặng, con vật đột ngột sốt cao, bụng
chướng to rồi lăn ra chết.
Theo số liệu của Phạm Sỹ Lăng (1982) [8], Phan Địch Lân và cộng
sự (2004) [13], Phan Văn Chinh (2006) [4], bệnh tiên mao trùng xuất hiện
ở nhiều vùng trên cả nước, với tỷ lệ mắc khá cao: trên trâu là 13 - 30%, trên
bò là 7 - 14%, trong đó tỷ lệ gia súc chết lên tới 6,3 - 20%.
Cũng theo báo cáo của các tác giả trên, tỷ lệ mắc Trypanosoma
evansi ở gia súc vùng núi và trung du cao hơn các vùng đồng bằng và ven
biển. Trong khi đó, ở nước ta, chăn nuôi gia súc nhai lại để cung cấp sức
kéo, thịt, sữa lại tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi và trung du, là các
vùng có điều kiện tự nhiên thích hợp cho sự phát triển chăn nuôi gia súc
nhai lại, nhưng cơ sở hạ tầng phục vụ công tác chẩn đoán và điều trị tại địa
phương còn yếu kém, dẫn tới hệ quả là bệnh tiên mao trùng trở nên phổ

biến hơn, nghiêm trọng hơn và gây thiệt hại lớn hơn.
2
Khả năng phát sinh và phát triển bệnh tiên mao trùng phụ thuộc
nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu, tập quán chăn nuôi và chế độ làm
việc của gia súc. Sự thay đổi các điều kiện trên sẽ ảnh hưởng sẽ ảnh hưởng
đến khả năng gây bệnh cũng như dịch tễ bệnh. Bên cạnh đó, việc mở cửa
thương mại, phát triển du lịch cũng dẫn tới sự du nhập các tác nhân gây
bệnh mới, hoặc tạo nên các biến chủng gây bệnh mới làm cho tình hình
bệnh ngày càng phức tạp hơn. Huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang là
huyện có diện tích rộng với số lượng trâu lớn. Với địa hình đồi núi cùng
với nhiều ao hồ sông suối và tập quán chăn thả tập trung, đây là điều kiện
thuận lợi cho bệnh tiên mao trùng lây lan và phát triển.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng
(Trypanosomiasis) ở trâu tại huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang và thử
nghiệm phác đồ điều trị”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các đặc điểm dịch tễ bệnh do Trypanosoma evansi gây ra
ở đàn trâu tại huyện Yên Sơn – tỉnh Tuyên Quang.
- Lựa chọn phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng có hiệu quả, phù hợp
với điều kiện chăn nuôi miền núi.
- Xây dựng quy trình phòng, trị bệnh, góp phần hạn chế những
thiệt hại do bệnh tiên mao trùng cho đàn trâu ở huyện Yên Sơn – tỉnh
Tuyên Quang.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ
và quy trình phòng chống bệnh tiên mao trùng ở trâu.
3
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn

Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi
áp dụng quy trình phòng, trị bệnh tiên mao trùng. Nhằm hạn chế tỷ lệ
nhiễm và thiệt hại do Trypanosoma evansi gây ra. Góp phần nâng cao năng
suất chăn nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu phát triển.
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Bệnh tiên mao trùng được Blanchard (1888) phát hiện đầu tiên ở
Việt Nam. Sau đó, bệnh được xác định là phổ biến ở hầu hết các tỉnh thành
trong cả nước. Bệnh do loài tiên mao trùng Trypanosoma evansi gây ra.
Trâu, bò, ngựa mắc bệnh dễ chết hoặc thiếu máu, suy nhược, giảm hoặc
mất khả năng sinh sản và sức sản xuất.
2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại Trypanosoma
2.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân loại
động vật học
Theo Levine et al (1980) (dẫn theo Lương Văn Huấn và cs, 1997)
[6], vị trí của tiên mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào
(Protozoa) như sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Phân bộ Trypanosomatorida
Họ Trypanosomatidae Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Giống phụ Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Giống phụ Herpetosoma Donein, 1901

Loài Trypanosoma (H) leisi
Giống phụ Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi

5
Giống phụ Duttonella Chalmers, 1918
Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trypanosoma (D) uniform
Giống phụ Nalmomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (N) congolense
Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Giống phụ Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Trypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Giống phụ Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Giống phụ Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi Steel, 1885
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài được tổ chức dịch tễ
quốc tế (OIE) thông báo là có khả năng gây bệnh cho người và động vật có vú,
đó là: T. brucei, T. congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T. siminae,
T. vivax.
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng
Tiên mao trùng T. evansi được xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ
là một tế bào, có kích thước nhỏ, chiều dài 18 - 34 µm (trung bình là 25
µm), chiều rộng 1,5 - 2µm. Cơ thể có hình suốt chỉ mảnh hoặc hình thoi,
cuối thân nhọn. Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống như

cấu trúc của các loài tiên mao trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae. Cấu
trúc từ ngoài vào trong được chia thành 3 phần chính:
- Vỏ: ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ được chia làm 3 lớp
6
(lớp ngoài và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp
giữa). Lớp vỏ ngoài cùng được cấu tạo từ các phân tử glycoprotein luôn
biến đổi (Vanant Glycoprotein Surface -VGS). Tiếp giáp với lớp trong
cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc theo chiều dài thân tiên mao trùng.
Chính nhờ sự sắp xếp của các cặp vi ống nên tiên mao trùng có dạng hình
suốt chỉ mảnh (Hoare, 1972 [32]; Phạm Sỹ Lăng, 1982 [8]; Nguyễn Quốc
Doanh, 1999 [5] ).
- Nguyên sinh chất: gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh chất
có chứa các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào
màu sáng, kinetoplast (thể cơ động), mitochrondno, reticulum (lưới nội
bào) và mạng lưới golgi.
- Nhân: nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình
trứng. Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể.
Ngoài nhân, về phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa AND (KADN).
Từ kinetoplast có một roi chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ
thể thành một roi tự do. Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống
lớp vỏ của thân. Trong roi có 9 cặp vi ống ở xung quanh và một cặp ở trung
tâm, xếp song song dọc chiều dài roi (Hoare, 1972 [32]; Nguyễn Quốc
Doanh, 1999 [5]).
2.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma evansi
Kháng nguyên của T. evansi gồm hai loại: kháng nguyên ổn định
(kháng nguyên không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi.
* Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phần lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến
đổi trong quá trình sống ký sinh. Bằng phương pháp điện di miễn dịch
huyết thanh thỏ tối miễn dịch với T. evansi, Kageruka (1982) đã phát hiện

tới 30 thành phần kháng nguyên khác nhau. Có ba loại kháng nguyên
không biến đổi ở màng nguyên sinh chất tế bào (ISG: Invanant Surface
7
Glycoprotein): ISG 65, ISG 75 và ISG 100. Do cấu trúc không gian ba
chiều và đặc tính ưa nước, các loại này không kết hợp với kháng thể của
vật chủ (Nolan, 1997).
* Kháng nguyên biến đổi
Về kháng nguyên biến đổi, cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt
VSG (Variant Surface Glycoprotein), những quan điểm mới về sự xuất
hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng và cơ chế di truyền của
kháng nguyên biến đổi.
Nhờ kháng thể đặc hiệu được đánh dấu mà Vickerman và Luckins
(1969) đã phát hiện ra sự biến đổi của lớp kháng nguyên bề mặt. Cross
(1975) đã mô tả lớp áo bề mặt của tiên mao trùng có thành phần là
glycoprotein bao phủ toàn bộ bề mặt tế bào bằngmột lớp phân tử giống
nhau (mỗi tiên mao trùng có 107 phân tử). Lớp áo bề mặt này kích thích cơ
thể vật chủ tạo ra kháng thể đặc hiệu với từng type kháng nguyên biến đổi
VAT (Variable Antigen Type). Chỉ có kháng nguyên biến đổi mới có khả
năng kích thích vật chủ tạo miền dịch chủ động. Người ta ước lượng rằng, một
con tiên mao trùng có ít nhất vài trăm hoặc vài nghìn VSG, nghĩa là 5 - 10%
số gen của tiên mao trùng cung cấp cho kháng nguyên bề mặt này.
Nhiều tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng
biến đổi kháng nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ.
Tuy nhiên, Van Meirvenne (1975) cho biết, sự biến đổi kháng nguyên bề
mặt của ký sinh trùng đã có ngay ở pha đầu tiên của quá trình nhiễm (trước
khi xuất hiện đáp ứng miễn dịch của cơ thể vật chủ). Theo Hajduc và
Vickernlan (1981), hiện tượng biến đổi kháng nguyên bề mặt của tiên mao
trùng còn thấy ở gia súc đã bị tiêm thuốc làm suy giảm miễn dịch. Những
quan điểm này là hoàn toàn mới để lý luận về sự xuất hiện kháng nguyên
biến đổi của tiên mao trùng. Như vậy, quan điểm về sự biến đổi kháng

nguyên lớp vỏ của tiên mao trùng cho đến nay vẫn chưa thống nhất.
8
* Cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi
Khi kháng thể đặc hiệu kết hợp với phân tử của kháng nguyên bề
mặt (VSG), làm tiêu tan tiên mao trùng thì đó cũng là nguyên nhân chính
thúc đẩy sự hoạt hoá của gen. Kết quả là các phân tử kháng nguyên VSG
được thay đổi hoàn toàn bằng các phân tử VSG mới. Lúc này, kháng thể
đặc hiệu lúc trước đã không còn tác dụng đối với kháng nguyên mới này.
Theo Barry và Tumer (1991) [30], Vanhamme và cs (1995) [36], các
VSG được mã hoá nhờ các gen chuyên biệt. Một gen VSG được hoạt hoá
một cách chọn lọc, dẫn đến tổng hợp ra một loại kháng nguyên VSG. Mỗi
bên VSG mới tạo ra một loại kháng nguyên VSG mới. Trong bộ gen của
tiên mao trùng tồn tại một số lớn gen VSG, các gen này sử dụng nhiều cơ
chế sắp xếp khác nhau, do vậy tiên mao trùng đã tạo ra nhiều VSG khác
nhau ở gia súc bị bệnh mãn tính. Cơ chế biến đổi kháng nguyên theo 2
cách: cách thứ nhất là, sử dụng lần lượt các điểm biểu hiện trên (expression
side) khác nhau, không có sự sắp xếp của ADN. Các điểm biểu hiện khác
nhau sẽ mang các gen VSG khác nhau, sự luân phiên này dẫn đến sự thay
đổi type kháng nguyên. Cơ chế này quan sát được chủ yếu ở giai đoạn đầu
của quá trình cảm nhiễm. Có lẽ ở giai đoạn đầu này chưa có đáp ứng miễn
dịch của vật chủ đối với VSG, chính điều này không gây ra một cản trở
hoạt hoá tự nhiên của các điểm biểu hiện gen này. Cách thứ hai là, tập hợp
lại các đoạn ADN khác nhau để tái tổ hợp gen, mà việc tái tổ hợp này cho
phép thay thế hoàn toàn hoặc từng phần gen; hoặc việc thay thế diễn ra dựa
vào sự chuyển đổi gen chứ không phải dựa vào tái tổ hợp gen. Trường
hợp này được diễn giải như sau: một gen hoạt hoá được thay thế bằng
bản sao chép của một gen khác. Do có sự thay thế một phần của gen
nên đã tạo ra loại gen phức hợp và đặc trưng.
9
2.1.2. Dịch tễ học bệnh tiên mao trùng

2.1.2.1. Phân bố của bệnh
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía Tây sang phía Đông
bán cầu. Phía Tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía Đông bán cầu trải dài từ
châu Phi cho đến Philippine.
Theo Euzeby (1984), bệnh phổ biến ở trâu, bò, ngựa các nước nhiệt
đới ở châu Phi,châu Á và Nam Mỹ.
Ở châu Phi, bệnh trải dài từ Tây sang Đông, phía Bắc qua vùng sa
mạc Sahara, dọc theo bờ biển Atlantique Địa trung hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra” ở Ả rập Saudi,
Yêmen, Sultanate, Ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie, Afganistan,
Pakistan.
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ,
Malaysia, bán đảo Đông Dương, Trung Quốc, Indonexia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã được thanh toán),
hiện chỉ còn ở vùng Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).
Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến
ở Brazil, Mexico, Venezuela, Colombia.
Châu Úc cũng đã được xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid,
2002 [35]; Losos G. J., 1972 [33]) cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến
nhất ở châu Á và châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonexia,
Thái Lan, Lào, Camphuchia, Iran, Philippine.
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái
khác nhau: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng
(1982) [8], bệnh tiên mao trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò
nhiễm bệnh với tỷ lệ cao và thay đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở
đồng bằng nhiễm tiên mao trùng cao hơn vùng trung du và miền núi, đặc
10
biệt ở trâu, bò có nguồn gốc từ miền núi chuyển xuống vùng đồng bằng).
2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng

Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và
thú hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hươu, nai, hổ,
báo, sư tử, chó, mèo, lạc đà, voi thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch ,
nhưng không ký sinh ở người.
Sự lây truyền tiên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là
nhờ các loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng
hút máu (thuộc họ Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh,
hút luôn cả tiên mao trùng vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoẻ,
trong khi hút máu sẽ truyền tiên mao trùng từ vòi hút vào máu con vật
khoẻ. Sự lây truyền này mang tính chất cơ học. Như vậy, ruồi và mòng hút
máu là những vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng quan trọng.
Theo Phan Địch Lân (1974) [11], Phan Địch Lân (2004) [13], phần
lớn các loài mòng tập trung ở khu vực miền núi và trung du. Trong 53 loài
mòng thì có tới 44 loài phân bố ở vùng rừng núi có độ cao dưới 1 .000 mét
so với mặt nước biển, càng lên cao số loài càng ít dần (độ cao trên 1.000
mét chỉ có 26 loài). Ở vùng trung du (rừng thưa, độ cao không quá 500 mét
so với mặt nước biển có 27 loài; vùng đồi trọc chỉ có 9 - 11 loài; vùng rừng núi
ven biển phát hiện chỉ có 8 loài. Những loài mòng phổ biến ở tất cả các vùng là:
Tabanus rubidus, T. striatus, Chrysops dispar, Chrysozoma assamensis.
Những loài mòng chỉ gặp ở vùng núi là: Tabanus flavistriatus, T.
fumifer, Chrysops vander. Miền Bắc nước ta có 4 loài ruồi hút máu, 2 loài
phổ biến ở tất cả các vùng là Stomoxys calcitrans và Liperosis exigua; 2 loài
chỉ thấy ở những vùng sinh cảnh đặc biệt: loài Bdellolarynx sanguinolentus
(chỉ xuất hiện ở vùng có độ cao dưới 1.000 mét), loài Stomoxys indica (chỉ
thấy ở vùng núi Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá).
11
Loài ruồi Stomoxys calcitran là loài ruồi có kích thước trung bình 5
đến 8mm. đầu có mắt kép màu nâu óng ánh, trán rất rộng, chiều rộng trán
bằng ¼ chiều rộng của đầu, chiều rộng của trán giữa gấp 3 lần của trán
cạnh. Con cái chính giữa trán có một dải màu nhạt. Lông trán cạnh có hai

hàng trở lên. Ruồi có một vòi hút dài, cứng để châm hút. Khi đậu nghỉ thì
vòi chĩa về phía trước, khi đốt thì vòi chĩa xuống dưới làm thành góc thẳng
với đầu. Cánh có hàng lông mọc ở gần gốc, phía dưới gân không vượt quá
gân ngang. Bụng: mặt lưng vàng xám, có hai đốm nâu đen hoặc xanh đen ở
hai bên đốt thứ hai, thứ ba. Mặt dưới bụng vàng hơi nâu. Hai khiên lưng
của đốt bụng thứ ba, thứ tư có một vết ngang rõ rệt. Chân có đốt ống vàng
hoặc vàng nâu. (Phan Văn Chinh, 2006) [2].
Theo Phan Địch Lân (1983) [12] thì loài mòng Tabanus rubidus có
các đặc điểm sau:
Con cái:
Đặc điểm chung: Tabanus rubidus là loài mòng màu xám, xám hơi
xanh hoặc trắng nhạt. Kích thước lớn, thân dài 14 đến 24mm. Mắt kép màu
xám xanh hơi nâu có lấp lánh phản chiếu ánh sáng hoặc màu xanh đen hơi
vàng có ánh biếc. Trán màu nâu đỏ, lông vàng và lông đen. Chai trán gốc
hình đầu đạn, không tiếp xúc với mắt kép màu đen bóng, có màu cà phê
nâu, bóng. Chai trán giữa kéo dài từ chai trán gốc tới 1/2 hoặc 2/3 trán màu
đen, xung quanh chai trán giữa về phía đỉnh có lông đen. Chai trán phụ
màu trắng vàng hơi đỏ. Má màu trắng xám phơn phớt đỏ ở má trên, lông
trắng xám. Mặt màu trắng xám, lông trắng xám.
Râu hàm dưới, màu trắng vàng, lông trắng vàng có xen 1 ít lông đen.
Anten đốt thứ nhất và đốt thứ hai nâu đỏ mận, đốt thứ ba nâu đen. Ngực xám,
xám xanh hoặc phơn phớt hồng có ba sọc dọc không rõ, màu xám trắng.
Cánh: màng cánh trong suốt, gân cánh nâu đen không có nhánh phụ.
Mặt lưng của bụng có ba sọc dọc, sọc giữa chạy từ đốt thứ nhất tới đốt thứ
12
sáu không thẳng cạnh mà thành hình răng cưa màu trắng xám do các tam
giác nối tiếp tạo thành. Sọc bên cạnh không nối nhau mà do các đốm bên
cạnh sắp xếp hơi chếch với sọc giữa cùng màu với sọc giữa. Mặt bụng của
bụng màu xám tro bếp.
Con đực:

Đặc điểm chung: Tabanus rubidus con đực nhỏ hơn con cái, đầu rất
to,hai mắt kép xít chặt nhau chỉ để lại một vạch ranh giới và một khoảng
tam giác đỉnh trán cùng chai trán phụ màu vàng hơi nâu. Má, mặt màu
trắng vàng hoặc nâu hơi đỏ, lông trắng bạc hoặc hung hung đỏ. Râu miệng
hung hung đỏ. Râu hàm dưới màu vàng hơi đỏ, lông vàng nâu. Anten màu
đỏ nâu hoặc nâu đen, đầu cuối đậm màu hơn. Ngực, mặt lưng màu trắng
xám hơi vàng có lông vàng và lông đen. Bụng giống con cái, nhỏ thon đầu
cuối nhọn màu vàng nâu đậm, lông vàng và lông đen.
Loài mòng Tabanus kiangsuensis là loài mòng to trung bình, màu nâu vàng
xám hoặc nâu vàng. Trán màu nâu ánh kim, chai trán gốc nối liền với chai
trán giữa hình thành gậy màu nâu đỏ, bong. Chai trán phụ, má, mặt màu
vàng xám. Râu miệng màu trắng vàng. Râu hàm dưới màu trắng vàng, lông
đen xen lẫn lông trắng. Anten màu nâu đỏ đầu cuối hơi sẫm. Mặt lưng của
ngực màu nâu đỏ sẫm, lông đen xen lẫn lông vàng, có ba sọc dọc màu nâu
xám nhạt. Màng cánh nâu nhạt, không có nhánh phụ. Chân màu đỏ nhạt.
Mặt lưng của bụng màu nâu đỏ xám. Từ đốt thứ nhất tới đốt thứ năm có
một đai dọc, giữa màu nâu vàng không rõ rệt lắm. Cạnh đai dọc giữa từ đốt
thứ nhất đến đốt thứ năm có đốm bên hình chữ nhật nằm chếch với đai giữa
cùng màu.( Phan Địch Lân, 1983) [12]; (Phan Văn Chinh, 2006) [2].
Phan Địch Lân (2004) [13] cho biết, kiểm tra ở nhiều địa điểm thấy
hai loài mòng T. rubidus và T. striatus mang tiên mao trùng với tỷ lệ 15,2%
và 14,0%; ruồi hút máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao trùng với tỷ lệ
12,5%. Ở những vùng đang có bệnh tiên mao trùng, kiểm tra ruồi và mòng
13
hút máu dễ dàng tìm thấy tiên mao trùng. Sau khi theo máu vào vòi hút ruồi
và mòng, tiên mao trùng vẫn sống đến giờ thứ 53, thời gian hoạt động mạnh
nhất là từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 34 trung bình là 24giờ. Sự hoạt động của
tiên mao trùng yếu dần từ giờ thứ 35 đến 42. Từ 46 - 53 giờ thì tiên mao
trùng ngừng hoạt động.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo thời

gian: từ 1 -34 giờ có hình thái, kích thước bình thường; 35 - 45 giờ: tiên mao
trùng có hình dạng thay đổi, tăng kích thước chiều rộng và thô dần; 46 -
53 giờ: tiên mao trùng trương to, duỗi thẳng, mất khả năng di động và
ngừng hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh khả năng gây bệnh của tiên mao trùng
sau khi xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus như sau: Thời gian từ giờ thứ
1 đến thứ 5, tiên mao trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch
tương tự như khi truyền thẳng máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ
6 đến thứ 7 chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm phát bệnh, thời gian gây bệnh
kéo dài và thời gian chết của chuột cũng dài. Điều này có thể giải thích là
do độc lực của tiên mao trùng giảm dần và số lượng tiên mao trùng còn
hoạt lực gây bệnh cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập vào mòng
Tabanus rubidus.
2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao
trùng và đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhược, thiếu máu,
giảm sức đề kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (2004) [13] đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172 trâu ở
các tỉnh đồng bằng: trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,l%), trâu
3 - 5 tuổi nhiễm cao hơn (l0,6 - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất
(12,9 - 14,8%), trâu trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm giảm thấp hơn trâu 3 -
8 năm tuổi.
14
Theo Phan Văn Chinh (2006) [2], tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao
nhất ở 4 - 8 năm tuổi (trâu: 12,71%; bò: 5,77%), thấp nhất là trâu, bò dưới
3 năm tuổi (6,92% và 2,31%). Mùa lây lan bệnh thường xảy ra trong các
tháng nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 9). Thời gian này điều
kiện sinh thái thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát triển, hoạt động mạnh,
hút máu súc vật và truyền tiên mao trùng.
Theo Luckins (1988) [34], sự xuất hiện lượng lớn ruồi, mòng trong

mùa mưa nóng ẩm luôn có liên quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao
trùng ở trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân,
trâu bò nhiễm tiên mao trùng phải sống trong điều kiện thời tiết lạnh, thiếu
thức ăn nên sức đề kháng giảm, bệnh thường phát ra vào thời gian này và
trâu bò bị đổ ngã hàng loạt. Tiên mao trùng có sức đề kháng yếu, dễ chết
khi tiếp xúc với nước cất, cồn và thuốc sát trùng.
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh
2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu,
bò, ngựa, tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da.
Theo dõi có thể quan sát được phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò
gây nhiễm thực nghiệm tiên mao trùng, kích thước chỗ viêm phụ thuộc vào
số lượng tiên mao trùng được tiêm truyền (ước chừng khoảng 108 tiên mao
trùng có thể gây viêm da - ở vị trí tiêm truyền), một số lượng lớn tiên mao
trùng phát triển ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu,
trong bạch huyết và ở trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân
chia theo chiều dọc. Số lượng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào
cũng như nhau. Mật độ tiên mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng
tiên mao trùng cho thấy, xen kẽ giữa những sóng tiên mao trùng mạnh là
những đợt sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên mao trùng bắt đầu bằng sự tăng số
15
lượng tiên mao trùng trong máu, sau đó giảm và khó phát hiện thấy tiên
mao trùng. Mỗi đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là biểu hiện sự xuất
hiện một quần thể tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề mặt mới, quần
thể này có thể tiếp tục sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể
xuất hiện kháng thể đặc hiệu với chúng.
Tiên mao trùng phát triển nhanh trong máu, tiêu thụ Glucose và các
chất đạm, chất béo và khoáng chất trong máu ký chủ bằng phương thức
thẩm thấu qua bề mặt cơ thể để duy trì hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị

bệnh, trong 1 ml máu có thể có 10.000 - 30.000 tiên mao trùng. Với số
lượng nhiều như vậy, tiên mao trùng chiếm đoạt dinh dưỡng nhiều, làm cho
súc vật bệnh gây còm, thiếu máu và mất dần khả năng sản xuất sữa, thịt,
mất dần khả năng sinh sản và giảm sức đề kháng với các bệnh khác (Phạm
Sỹ Lăng, Tô Long Thành, 2006) [10].
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra độc tố
Trypanotoxin, độc tố này gồm: độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng
thân trong quá trình sống và độc tố do xác chết của tiên mao trùng phân
huỷ trong máu sau 15 - 30 ngày. Độc tố của tiên mao trùng tác động lên hệ
thần kinh trung ương làm rối loạn trung khu điều hoà thân nhiệt, gây sốt
cao và gián đoạn (lúc sốt, lúc hết sốt xen kẽ nhau). Khi sốt thường có rối
loạn về thần kinh (kêu rống, run rẩy, ngã vật xuống). Độc tố cũng phá huỷ
hồng cầu, ức chế cơ quan tạo máu làm cho vật chủ thiếu máu và suy nhược
dần. Độc tố còn tác động tới bộ máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá, làm
con vật ỉa chảy. Hội chứng tiêu chảy thường xảy ra khi xuất hiện tiên mao
trùng trong máu con vật bệnh.
Khi tăng lên với số lượng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc
các mao mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ
thũng chất keo vàng dưới da.
16
2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu
Trâu bị bệnh thể hiện các triệu chứng lâm sàng chủ yếu như sau:
- Sốt cao và gián đoạn: sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mòng hút máu
truyền tiên mao trùng, trâu bò thường đột ngột lên cơn sốt (40 - 41,7
0
C)
kéo dài 2 - 4 ngày rồi giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian
gián đoạn giữa hai cơn sốt dài hay ngắn tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt,
kiểm tra máu thường thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện

hội chứng thần kinh như điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tường, chạy
vòng quanh kêu rống lên. Trường hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn
ngược rồi đổ ngã vật xuống, sùi bọt mép giống như trâu bị cảm nắng. Sau
20 - 30 phút con vật lại đứng dậy đi lại được. Những trâu bò mắc bệnh có
triệu chứng lâm sàng như trên thường là mắc bệnh ở thể cấp tính.
Trâu, bò bị bệnh mạn tính thường kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai
chân sau, nằm tư thế quỳ và không đi lại được. Mặc dù nằm liệt nhưng vẫn
ăn và nhai lại cho đến khi sắp chết.
- Phù thũng dưới da: phù thũng thường thấy ở vùng thấp của cơ
thể như ở bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ
phận sinh dục.
- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu,
bò bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sưng đỏ
ngầu. Khi khỏi bệnh, mắt có màng trắng (củi nhãn) kéo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân
lỏng, màu vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa
chảy tiếp theo những cơn sốt cách quãng. Ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng
thường dai dẳng và con vật vẫn ăn được.
- Gầy yếu, suy nhược: ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ
sau 7 – 14 ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu

×