Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn tại một số xã trên địa bàn huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai và biện pháp phòng chống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 62 trang )


62


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




LƯƠNG QUANG HÙNG



Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ CỦA HỘI CHỨNG RỐI
LOẠN HÔ HẤP VÀ SINH SẢN Ở LỢN TẠI MỘT SỐ XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BẢO YÊN - TỈNH LÀO CAI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi thú y
Lớp : 41 - TY
Khóa học : 2009 - 2014

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thị Trang


Khoa Chăn nuôi thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên





Thái Nguyên - 2013


55


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên cũng như quá trình thực tập tại cơ sở em đã nhập được sự dạy bảo và
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi thú y và các cán
bộ công nhân viên chức thuộc Trạm thú y huyện Bảo Yên.
Nhân dịp này em xin gủi lời cảm ơn đến ban giám hiệu trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi thú y cùng cán
các bộ công nhân viên chức thuộc Trạm thú y huyện Bảo Yên đã tạo mọi điêu
kiện thuận lợi cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biết em xin bày tỏ long biết ơn sâu sắc tới cô giáo Th.S. Phạm
Thị Trang đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện
khóa luận này
Em xin chân thành cảm ơn người than trong gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp những người đã dành cho em những tình cảm, sự động viên vô cùng
quý báu trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa luận này.
Em xin chúc các thầy cô lãnh đạo nhà trường, các thầy cô trong khoa
chăn nuôi thú y sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt, chúc các bạn sinh viên

mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn !

Thái Nguyên, ngày 06 tháng 12 năm 2013
Sinh viên



Lương Quang Hùng



56
LỜI NÓI ĐẦU

Thực tập tốt nghiệp là một quá trình quan trọng trong đào tạo của nhà
trường. Đây là khoảng thời gian giúp sinh viên tiếp cận với thực tiễn sản suất.
Đồng thời tạo cho mình một tác phong làm việc đúng đắn, tự tin vào bản thân,
có lối sống lành mạnh để trở thành người có trình độ chuyên môn vững vàng,
đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, góp phần vào sự nghiệp phát triền của đất nước.
Được sự nhất trí của ban giám hiệu nhà trường và ban chủ nhiệm khoa
Chăn nuôi thú y trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,của cô giáo hướng
dẫn và sự tiếp nhận của cơ sở nơi tôi tiến hành ngiên cứu đề tài “Nghiên cứu
một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn tại
một số xã trên địa bàn huyện Bảo Yên –tỉnh Lào Cai và biện pháp phòng
chống”.
Trong thời gian thực tập được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng
dẫn Th.S. Phạm Thị Trang, cùng với sự nỗ lực của bản thân em đã hoàn thành
khóa luận này.
Mặc dù đã cố gắp rất nhiều nhưng do thời gian còn hạn, trình độ, kiến thức

còn hạn chế và bước đầu làm quen với công tác ngiên cứu khoa học, kinh ngiệm
thực tế còn chưa nhiều nên trong bản khóa luận này không tránh khỏi những
thiếu sót.
Em rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô
giáo và các bạn đồng nghiệp để bản khóa luận được hoàn thiện hơn.

Sinh viên



Lương Quang Hùng


57
MỤC LỤC


PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích của đề tài 2
1.3. Mục tiêu của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở khoa học 3
2.1.1. Lịch sử bệnh PRRS 3
2.1.2. Tác nhân gây bệnh 6
2.1.3. Sức đề kháng của virus PRRS 8
2.1.4. Cơ chế sinh bệnh 9
2.1.5. Đường truyền lây 11
2.1.6. Triệu chứng lâm sàng 13

2.1.7. Bệnh tích 19
2.1.8. Chẩn đoán 22
2.1.9. Điều trị 24
2.1.10. Phòng bệnh 24
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 26
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 26
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 27
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 29
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 29
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 29
3.3. Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi 29
3.4. Phương pháp nghiên cứu 29
3.4.1. Phương pháp xác định diễn biến dịch và một số đặc điểm dịch tễ của
bệnh PRRS 29


58
3.4.2. Đánh giá mức độ vệ sinh phòng bệnh của các hộ chăn nuôi 29
3.4.3. Phương pháp xác định sự lưu hành virus PRRS 31
3.4.4. Phương pháp xác định nguy cơ bệnh 33
3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 34
PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 35
4.1. Một số đặc điểm dịch tễ của bệnh PRRS 35
4.1.1. Tỷ lệ lợn bệnh trong đàn có dịch 35
4.1.2. Tỷ lệ bệnh PRRS ở một số loại lợn 36
4.1.3. Tỷ lệ lợn mắc bệnh PRRS theo tính biệt 37
4.1.4. Tỷ lệ bệnh PRRS theo mật độ nuôi 37
4.1.5. Tỷ lệ bệnh PRRS theo mức độ vệ sinh phòng bệnh 39
4.2. Sự lưu hành virus PRRS và nguy cơ mắc bệnh 40

4.2.1. Tỷ lệ mang virus PRRS ở một số loại lợn 40
4.2.2. Nguy cơ mắc bệnh ở một số loại lợn 41
4.3. Áp dụng, đánh giá hiệu quả của việc phòng PRRS 42
4.3.1. Áp dụng, đánh giá hiệu quả của quy trình phòng bệnh PRRS tại huyện
Bảo Yên 42
4.3.2. Đề xuất và áp dụng các biện pháp phòng chống 42
4.3.2.1. Biện pháp phòng khi chưa có dịch 42
4.3.2.2. Biện pháp chống khi có dịch 44
PHẦN 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 45
5.1. Kết luận 45
5.2. Tồn tại 46
5.3. Đề nghị 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47


59
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



PRRS : Porcine reproductive and respiratory
syndrome PCR - Polymerase Chain
Reaction
ELISA : Enzyme Linked Immunosorbent Assay
IPMA : Immuno Peroxidase Monolayer Assay
IFAT : Indirect Fluorescent Antibody Test
Cs : Cộng sự
Kg : Kilôgam
TT : Thể trọng
Nxb : Nhà xuất bản

Kb : kilo base
GP : Glucoprotein
KD : Khối lượng phân tử
ORF : Open reading frame
RR : Nguy cơ tương đối



60
DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 2.1. Protein cấu trúc của virus PRRS 8
Bảng 2.2
.
Một số mầm bệnh gây bệnh kế phát thường gặp khi lợn bị
nhiễm virus PRRS 11
Bảng 4.1. Tỷ lệ lợn bệnh trong đàn bị dịch ở một số xã thuộc
huyện Bảo Yên 35
Bảng 4.2. Tỷ lệ mắc bệnh PRRS của các loại lợn tại huyện Bảo Yên 36
Bảng 4.3. Tỷ lệ lợn mắc bệnh PRRS tại huyện Bảo Yên theo tính biệt 37
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sự phát triển của dịch
bệnh PRRS 37
Bảng 4.5. Tỷ lệ mắc bệnh PRRS ở lợn theo mức độ vệ sinh phòng bệnh 39
Bảng 4.6. Sự lưu hành virus PRRS ở lợn tại một số địa điểm thuộc
huyện Bảo Yên 40
Bảng 4.7. So sánh nguy cơ mắc bệnh PRRS ở một số loại lợn 41
Bảng 4.8. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh PRRS ở lợn tại huyện
Bảo Yên - tỉnh Lào Cai 42
















61
DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 2.1: Virus PRRS 6
Hình 2.2: Cấu trúc virus PRRS 6
Hình 2.3: Cấu trúc gen Virus PRRS 6
Hình 2.4: Virus PRRS xâm nhập và phá hủy đại thực bào 9
Hình 2.5: Lợn thịt có biện hiện sốt cao và tai tím 16
Hình 2.6: Lợn bị PRRS có biểu hiện tai, mõm tím 16
Hình 2.7: Lợn nái bị sảy thai do PRRS 16
Hình 2.8: Lợn đực bị viêm dịch hoàn do PRRS 16
Hình 2.9. Bệnh tích ở phổi của lợn bị bệnh PRRS 21


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nhiều ngành kinh tế,
ngành chăn nuôi thú y cũng đã và đang phát triển khá mạnh mẽ đem lại sự
thay đổi tích cực cả về số lượng lẫn chất lượng, không những đáp ứng thực
phẩm cho nhu cầu trong nước, mà còn phục vụ cho xuất khẩu, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội, góp phần đưa nền kinh tế của nước ta ngày
càng phát triển.
Ngành chăn nuôi thú y nói chung, ngành chăn nuôi lợn nói riêng là một
nghề có truyền thống lâu đời và phổ biến của nhân dân ta. Ngành chăn nuôi
lợn đã và đang phát triển cả về số lượng, chất lượng cũng như cơ sở vật chất
phục vụ chăn nuôi, tất cả vì mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm cho nhu
cầu tiêu dùng của người dân trong nước cũng như trong xuất khẩu. Tuy nhiên,
do ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ, ánh sáng, khí hậu ,
và công tác vệ sinh phòng bệnh không đảm bảo nên dịch bệnh thường xuyên
xảy ra và có những biến đổi khó lường, đặc biệt trong những năm gần đây
bệnh rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn đã xảy ra ở rất nhiều nơi trong cả nước
và gây thiệt hại rất lớn cho người chăn nuôi.
Đây là dịch bệnh mới ở lợn, làm chết và phải tiêu huỷ hàng triệu con
lợn, gây thiệt hại nhiều tỷ đồng. Hiện nay, bệnh vẫn đang bùng phát và diễn
biến rất phức tạp tại một số địa phương của nước ta. Nguy cơ dịch bùng phát
và lây lan ra khắp cả nước là rất cao. Trong khi đó, người chăn nuôi lại thiếu
hiểu biết về bệnh, chưa tìm ra biện pháp điều trị bệnh có hiệu quả cao, dẫn
đến tình trạng bán chạy lợn ốm làm cho dịch càng diễn biến phức tạp hơn. Vì
vậy, việc nghiên cứu về bệnh để tìm ra biện pháp điều trị và khống chế dịch
bệnh, hướng dẫn cho người chăn nuôi là yêu cầu hết sức cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng rối loạn hô hấp và

sinh sản ở lợn tại một số xã trên địa bàn huyện Bảo Yên - tỉnh Lào Cai và biện
pháp phòng chống”.

2
1.2. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh PRRS để đề xuất biện pháp
phòng chống phù hợp, hiệu quả cao áp dụng cho địa phương.
1.3. Mục tiêu của đề tài
- Có kết luận cụ thể về tình hình dịch bệnh PRRS ở lợn trên địa bàn
huyện Bảo Yên - tỉnh Lào Cai
- Đánh giá tình hình phòng bệnh và xác định tỷ lệ lưu hành virus
PRRS ở một số địa điểm để từ đó dự đoán được nguy cơ tái phát dịch tại
huyện Bảo Yên - tỉnh Lào Cai.
- Đưa ra biện pháp phòng bệnh phù hợp, có hiệu quả với địa phương và
hướng dẫn cho người chăn nuôi thực hiện nhằm hạn chế dịch bệnh.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học góp phần phục vụ
cho các nghiên cứu tiếp theo về bệnh ở lợn nuôi tại huyện và làm tư liệu tham
khảo cho các cán bộ thú y trong địa bàn huyện.
- Các kết quả nghiên cứu sẽ tạo tiền đề cho việc phòng chống dịch bệnh
hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp cho các hộ gia đình trên địa bàn huyện
Bảo Yên - Lào Cai.









3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Lịch sử bệnh PRRS
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản của lợn (Porcine reproductive and
respiratory syndrome - PRRS) được ghi nhận lần đầu tiên ở Mỹ tại phía Bắc
của Bang California, Bang Iowa và Minesota năm 1987. Rất nhanh chóng, năm
1988 bệnh đã lan sang Canada. Sau đó, bệnh cũng xuất hiện ở một số nước
Châu Âu: Đức năm 1990, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bỉ, Anh năm 1991, Pháp năm
1992. Năm 1998, bệnh được phát hiện ở một số nước Châu Á như: Hàn Quốc,
Nhật Bản.
Thời gian đầu do chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh nên bệnh
được gọi theo nhiều tên khác nhau như: Bệnh bí hiểm ở lợn (Mistery Swine
disease - MDS); Bệnh PRRS (Blue Ear disease - BED); Hội chứng hô hấp và
sảy thai ở lợn (Porcine Endemic Abortion and Respiratory Syndrome -
PEARS)… Đến năm 1992, Hội nghị quốc tế về hội chứng này được tổ chức tại
Minnesota (Mỹ), Tổ chức thú y thế giới (OIE) đã thống nhất tên gọi là Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (Porcine reproductive and respiratory
syndrome - PRRS).
Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2007) [7] cho biết: từ năm 2005 trở
lại đây, 25 nước và vùng lãnh thổ thuộc tất cả các châu lục trên thế giới đều có
dịch PRRS lưu hành (trừ Châu Úc và Newzeland). Dịch bệnh PRRS đã gây tổn
thất lớn về kinh tế cho ngành chăn nuôi lợn ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, năm 1997 bệnh được phát hiện trên đàn lợn nhập từ Mỹ
vào các tỉnh phía Nam. Kiểm tra huyết thanh cho kết quả 10/51 con lợn giống
nhập khẩu đó có huyết thanh dương tính với PRRS.
Theo báo cáo của Cục thú y (2007) trong nhiều năm qua đã có một tỷ lệ
nhất định lợn giống có huyết thanh dương tính với PRRS. Như vậy, virus

PRRS đã xuất hiện và lưu hành tại nước ta từ năm 1997. Sau 10 năm, bệnh bất
ngờ bùng phát thành đại dịch, bắt đầu ở tỉnh Hải Dương (12/3/2007). Do công
tác kiểm soát việc vận chuyển, buôn bán, giết mổ chưa được chặt chẽ nên bệnh

4
đã lây lan nhanh và phát triển mạnh tại 6 tỉnh nữa thuộc vùng đồng bằng Sông
Hồng là Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang và Thành
Phố Hải Phòng với tổng số 31.750 lợn mắc bệnh, số lợn chết lên tới 7.296
con. Sau hơn 1 tháng tích cực khống chế, dịch PRRS ở vùng này đã được
dập tắt tạm thời.
Tháng 6/2007, dịch lại xuất hiện ở các tỉnh Miền Trung như Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên, Huế với 33.433 lợn mắc bệnh và
7.127 lợn chết.
Ngày 28/7/2007, tại Long An cũng xác định có dịch với 91 lợn bệnh và
8 con chết. Từ đó, dịch bệnh bắt đầu xâm nhập Đồng bằng Sông Cửu Long.
Tháng 9/2007, dịch được phát hiện ở Trung tâm giống lợn tỉnh Cà Mau.
Dịch tiếp tục diễn biến phức tạp. Đến tháng 6/2008, Bạc Liêu xuất hiện
dịch và chỉ sau 1 tuần đã có 18 hộ bị dịch với 170 con lợn mắc bệnh. Tháng
7/2008, nhiều tỉnh Miền Trung lại xảy ra dịch như Quảng Trị, Thừa Thiên,
Huế, Quảng Nam …
Báo cáo tổng hợp của Cục thú y (25/7/2008) [39] cho biết, từ giữa tháng
5/2008-25/7/2008, dịch PRRS đã xảy ra ở 90 xã phường, thị trấn thuộc 30
huyện, thị của 14 tỉnh với gần 17.000 lợn mắc bệnh, trong đó gần 15.000 con
chết và buộc tiêu huỷ.
Theo báo cáo Cục Thú y (Bộ NN-PTNT) ngày 18/4/2013 [40] xác nhận
dịch heo tai xanh đã tái phát tại Bắc Ninh và Thái Bình. Cơ quan hữu trách
vừa phát hiện các ổ dịch tại Huyện Thuận Thành (Bắc Ninh), các huyện Vũ
Thư và Kiến Xương (Thái Bình) làm trên 400 con heo mắc bệnh.Ngoài ra,
dịch bệnh nguy hiểm này đang tấn công đàn heo của 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Nam Định

Tại Lào Cai, Ngày 15/7/2010, ông Đào Duy Kiên - Chi cục trưởng Chi
cục Thú y Lào Cai cho biết: tại 4 tổ dân phố của phường Duyên Hải, thành
phố Lào Cai (Lào Cai) đã phát hiện dấu hiệu của rối loạn hô hấp và sinh sản ở
lợn (bệnh tai xanh - PRRS) làm 122 con lợn mắc bệnh, trong tổng số 181 con
của 12 hộ. Ngày 5/1/2011, Cục Thú y (Bộ NN&PTNT) cho biết, Lào Cai là
tỉnh đầu tiên trong cả nước xuất hiện dịch lợn tai xanh trong năm 2010.

5
Theo Cục Thú y, từ ngày 16/12/2011 đến 26/12/2011, dịch tai xanh xảy
ra tại 9 hộ chăn nuôi của 5 thôn ở xã Bảo Hà (huyện Bảo Yên) làm 66 con lợn
mắc bệnh, 45 con lợn bị chết trong tổng đàn 127 con.
Ngày 7/2/2012, Chi cục thú y thành phố Lào Cai đã lập biên bản, tổ
chức tiêu hủy 6 con lợn tổng trọng lượng hơn 600 kg được xác định là nhiễm
dịch tai xanh.
Tại Huyện Bảo Yên, từ ngày 16/12/2011 - 12/01/2012, đã phát hiện
dịch bệnh rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn - PRRS ( bệnh lợn tai xanh) xảy ra
tại xã Bảo Hà; ngày 11/01/2012 - 16/01/2012 phát hiện dịch lợn tai xanh lây
lan sang xã Kim Sơn. Ngoài ra cũng phát hiện có hiện tượng lây lan dịch bệnh
tai xanh sang xã Cam Cọn; từ ngày 10/02/2012 đến nay phát hiện dịch bệnh
lợn tai xanh tại thị trấn Phố Ràng.
Tổng số gia súc mắc bệnh dịch lợn tai xanh phải tiêu huỷ là 281 con
lợn (khối lượng 13.549 kg) của 46 hộ thuộc 16 thôn, bản, tổ dân phố ở 03 xã,
thị trấn.
Xã Bảo Hà: có 185 con lợn mắc bệnh(tổng khối lượng 8.124 kg) ở 31
hộ, 13 thôn bản.
Xã Kim Sơn: có 86 con lợn mắc bệnh (tổng khối lượng 4.794 kg) ở 13
hộ của 01 thôn bản.
Thị trấn Phố Ràng: có 10 con lợn mắc bệnh (tổng khối lượng 631 kg) ở
02 hộ của 02 tổ dân phố.
Đây là điểm bùng phát dịch lợn tai xanh đầu tiên của tỉnh Lào Cai trong

năm 2012, báo hiệu nguy cơ dịch tai xanh xuất hiện trở lại tại tỉnh Lào Cai.
Trên địa bàn huyện Bảo Yên, năm 2013 xuất hiện một số điểm dịch lẻ
tẻ tại một số hộ chăn nuôi, do việc phát hiện sớm và kịp thời phòng chống nên
đã khống chế được dịch.


6
2.1.2. Tác nhân gây bệnh




Hình 2.1: Virus PRRS Hình 2.2 : Cấu trúc virus PRRS

Hình 2.3 : Cấu trúc gen Virus PRRS
Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [20], ban đầu người ta cho rằng bệnh do
một số virus như Parvo virus, virus giả dại (Pseudomonas), virus cúm lợn (Porcine
enterovirus), đặc biệt là virus gây viêm não - cơ tim (Encephalomycarditis) gây

7
lên. Sau đó, người ta đã xác địch được một loại virus mới tại ổ dịch của lợn ở
Hà Lan năm 1991 và đặt tên là virus Lelystad (đó là tên của Viện thú y Hà Lan
- nơi tìm ra virus này). Đây mới là nguyên nhân chính gây ra bệnh PRRS
(PRRS) ở Châu Âu.
Jenny G.Cho và cs (2006) [31] đã nghiên cứu sâu về loại virus này cho
biết,: virus gây bệnh có hai chủng nguyên mẫu (Prototype) đó là chủng Bắc Mỹ
có tên là virus VR2332 và chủng Châu Âu là virus Lelystad. Các chủng virus
này đại diện cho hai genotype khác biệt nhau khoảng 40%.
Albania E. và cs (1994) [29] thấy rằng, các virus phân lập từ các vùng
địa lý khác nhau có sự khác biệt về tính di truyền. Bản thân các virus trong

cùng một nhóm cũng có chuỗi Nucleotit khác nhau khoảng 20% (đặc điểm này
thấy rất rõ ở các chủng virus Bắc Mỹ). Qua đó cho thấy, virus này có khả năng
biến chủng rất lớn. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn trong việc chế tạo và sử
dụng vacxin phòng bệnh. Đặc biệt, ở một số quốc gia, các nhà khoa học còn
phát hiện thấy căn bệnh lưu hành trên đàn lợn gồm cả hai chủng virus Bắc Mỹ
và Châu Âu.
* Đặc điểm hình thái, cấu tạo của virus
Theo Frederick A.Murphy và cs (1996) [30], virus PRRS là một loại
virus thuộc họ Arteriviridae, gần giống với virus gây viêm khớp ngựa (Equine
virus – EAV) và virus gây sốt xuất huyết trên khỉ (Simian hemorrhagic fever
virus – SHFV). Nhưng theo Leman A.D và cs (1996) [32], virus PRRS là ARN
virus thuộc họ Togaviridae, có đường kính khoảng 50- 100 nm.
Nguyễn Bá Hiên và cs (2007) [7] cho biết, virus PRRS là một virus hình
cầu, có vỏ bọc ngoài với đường kính của virion vào khoảng 45 – 55 nm,
Nucleocapsid có đường kính từ 30 – 35 nm. PRRS là ARN virus với bộ gen là
một phân tử ARN sợi đơn có kích thước khoảng 15 kilo base (kb), có 9 ORF

8
(Open reading frame) mã hoá cho 9 protein cấu trúc. Trong đó có 6 phân tử
protein chính có khả năng trung hoà kháng thể là 4 phân tử Glucoprotein (GP),
1 phân tử protein màng (M), 1 phân tử protein vỏ nhân (N). Hoạt động trung
hoà chủ yếu xảy ra mạnh với các protein có khối lượng phân tử 45 KD (GP3),
31 KD (GP4) và 25 KD (GP5). Protein cấu trúc của virus PRRS được trình bày
ở bảng sau.
Bảng 2.1. Protein cấu trúc của virus PRRS
Protein

Kh
ối l
ư

ợng phân
t
ử (KD)

Gen mã hoá Vai trò
GP3 45 ORF3 Quan trọng trong miễn dịch
GP4 31 ORF4
GP2 29 ORF2
GP5 25 ORF5 Bám dính tế bào đa dạng
nhất
M 19 ORF6 Có tính bảo tồn cao nhất
N 19 ORF7 Tính kháng nguyên cao

2.1.3. Sức đề kháng của virus PRRS
Cũng giống như các virus khác, virus PRRS có khả năng tồn tại lâu ở
môi trường có nhiệt độ thấp, đề kháng kém với nhiệt độ cao và các chất sát
trùng thông thường, môi trường có pH axit.
Ở nhiệt độ thấp: - 20 đến -70°C, virus này có thể tồn tại được 1 năm, ở
nhiệt độ 4°C virus có thể tồn tại 1 tháng (Wills R.W và cs, 1997) [34].
Ở 37°C virus chịu được 48 h. Ở 56°C virus tồn tại được 30-90 phút
(Leman A.D và cs, 1996) [32].

9
Ánh sáng mặt trời và tia tử ngoại diệt được virus nhanh chóng. Các
chất sát trùng như nước vôi 10%, nước Javen, Han-Iodine …và môi trường có
pH axit đều diệt được virus dễ dàng.
2.1.4. Cơ chế sinh bệnh


Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11] cho biết, virus PRRS có ái lực cao với

đại thực bào, đặc biệt là đại thực bào phế nang. Vì vậy, sau khi xâm nhập vào
cơ thể lợn, đích tấn công của virus PRRS là các đại thực bào. Đây là tế bào duy
nhất có receptor phù hợp với cấu trúc hạt của virus này. Trong đó, các đại thực
bào vùng phổi thường bị virus xâm nhập rất sớm.
Đại thực bào có chức năng loại trừ vi khuẩn, virus và những vật lạ xâm
nhập vào cơ thể để bảo vệ cơ thể. Tuy nhiên, chúng không có khả năng tiêu
diệt được virus PRRS. Do đó, virus này có thể tồn tại, nhân lên trong đại thực
bào và giết chết (phá huỷ) đại thực bào.


Hình 2.4: Virus PRRS xâm nhập và phá hủy đại thực bào

10
Theo Nguyễn Bá Hiên và cs (2007) [7], có khoảng 40% tế bào đại thực
bào bị phá huỷ. Lúc đầu, Virus PRRS có thể kích thích các tế bào này tăng
cường hoạt động, nhưng sau hai hoặc ba ngày virus sẽ phá huỷ chúng. Nhờ đó,
các virion được giải phóng ra nhanh chóng và ồ ạt xâm nhiễm sang các tế bào
đại thực bào khác để tiếp tục một chu kỳ mới. Ở giai đoạn đầu quá trình virus
PRRS xâm nhiễm, dường như hiệu giá kháng thể chống lại các loại virus và vi
khuẩn không liên quan khác trong cơ thể lợn tăng cao do sự kích hoạt của đại
thực bào trong hệ thống miễn dịch. Điều này rất dễ gây ra sự nhầm lẫn trong
việc đánh giá mức độ miễn dịch đối với các bệnh truyền nhiễm khác ở cơ thể
lợn khi không nắm rõ cơ chế này.
Đại thực bào đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể. Nó
tham gia cả đáp ứng miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu. Đây là loại tế bào
trình diện kháng nguyên thiết yếu, mở đầu cho quá trình đáp ứng miễn dịch đặc
hiệu. Vì vậy, khi tế bào đại thực bào bị virus PRRS phá huỷ, các phản ứng
miễn dịch sẽ không xảy ra được. Như thế, lợn nhiễm bệnh sẽ rơi vào trạng thái
suy giảm miễn dịch và dễ dàng mắc các bệnh nhiễm trùng thứ phát. Điều này
có thể thấy rõ ở những đàn lợn vỗ béo chuẩn bị giết thịt. Khi bị nhiễm Virus

PRRS, chúng sẽ có sự tăng đột biến tỷ lệ viêm phổi kế phát do những vi khuẩn
vốn có sẵn trong đường hô hấp.
Qua đó có thể thấy, xét về bản chất cơ chế sinh bệnh PRRS tương tự với
cơ chế sinh bệnh HIV ở người và Gumboro ở gà. Nếu chỉ có virus PRRS xâm
nhập vào cơ thể lợn gây bệnh thì lợn sẽ không có biểu hiện triệu chứng như vậy.
Nhưng do virus PRRS gây nên hội chứng suy giảm miễn dịch ở lợn nên hàng
loạt các vi khuẩn khác có sẵn trong cơ thể hoặc xâm nhập từ ngoài vào gây bệnh,
làm cho lợn bệnh xuất hiện hàng loạt triệu chứng của các bệnh kế phát.
Nguyễn Văn Thanh (2007) [20] cho rằng, virus nhân lên ở phế nang, phá
huỷ tế bào nội mạc mạch máu làm giảm sản sinh tế bào trong hạch lâm ba, khiến
cho lợn giảm sức đề kháng nên dễ nhiễm những bệnh kế phát khác.

11
Theo Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Thị Lan (2007) [14] và công ty dược
phẩm vật tư thú y Hanvet (2007) [3], một số mầm bệnh gây bệnh kế phát
thường gặp khi lợn bị nhiễm PRRS được tổng hợp ở bảng dưới đây.
Một số mầm bệnh gây bệnh kế phát thường gặp khi lợn bị nhiễm
virus PRRS

Bảng 2.2
.
Một số mầm bệnh gây bệnh kế phát thường gặp khi lợn
bị nhiễm virus PRRS

Cơ quan Mầm bệnh Gây bệnh
Đường hô hấp
Mycoplasma hyopneumoniae Suyễn
Pasteurella multocida Tụ huyết trùng
Haemophilus parasuis Viêm đường hô hấp
Bordetella bronchiseptica Viêm teo mũi

Streptococcus suis Liên cầu khuẩn
Đường tiêu hoá

Salmonella cholerae suis Phó thương hàn
E.coli E.coli
Clostridium spp Viêm ruột hoại tử
Pestis virus Dịch tả

2.1.5. Đường truyền lây
Để có biện pháp phòng chống và loại trừ bệnh hiệu quả, hiểu biết về
phương thức lan truyền bệnh là một việc hết sức cần thiết.
Con đường lây nhiễm bệnh PRRS chủ yếu là qua đường hô hấp, qua thụ
tinh (cả tự nhiên và nhân tạo), qua tiếp xúc hoặc từ mẹ sang con.
Lợn bị bệnh hoặc mang trùng sẽ phát tán virus PRRS ra bên ngoài qua
dịch mũi, nước bọt, sữa, phân, nước tiểu, tinh dịch … Lợn trưởng thành có thể

12
bài xuất virus trong vòng 14 ngày. Trong khi đó, lợn con và lợn choai có thể
bài thải virus trong vòng 6 tháng (Nguyễn Bá Hiên và cs, 2007) [7]. Còn theo
Nguyễn Văn Thanh (2007) [20] thì thời gian bài thải virus PRRS của lợn con
chỉ từ 1 - 2 tháng.
Văn Đăng Kỳ và cs (2007) [9] cho biết, virus xâm nhập qua miệng, mũi,
nội cơ, nội phúc mạc, âm đạo và được bài thải qua nước tiểu đến 42 ngày, qua
nước mũi, nước mắt đến 14 ngày, qua tinh dịch tới 43 ngày. Virus tồn tại lâu và
âm thầm trong cơ thể vật chủ. Người ta có thể phát hiện được virus từ mẫu hầu
họng lợn 157 ngày sau khi tiêm thí nghiệm. Ở lợn nái mang thai, virus có thể
lây nhiễm cho bào thai ở giai đoạn kỳ giữa trở đi, đồng thời virus cũng được
bài thải qua nước bọt và sữa lợn mẹ.
Theo website: [38],
virus có khả năng phát tán thông qua các hình thức như vận chuyển lợn mang

trùng, phát tán trong không khí theo gió (virus có thể đi xa tới 3 km), thông qua
thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi và dụng cụ bảo hộ lao động nhiễm
trùng, thụ tinh tự nhiên và nhân tạo hoặc có thể phát tán do một số loài chim
hoang dã, vịt trời, côn trùng.
Trong các con đường lây nhiễm kể trên, có thể nói lây nhiễm qua thụ
tinh nhân tạo là nguy hiểm hơn cả (Nguyễn Văn Thanh, 2007) [20]. Bởi vì,
hiện nay trong chăn nuôi lợn, công tác kiểm dịch đối với tinh dịch, đặc biệt là
trong lĩnh vực vận chuyển tinh dịch còn rất nhiều bất cập. Người ta có thể cấm
mua bán, vận chuyển lợn bị dịch nhưng chưa có văn bản nào đề cập tới việc
cấm vận chuyển tinh dịch ra ngoài vùng có dịch. Ngoài ra, một số đực giống có
sức đề kháng tốt, nhiễm virus ở thể mang trùng, không có biểu hiện bệnh, nếu
không kiểm tra tinh dịch mà chỉ dựa trên lâm sàng sẽ không phát hiện được con
bị bệnh để loại ra.
Sự lây lan của bệnh do các nhân tố khác như do tiếp xúc, do hô hấp, do
mẹ truyền sang con … chỉ trong một phạm vi hẹp, còn sự lây lan bệnh thông
qua con đường vận chuyển tinh dịch lại có thể xảy ra trên một phạm vi lớn có
thể tới vài trăm km trong một thời gian ngắn. Một lợn đực giống bị nhiễm bệnh
thì chỉ tính trong một lần khai thác tinh nhân tạo đã lây bệnh cho 40 - 50 con
lợn nái. Hiện tại, hàng ngày có một số lượng hàng mấy nghìn liều tinh dịch lợn

13
được lưu thông tự do trên thị trường. Như vậy, nếu nguồn tinh dịch này không
được kiểm tra chặt chẽ và bị nhiễm virus PRRS thì chỉ trong một ngày đã có
hàng nghìn lợn nái bị nhiễm, hậu quả sẽ vô cùng to lớn và gây khó khăn cho
công tác phòng chống dịch.
2.1.6. Triệu chứng lâm sàng
Nguyễn Văn Thanh (2007) [20] cho biết, triệu chứng lâm sàng của bệnh
thể hiện rất khác nhau. Theo ước tính, cứ ba đàn lần đầu tiếp xúc với mầm bệnh
thì một đàn không có biểu hiện, một đàn có biểu hiện mức độ vừa và một đàn
biểu hiện ở mức độ nặng. Tuy nhiên, với những đàn khoẻ mạnh, sức đề kháng

cao thì mức độ bệnh cũng giảm nhẹ hơn, hoặc có thể do virus tạo nhiều biến
chủng với độc lực khác nhau. Thực tế cho thấy, nhiều đàn có huyết thanh
dương tính nhưng không có dấu hiệu lâm sàng. Đây chính là nguồn bệnh nguy
hiểm bởi rất khó phát hiện hết để kiểm soát.
Ngoài ra, như phần trên đã nói, cơ chế sinh bệnh PRRS là gây nên hội
chứng suy giảm miễn dịch ở lợn, tạo điều kiện cho các vi khuẩn khác gây bệnh
kế phát. Do đó, triệu chứng lâm sàng của bệnh biểu hiện rất đa dạng và phong
phú. Nó phụ thuộc vào bệnh kế phát, mức độ suy giảm miễn dịch, tuổi lợn, giới
tính và loại lợn. Bệnh kế phát khác nhau, loại lợn khác nhau thì sẽ có biểu hiện
triệu chứng tương đối khác nhau. Tuy nhiên, qua theo dõi một số lượng lớn lợn
bệnh thì chúng vẫn có một số triệu chứng chung của bệnh và triệu chứng điển
hình của từng bệnh kế phát.
2.1.6.1. Triệu chứng chung của bệnh
Thời gian ủ bệnh trong điều kiện thực nghiệm khoảng 3 - 5 ngày, tính
đến khi vật bỏ ăn và sốt, 14 - 28 ngày đến lúc đẻ non. Những báo cáo về các
trường hợp thực tế của bệnh gây ra do vận chuyển lợn bao gồm thời gian ủ
bệnh 3 - 24 ngày (trung bình 19 ngày, 9 đàn), 14 - 37 ngày (8 đàn), 28 ngày (1
đàn), 10 - 18 ngày (trung bình 14 ngày, 6 đàn) và 10 - 14 ngày (1 đàn).
Sự khác nhau về thời gian ủ bệnh có thể phản ánh sự khác nhau về độc
lực giữa các chủng virus, sự khác nhau về mật độ của đàn bị bệnh, sức đề
kháng của vật nuôi hoặc sự khác nhau về khả năng của người chăn nuôi và
người cán bộ thú y phát hiện ra triệu chứng lâm sàng.

14
Theo nghiên cứu của Phạm Ngọc Thạch và cs (2007) [18], thời gian
nung bệnh từ 3 - 7 ngày. Lợn bị bệnh có dấu hiệu đầu tiên là sốt 40 - 42 °C
(100%), bỏ ăn, mẩn đỏ, chứng xanh da (ở các vùng ngoại biên, trong đó ở tai là
chủ yếu), thở khó, tần số hô hấp và nhịp tim tăng nhiều so với sinh lý bình
thường. Triệu chứng lâm sàng theo từng loại lợn cụ thể như sau:
• Lợn nái:

Trong tháng đầu tiên khi bị nhiễm bệnh, lợn nái thường biếng ăn, sốt 40
- 41°C, một số con tai chuyển màu xanh trong thời gian ngắn, tím đuôi, tím âm
hộ, sảy thai. Hiện tượng rõ nhất của bệnh là hiện tượng sảy thai, đẻ non hay
thai chết lưu, thai gỗ hàng loạt. Lợn con đẻ ra yếu ớt, tỷ lệ tử vong cao có thể
lên tới 70% (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2006) [11].
Leman A.D và cs (1996) [32] nghiên cứu và cho biết, một số triệu chứng
chủ yếu của lợn nái khi mắc PRRS là sảy thai, đẻ non (vào khoảng ngày 107-113
của thai kỳ) nếu nặng có thể chết. Tỷ lệ thai khô khoảng 20%. Còn theo Phạm
Ngọc Thạch và cs (2007) [18], tỷ lệ thai chết tăng lên theo độ tuổi của thai: Thai
dưới 2,5 tháng tỷ lệ chết là 20%, thai trên 2,5 tháng tỷ lệ chết là 93,75%.
Do virus PRRS xâm nhập và gây bệnh ở phổi nên lợn nái bị thiếu oxy,
gây rối loạn chuyển hoá của thai. Thai bị suy dinh dưỡng dẫn đến chết thai.
Lợn chửa kỳ cuối có nhu cầu oxy tăng cao hơn vì phải nuôi thai (kỳ cuối thai
tăng trưởng nhanh nên nhu cầu oxy tăng gấp bội). Do đó, lượng oxy thiếu hụt
càng lớn, làm cho thai hay bị sảy vào giai đoạn này. Sau sảy thai, tế bào nội
mạc tử cung bị thoái hoá, viêm, hoại tử nên làm chậm các quá trình sinh lý
khác của lợn nái.
Cục thú y (2008) [5] cho biết, một số triệu chứng lâm sàng ở lợn nái các
giai đoạn khác nhau cũng có sự khác nhau:
- Lợn nái giai đoạn cạn sữa: trong tháng đầu tiên bị nhiễm virus PRRS,
lợn biếng ăn từ 7 - 14 ngày (10 - 15% đàn), sốt, sảy thai thường vào giai đoạn
cuối (1 - 6%), tai chuyển màu xanh trong khoảng thời gian ngắn (2%), đẻ non
(10 - 15%), động dục giả (3 - 5 tuần sau khi thụ tinh), không động dục hoặc
chậm động dục trở lại sau khi đẻ, ho và có dấu hiệu viêm phổi.
- Lợn nái giai đoạn đẻ và nuôi con: biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và
viêm vú, đẻ sớm khoảng 2 - 3 ngày, da biến màu, lờ đờ hoặc hôn mê, thai gỗ

15
(10 - 15% thai chết trong 3 - 4 tuần cuối của thai kỳ), lợn con chết ngay sau khi
sinh (30%), lợn con yếu.

Như vậy, ảnh hưởng của PRRS tới sản xuất là làm giảm tỷ lệ sinh 10 -
15%, giảm số lượng con sống sót sau sinh, tăng lượng con chết khi sinh, lợn
hậu bị có thể sinh sản kém, đẻ sớm, tăng tỷ lệ sảy thai (2 - 3%), lợn mẹ bỏ ăn
giai đoạn sinh con làm giảm khối lượng sơ sinh.
• Lợn đực giống:
Lợn đực bị bệnh thường bỏ ăn, sốt, triệu chứng chủ yếu là viêm dịch
hoàn, bìu dái nóng đỏ (95%), hòn cà sưng đau lệch vị trí chiếm 85% (Lê Văn
Năm, 2007) [16]. Lợn đực giảm hưng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh dịch
ít, chất lượng tinh dịch kém: Nồng độ tinh trùng (C) < 80.10
6
; Hoạt lực của tinh
trùng (A) < 0,6; Sức kháng của tinh trùng (R) < 3000; Tỷ lệ kỳ hình (K) >
10%; Tỷ lệ sống của tinh trùng < 70% và độ nhiễm khuẩn > 20.10
3
(Trương
Lăng và cs, 2003) [12]. Chất lượng tinh dịch kém làm giảm tỷ lệ thụ thai, con
sinh ra nhỏ, yếu. Lợn đực giống bị bệnh phải một thời gian dài mới có thể hồi
phục được khả năng sinh sản.
• Lợn con theo mẹ:
Lợn thường bỏ ăn, thể trạng gầy yếu, nhanh chóng rơi vào tình trạng tụt
đường huyết do không bú mẹ, mắt có dử màu nâu, mí mắt sưng, trên da có vết
phồng rộp, tiêu chảy nhiều, hắt hơi, tăng tần số hô hấp, khó thở, một số có thể
chết (Archie Hunter, 2000) [25].
Trần Minh Châu (2005) [2] cho biết, lợn con bị bệnh thường tiêu chảy
hàng loạt và rất nặng, phân dính xung quanh hậu môn. Đây là triệu chứng đặc
trưng ở lợn con chưa cai sữa còn ở lợn lớn hơn thường ít thấy hoặc nhẹ hơn.
Wills R.W và cs (1997) [34] thấy, lợn con bị bệnh nặng có hiện tượng
lạc giọng, khản tiếng, thở khó, thở thể bụng, chảy nước mũi, khớp đau, sưng, đi
lại khó khăn. Tỷ lệ tử vong ở loại lợn này thường khá cao. Hầu như lợn con
sinh ra và chết sau vài giờ. Số còn sống tiếp tục chết vào tuần thứ nhất sau khi

sinh, một số tiếp tục sống với thể trạng gầy yếu.
• Lợn cai sữa và lợn thịt:
Lợn chán ăn, lông xơ xác. Triệu chứng tập trung chủ yếu ở đường hô
hấp như: Lợn bị viêm phổi nặng, ho nhiều, thở rất khó khăn, thở dốc, thở thể
bụng. Do bị viêm phổi nặng nên có hiện tượng da xanh (đặc biệt là hiện tượng
tai xanh xuất hiện rất sớm) - Đây là triệu chứng điển hình và chiếm tỷ lệ lớn ở

16
loại lợn này. Tuy nhiên, ở một số đàn có thể không có triệu chứng gì (Cục thú
y, 2008) [5].
Theo Lê Văn Năm (2007) [16], lợn cai sữa và lợn thịt bị bệnh thường có
mí mắt sưng húp, màu đỏ thẫm làm cho mắt lõm sâu tạo nên một quầng thâm
xung quanh mắt trông như “lợn đeo kính râm”. Tỷ lệ tiêu chảy ở loại lợn này
thấp nhưng tỷ lệ táo bón lại rất cao so với lợn con theo mẹ.
Ngoài ra, trong trường hợp ghép với bệnh khác có thể thấy viêm phổi
lan toả cấp tính, hình thành nhiều ổ áp-xe, thể trạng gầy yếu, da xanh, tiêu
chảy, ho nhẹ, hắt hơi, chảy nước mắt, thở nhanh, tỷ lệ chết có thể tới 15%. Tỷ
lệ chết cao như vậy chủ yếu là do bội nhiễm các vi khuẩn kế phát.
• Lợn vỗ béo và lợn sắp xuất chuồng
Lợn bệnh có các triệu chứng giống như bị cúm, viêm phổi. Lợn ốm có
thể kéo dài ba tuần, tỷ lệ chết 1 - 5%.



Hình 2.5: Lợn thịt có biện hiện sốt
cao và tai tím
Hình 2.6: Lợn bị PRRS có biểu hiện
tai, mõm tím



Hình 2.7: Lợn nái bị sảy thai do
PRRS
Hình 2.8: Lợn đực bị viêm dịch hoàn
do PRRS

17
2.1.6.2. Triệu chứng của lợn khi mắc bệnh kế phát
- Các bệnh đường hô hấp (Suyễn lợn, viêm phổi - màng phổi, tụ huyết
trùng, bệnh Glasser):
Trong trường hợp bội nhiễm một hay nhiều bệnh đường hô hấp, lợn
mắc bệnh tai xanh biểu hiện các triệu chứng trầm trọng hơn, đặc biệt biểu
hiện hô hấp:
+ Ho nhiều và sốt cao hơn (41-42
o
C).
+ Thở khó trầm trọng, há miệng thở, ngồi như chó ngồi.
+ Dịch mũi nhiều, nhầy, đục, đóng cục ở lỗ mũi.
+ Kiệt sức. Tỉ lệ chết cao.
Ngoài các triệu chứng chung như trên, khi lợn mắc các bệnh kế phát có
thể có một số triệu chứng riêng của từng bệnh như sau:
+ Suyễn lợn: Lợn ho khan, ho dài 7-10 cái/lần, ngồi ho kiểu chó ngồi,
lợn mắc suyễn lợn dễ bị bội nhiễm bệnh tai xanh và ngược lại.
+ Viêm phổi - màng phổi: Lợn ho ngắn 2-3cái/lần, Thở khó, nặng, kéo
bụng, có tiếng rít.
+ Tụ huyết trùng: Lợn có các cơn thở khó, thở nhanh, trầm trọng, hồng
hộc, cách nhau vài giờ.
+ Bệnh Glasser: Lợn có triệu chứng thần kinh, nằm nghiêng một bên,
run, chân bơi chèo, nhưng không phù như E.coli phù sưng phù đầu
- Bệnh Phó thương hàn
Lợn sốt cao nhưng tai lạnh, phân táo (phân cứt dê), nếu nặng hơn phân

có màng nhày bao quanh và sau đó phân lỏng màu vàng và có mùi rất thối,
khi bệnh nặng tiêu chảy phân có thể có máu, con vật kêu la đau đớn do viêm
dạ dày và viêm ruột nặng, có thể xuất huyết nốt trên da

- Trường hợp bội nhiễm bệnh tụ huyết trùng
Lợn có biểu hiện sưng hầu và xuất hiện những vết đỏ (nâu, tím) ở
cuống tai, cổ, da bụng, lưng, chảy nhiều nước mũi, lúc đầu loãng sau đặc có

×