Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo ở trường trung cấp kỹ thuật và nghiệp vụ vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.34 KB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ AN HÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP KỸ THUẬT VÀ NGHIỆP VỤ VINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ AN HÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP KỸ THUẬT VÀ NGHIỆP VỤ VINH
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã Số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người Hướng dẫn khoa học
TS. PHAN QUỐC LÂM
NGHỆ AN – 2014
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phan Quốc Lâm,
người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cám ơn sự chỉ dẫn tận tâm của tất cả các giảng viên trực
tiếp giảng dạy trong suốt thời gian học tập vừa qua, đặc biệt là sự quan tâm,
giúp đỡ tận tình của quý Thầy, Cô công tác tại Khoa Sau đại học và Quản lý
Giáo dục Trường Đại học Vinh.
Xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo Trường TC Kỹ thuật
– Nghiệp vụ Vinh và các đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện cho tôi được tham
gia học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân yêu trong
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp về sự động viên và giúp đỡ to lớn nhất đã dành
cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.


Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày 28 tháng 08 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê An Hà
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay Việt nam đang trên đà phát triển và đang trong quá trình CNH,
HĐH đất nước, hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực là một yêu cầu bức thiết được đặt ra có vai trò quan trọng quyết định sự phát
triển đất nước.
Phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách phát triển con người của Đảng và nhà nước ta. Nhưng để tạo ra nguồn nhân
lực có trình độ, có tay nghề cao đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
đòi hỏi hệ thống giáo dục phải được quan tâm đầu tư và phát triển một cách toàn
diện. Trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định “Phát triển giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Phát triển giáo dục chính là điều kiện để
phát triển con người. Giáo dục và đào tạo là hoạt động của toàn Đảng, toàn dân,
trong đó nhà giáo và đội ngũ cán bộ QLGD là lực lượng nòng cốt, có vai trò
quan trọng”.
Tuy nhiên thực trạng phổ biến ở Việt Nam hiện nay mà chúng ta rất dễ
nhận thấy là tình trạng mất cân bằng trong cơ cấu lao động “thừa thầy thiếu
thợ”.
Trong sử dụng lao động còn nặng về bằng cấp hơn là đánh giá năng lực lao
động thực tế của người lao động. Trong lực chọn công việc phần lớn người lao
động đều chỉ muốn được làm việc trong các cơ quan nhà nước để được ổn định
lâu dài nhưng trong quá trình tuyển dụng ở các cơ quan nhà nước thường đặt ra
yêu cầu cho ứng viên là phải có bằng tốt nghiệp ở các cấp học cao như CĐ, ĐH
trở lên mới có điều kiện dự tuyển, ưu tiên các bằng xếp loại khá, giỏi mới có thể
có cơ hội được tuyển dụng , về lâu dài những yếu tố này đã tác động và ăn sâu

vào tâm lý của người học khiến cho họ luôn có suy nghĩ chỉ mong muốn vào học
ở các trường ĐH, CĐ bằng mọi giá mà không muốn vào học các cấp học thấp
hơn. Mặt khác việc lựa chọn cấp học, trường học, ngành học của người học chưa
1
thực sự hợp lý vì chưa chú trọng nhiều đến các yếu tố phù hợp với năng lực, sở
trường, khả năng của bản thân.
Nhìn chung chất lượng nguồn lao động của nước ta hiện nay còn thấp so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, ý thức và kỷ luật lao động chưa cao,
chưa chuyên nghiệp. Vì vậy chưa thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, khoảng cách
giữa trình độ tay nghề của học viên mới ra trường với yêu cầu thực tế của đơn vị
sử dụng lao động có trình độ còn khá xa. Để khắc phục được những hạn chế và
tồn tại nâng cao chất lượng, trình độ của người lao động thì nhiệm vụ đặt ra là
phải thực hiện việc đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục một cách “căn bản”,
“toàn diện”. Trong phạm vi các trường học phải chú trọng và thực hiện tốt
nhiệm vụ QL và nâng cao CLĐT.
Trên cơ sở phân tích các điều kiện và yêu cầu đặt ra để tìm kiếm giải pháp
cho việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội và công cuộc CNH, HĐH đất nước, trong những năm qua
nhà nước ta đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân với
rất nhiều các cấp học, bậc học khác nhau từ thấp đến cao và trong đó hệ thống
các trường dạy nghề đã ra đời và phát triển trở thành bộ phận quan trọng, góp
phần tích cực vào việc giải bài toán về các vấn đề của nguồn nhân lực, đặc biệt
là các trường Trung cấp chuyên nghiệp và các trường Trung cấp nghề đóng một
vai trò quan trọng trong việc hướng nghiệp, đào tạo dạy nghề cho người lao
động để tạo ra một lực lượng đông đảo công nhân kỹ thuật và thợ có tay nghề
cao trong nhiều lĩnh vực phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Đất
nước trong hoàn cảnh mới.
Trường Trung cấp Kỹ Thuật và Nghiệp vụ Vinh được thành lập ngày
28/06/1973 với tên gọi là Trường Công nhân Xây dựng Vinh(thường gọi là

trường Kỹ thuật 6).
Đến tháng 10 năm 2006 theo quyết định số 1377/QD – BXD ngày
04/10/2006 của Bộ trưởng Bộ Xây Dựng trường được nâng cấp lên thành trường
2
trung cấp chuyên nghiệp và lấy tên là Trường Trung cấp Kỹ Thuật và Nghiệp vụ
Vinh trực thuộc Tổng công ty xây dựng Hà nội.
Đến tháng 5/2014 theo quyết định số 544/QD – BXD ngày 16/05/2014
Trường Trung cấp Kỹ Thuật và Nghiệp vụ Vinh được tiếp nhận trở thành
Trường trực thuộc Bộ Xây Dựng. Trường nằm trong hệ thống giáo dục chuyên
nghiệp và dạy nghề quốc gia, với chức năng nhiệm vụ đào tạo chính quy nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn và tay nghề ở các cấp độ khác nhau, nhằm đáp
ứng nhu cầu của xã hội và đất nước trong thời kỳ đối mới, phát triển và hội
nhập.
Trong những năm qua, Trường TC Kỹ Thuật - Nghiệp vụ Vinh luôn luôn
chú trọng công tác đào tạo định hướng nghề nghiệp.Các ngành –nghề đào tạo tại
trường đều đang có nhu cầu tuyển dụng cao và dễ kiếm việc nhất hiện nay như:
Xây dựng dân dụng và công nghiệp, vật liệu xây dựng, Tin học, Kế toán tài
chính, Kế toán doanh nghiệp, Điện dân dụng, điện công nghiệp, kỹ thuật điện
lạnh và điều hòa không khí, Hàn, Cốt thép - Hàn, Kỹ thuật xây dựng, Một số
chương trình đào tạo được thiết kế định hướng theo hợp đồng cung ứng nhân lực
dài hạn cho các doanh nghiệp và các nhà tuyển dụng lao động trong nước và
xuất khẩu. Việc một số học sinh trường Trung cấp kỹ thuật và Nghiệp vụ Vinh
đã trúng tuyển đi xuất khẩu lao động kỹ thuật tại các nước Singapore, Malaysia,
…vv với mức thu nhập khá hấp dẫn là khẳng định thành công của định hướng
đào tạo đúng đắn này. Bên cạnh đó, trường trung cấp kỹ thuật và nghiệp vụ
Vinh đã không ngừng nâng cao vị thế của mình trong công tác đào tạo các
Ngành - nghề trong cả nước và là điểm đến được nhiều thí sinh quan tâm.
Hiện này Trường Trung cấp kỹ thuât và nghiệp vụ Vinh luôn đặt mục tiêu
và phương châm phấn đấu trở thành một đơn vị đào tạo chuyên nghiệp có uy tín
và chất lượng hàng đầu khu vực Bắc-Miền trung, là nơi những chuyên ngành

mũi nhọn và chọn lọc trong các lĩnh vực công nghệ, xây dựng, kinh tế, Hàn,
Điện….
3
Trên thực tế trong những năm qua trường đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trong đào tạo, đóng góp đáng kể nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An và khu vực Bắc Trung bộ. Tuy nhiên bên cạnh
những thành tựu đạt được về quy mô cũng như chất lượng đào tạo của đơn vị
vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, hạn chế về các mặt như: nội dung chương trình đào
tạo, đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý, phương pháp dạy học, cơ sở vật
chất và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu; chất
lượng và hiệu quả đào tạo chưa cao, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đào tạo là
nhiệm vụ thường xuyên và hết sức quan trọng của Nhà trường, nó không chỉ là
trách nhiệm mà còn là uy tín, danh dự và sự sinh tồn của Nhà trường, và đó cũng
là cái chung đối với các trường Trung cấp trong điều kiện hiện nay; đồng thời
nâng cao chất lượng đào tạo cũng chính là sự khẳng định thương hiệu của từng
trường. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển, BGH trường TC Kỹ thuật -
Nghiệp Vụ Vinh luôn quan tâm đến chất lượng đào tạo, và thực tế đã có nhiều
giải pháp để QL chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có một đề
tài nào nghiên cứu về vấn đề liên quan đến chất lượng đào tạo tại trường.Đó là
lý do để tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạoở
Trường TC Kỹ Thuật - Nghiệp vụ Vinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp quản
lý chất lượng đào tạoở Trường TC Kỹ thuật - Nghiệp vụ Vinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý chất lượng đào tạoở trường Trung cấp chuyên nghiệp
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý chất lượng đào tạoở Trường TC Kỹ Thuật - Nghiệp vụ
Vinh.

4
4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường TC Kỹ thuật - Nghiệp vụ
Vinh, nếu đề xuất được và thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý có cơ sở
khoa học và có tính khả thi.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài.
5.3. Nghiên cứu một số giải pháp QLCLĐT Trường TC Kỹ Thuật - Nghiệp vụ
Vinh.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài. Nhóm này có các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hóa liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng
cơ sở thực tiễn của đề tài, gồm có các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng bởi các công thức toán học
như: Trung bình cộng, Phương sai, Độ lệch chuẩn, Hệ số biến thiên… để
xử lý các dữ liệu thu được về mặt chất lượng.
5
7. Những đóng góp của luận văn

7.1. Về mặt lý luận
Góp phần hệ thống hoá lý luận về vấn đề quản lý chất lượng ở trường
TCCN.
7.2. Về mặt thực tiễn
Làm rõ thực trạng về quản lý chất lượng đào tạoở Trường TC Kỹ Thuật -
Nghiệp vụ Vinh, đồng thời đề xuất một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo
có cơ sở khoa học và có tính khả thi, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội tại Nghệ An nói
riêng và cả nước nói chung.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý chất lượng đào tạo ở Trường TC
Kỹ thuật – Nghiệp vụ Vinh.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo ở Trường TC Kỹ
thuật – Nghiệp vụ Vinh.
6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
1.1.1 Tình hình ngoài nước:
Trong những năm gần đây tình hình thế giới có nhiều thay đổi: xu hướng
quốc tế hóa, toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ và bộc lộ
một cách rõ ràng dẫn đến sự tăng cường hợp tác giữa các quốc gia, khu vực về
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, môi trường… theo các hình thức
song phương đa phương được đẩy mạnh. Sự hình thành các khu vực kinh tế
chung mà ở đó các ranh giới và hàng rào thuế quan dần bị xóa bỏ đã giúp cho
các nền kinh tế có điều kiện thuận lợi xích lại gần nhau hơn đã dẫn đến sự ra đời
phát triển nhanh chóng của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Bên cạnh đó là
sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin đã tạo ra

những điều kiện khách quan thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế - xã hội của
nhiều quốc gia trong đó có Việt nam, nhưng đồng thời tính cạnh tranh cũng
ngày càng trở nên quyết liệt trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong giáo dục sự giao lưu hợp tác cũng được thúc đẩy mạnh mẽ, sự ảnh
hưởng của các nền giáo dục phát triển đối với Việt Nam ngày càng sâu sắc, các
mô hình giáo dục tiên tiến đang được các nhà nghiên cứu phát triển giáo dục ở
Việt Nam quan tâm, nghiên cứu, học tập, tiếp thu nhằm tìm ra mô hình phát
triển phù hợp nhất đối với nền giáo dục Việt Nam. Sự ảnh hưởng nêu trên là một
yếu tố thúc đẩy quá trình cải cách căn bản toàn diện nền giáo dục ở Việt Nam
1.1.2 Tình hình trong nước:
Hiện nay đất nước chúng ta đang thực hiện công cuộc CNH - HĐH đất
nước và chúng ta đang trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, nên CLĐT
là vấn đề cấp thiết và luôn nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Nghiên cứu
để QL và nâng cao CLĐT luôn được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất trong
công tác QL của các cơ sở ĐT.Trên thực tế trong những năm gần đây CLĐT
luôn là một vấn đề luôn thu hút được rất nhiều sự quan tâm từ các nhà QL,các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
7
Sự quan tâm dành cho công tác QL CLĐT và nâng cao CLĐT tại Việt nam
cho đến nay đã được thể hiện qua rất nhiều công trình nghiên cứu nhằm giải
quyết các khía cạnh khác nhau về CLĐT nói chung và CLĐT TCCN nói riêng đã
được công bố. Trong đề tài này tôi xin nêu một số công trình nghiên cứu, một số
tác phẩm tiêu biểu viết liên quan đến CLĐT và CLĐT tại hệ thống các trường
TCCN, TCN:
Để góp phần vào việc nâng cao chất lượng GD TCCN, đã có một số đề tài
nghiên cứu được thực hiện như: Đề tài Nghiên cứu đề xuất giải pháp QL CLĐT
của các trường THCN Hà Nội, mã số 01X-06/01-2002-2 của Vũ Đình Cường,
2004; đề tài Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng GD THCN, mã số
B2004-CTGD03 của PGS.TS Nguyễn Đức Trí, 2005.
Đề tài Nghiên cứu sự đáp ứng của giáo dục đại học và chuyên nghiệp đối

với thị trường lao động, mã số B96-52-TĐ03 của tác giải Trần Khánh Đức,
1998 đã đề xuất các giải pháp nâng cao mức độ đáp ứng của GD đại học và GD
chuyên nghiệp với thị trường lao động. Ngoài ra còn nhiều tài liệu của các tác
giả đã đề cập đến vấn đề CLĐT và nâng cao CLĐT như: Công tác kiểm định
các điều kiện đảm bảo chất lượng và khả năng ứng dụng ở Việt Nam (2000) của
TS. Trần Khánh Đức; Về chất lượng đào tạo và quản lý chất lượng đào
tạotrung học chuyên nghiệp (2001), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo
nhân lực theo ISO và TQM (2004) của TS.Trần Khánh Đức; Đánh giá chất
lượng giáo dục chuyên nghiệp: cơ sở lý luận và thực tiễn, (2005) của PGS.TS
Nguyến Đức Trí; Đánh giá chất lượng giáo dục THCN, (2005) của GS.TSKH
Nguyễn Minh Đường; Bàn về chất lượng đào tạo và đánh giá chất lượng đào
tạo TCCN, (2005) của ThS Nguyễn Đăng Trụ; Chất lượng giáo dục THCN -
khái niệm, nội dung tiêu chí và phương pháp đo lường, (2005) của PGS.TS
Nguyễn Viết Sự; Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng EFQM và sử dụng vào việc
nâng cao chất lượng trường THCN, (2005) của ThS Đỗ Thiết Thạch; Về xây
dựng chuẩn chất lượng giáo dục TCCN, (2005) của GS.TSKH Vũ Ngọc Hải;
Tiêu chuẩn trong giáo dục chuyên nghiệp, (2005) của TS Hoàng Ngọc Vinh; Về
8
hệ thống đảm bảo chất lượng trong các trường trung cấp chuyên nghiệp, (2005)
của KS Nguyễn Việt Hùng; Kiểm định chương trình đào tạo TCCN, (2005) của
TS Đặng Xuân Hải; Chất lượng đào tạo trong cơ chế thị trường, (2008) của
GS.TSKH Nguyễn Minh Đường; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao
chất lượng GDCN và cao đẳng ở Việt Nam, (2008) của PGS.TS Nguyến Đức
Trí; Chất lượng đào tạo và quản lý chất lượng đào tạonghề nghiệp, (2008) của
PGS.TS Trần Khánh Đức; Đánh giá chất lượng đào tạo trong các trường
TCCN, cao đẳng và đại học, (2008) của TS Phan Thị Hồng Vinh - ThS Ngô Thị
San; …
Ngoài ra là một số các công trình nghiên cứu tiêu biểu của một số học viên
cao học ngành QLGD đã đi vào nghiên cứu thực trạng CLĐT nghề ở các trường
cao đẳng, trung cấp nghề và đề xuất những biện pháp, giải pháp QL nhằm nâng

cao CLĐT nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương như:
Đề tài Một số giải pháp quản lý để nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường
Trung học Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu của Phạm Mạnh Cường; Đề tài Một số
giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường Cao đẳng
Nghề Bách khoa Hà Nội của Nguyễn Thị Hiếu; đề tài Một số giải pháp nâng
cao chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Nghề tỉnh Đồng Tháp của Đặng
Huy Phương. Nhìn chung các đề tài này đã phản ánh thực trạng đào tạo của
trường và đưa ra những đề xuất, giải pháp nâng cao CLĐT ở các trường này
trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của địa phương.
Hoạt động nghiên cứu đề tài" Một số giải pháp quản lý chất lượng đào
tạoở Trường Trung cấp Kỹ Thuật và Nghiệp vụ Vinh" mang một ý nghĩa rất
quan trọng trong công tác quản lý và nâng cao chất lượng đào tạo của Trường
TC Kỹ Thuật và Nghiệp vụ Vinh, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng cho
nguồn nhân lực tại Tỉnh Nghệ An và cho cả nước trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển KT-XH trong thời kỳ mới.
9
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Đào tạo
Đào tạo là một khái niệm đến nay tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau, sau
đây tôi xin nêu lên những khái niệm khái quát và phổ biến nhất:
- Theo từ điển của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội khái niệm đào tạo có
nghĩa là “ gây dựng bồi dưỡng cho thành”[44] theo cách hiểu này đào tạo là sự
trang bị các kiến thức kỹ, năng kỹ năng kỹ xảo và bồi dưỡng, bổ sung hoàn thiện
các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đó cho con người và thông qua quá trình đào tạo
để hình thành chuyên môn cho đối tượng được đào tạo theo mục đích yêu cầu
được đặt ra.
Cũng tương tự như khái niệm được nêu trên nhưng được phân tích một
cách cụ thể hơn:
- Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: “Đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng,

kỹ xảo, thái độ… để hoàn thành nhân cách cho mỗi cá nhân và tạo điều kiện
cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả”.
- Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: Đào tạo có nghĩa là: “ Đào tạo làm
cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định [45].
Từ những khái niệm về đào tạo đã nêu trên đã giúp cho chúng ta có thể rút
ra những kết luận về khái niệm đào tạo như sau: giữa đào tạo và giáo dục có mối
liên hệ mật thiết với nhau, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Khái
niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn giáo dục, đào tạo thường đề cập đến giai
đoạn sau, khi một người đã đạt được một trình độ nhất định, có một độ tuổi nhất
định. Giáo dục và đào tạo là hai mặt, hai khâu nối tiếp trong một tiến trình hoạt
động có mục đích chung là trang bị kiến thức, kỹ năng kỹ xảo, chuyên môn…
cho người học.
Như vậy, đào tạo là một quá trình tác động đến đối tượng đào tạo là con
người một cách có tổ chức, có mục đích nhằm giúp cho người được đào tạo
10
được trang bị và hình thành nên hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ
một các có hệ thống. Sau khi được đào tạo con người sẽ lĩnh hội và nắm vững
được các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, chuyên môn… nhằm có sự chuẩn bị và chủ
động và thích nghi với các yêu cầu cuộc sống đặt ra, sau quá trình đào tạo giúp
cho con người có khả năng được bố trí, đảm nhận và hoàn thành tốt các nhiệm
vụ theo sự phân công lao động của xã hội, giúp cho con người tăng khả năng
làm việc một cách có hiệu quả hơn.
Đào tạo là một hoạt động có vai trò rất quan trọng đối với con người vì
thông qua quá trình đào tạo giúp cho con người có thể lưu giữ và truyền thụ các
kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng trong các hoạt động lao động từ thế hệ này sang
thế hệ khác, giúp cho con người nâng cao hiệu quả trong quá trình lao động của
mình.
Ngày nay chúng ta có thể thấy hoạt động đào tạo được diễn ra dưới nhiều
hình thức đa dạng và với những quy mô lớn nhỏ khác nhau, ở nhiều cấp độ khác
nhau.

1.2.2 Chất lượng và chất lượng đào tạo
1.2.2.1 Chất lượng
Xung quanh khái niệm chất lượng có nhiều quan điểm khác nhau, khái
niệm này luôn có sự thay đổi theo thời gian và mang tính lịch sử cụ thể, tùy
thuộc vào cách thức tiếp cận và nghiên cứu về khái niệm từ những cách tiếp cận
khác nhau sẽ dẫn đến những khái niệm khác nhau về chất lượng. Để làm rõ khái
niệm chất lượng xin nêu ra một số khái niệm tiêu biểu về chất lượng như sau:
- Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, chất lượng là “ cái tạo nên phẩm
chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc”.
- Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, chất lượng là “ cái làm nên phẩm
chất, giá trị của sự vật hoặc là cái tạo nên bản chất của sự vật, làm cho sự vật
này khác với sự vật kia”
11
- Theo Từ điển Tiếng Việt“Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những
thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự
vật, phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật”.
- Theo tiêu chuẩn Pháp – NFX 50 – 109, chất lượng là “ tiềm năng của sản
phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng”.
- Theo ISO 9000 – 2000, chất lượng là “mức độ mà một tập hợp các đặc
tính vốn có”.
- Theo Harvey & Green (1993), chất lượng được định nghĩa như tập hợp
các thuộc tính khác nhau:
+) Chất lượng là sự xuất sắc (quality as excellence)
+) Chất lượng là sự hoàn hảo (quality as perfection)
+ ) Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu ( quality as fitness for purpose)
+ ) Chất lượng là sự đáng giá với đồng tiền bỏ ra (quality as value for
money)
+) Chất lượng là sự chuyển đổi về chất ( quality as transformation)
Chất lượng được đánh giá bằng “đầu vào”; “đầu ra”; bằng “giá trị gia
tăng”; bằng “kiểm toán” ; bằng “văn hóa tổ chức riêng”.

Có một định nghĩa về chất lượng được đánh giá có ý nghĩa đối với việc xác
định chất lượng giáo dục và cả việc đánh giá nó của tác giả Nguyễn Hữu Châu,
đó là: “Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu.
Như vậy qua các quan niệm khác nhau về chất lượng đã trích dẫn ở trên đã
mang lại cho chúng ta những sự hình dung cụ thể về khái niệm chất lượng.
1.2.2.2. Chất lượng đào tạo:
Cũng giống như khái niệm chất lượng, chất lượng đào tạo là khái niệm có
một loạt định nghĩa trái ngược nhau và rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn
đề này đã diễn ra tại các diễn đàn khác nhau mà nguyên nhân của nó là thiếu
một cách hiểu thống nhất về bản chất của vấn đề.
12
Khi tiếp cận và nghiên cứu về khái niệm chất lượng đào tạo sẽ có nhiều
cách tiếp cận khác nhau và dưới đây là những quan điểm tổng quát về chất
lượng đào tạo được nhiều người đồng thuận:
- Theo tác giả Lê Đức Ngọc và Lâm Quang Thiệp (ĐH Quốc gia Hà Nội),
CLĐT được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu ĐT đã đề ra đối với một
chương trình đào tạo.
- Theo tác giả Trần khánh Đức, CLĐT là kết quả của quá trình ĐT được
phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động
hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương
trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể.
- Theo cách tiếo cận QLCL thì: CLĐT được coi là sự phù hợp và đáp ứng
yêu cầu. CLĐT có hai phần: Phần cứng gồm kiến thức, kỹ năng, thái độ người
học tiếp thu trong QTĐT; phần mềm là năng lực sáng tạo và thích ứng. CLĐT
phụ thuộc vào ba yếu tố: Hoạch định (thiết kế và xây dựng mục tiêu); tổ chức
ĐT; sử dụng. Miền chất lượng là vùng giao nhau của ba yếu tố trên, miền chất
lượng càng lớn chứng tỏ cơ sở đào tạo đã tổ chức tốt QTĐT phù hợp với mục
tiêu thiết kế ban đầu, đạt hiệu quả và có khả năng cạnh tranh với các cơ sở ĐT
khác.
1.2.3. Quản Lý và Quản lý chất lượng đào tạo

1.2.3.1 Quản lý
a. Khái niệm
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quản lý:
+ Theo thuật ngữ “Quản lý”(tiếng Việt gốc Hán) lột tả bản chất của hoạt
động này trong thực tiễn. Nó gồm 2 quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình
“Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý”
gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế “phát triển”.
+ Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học định nghĩa: "Quản lý là trông
coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định. Là tổ chức và điều hành các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định".
13
+ Quản lý (tiếng Anh là Management, tiếng lat. manum agere - điều khiển
bằng tay) đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ phận
của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và thay đổi
các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư, trí thực và giá trị vô hình).
Theo dòng lịch sử chúng ta có thể thấy từ khi xã hội bắt đầu hình thành thì
nhu cầu về quản lý cũng xuất hiện, xuất phát từ yêu cầu tự nhiên của cuộc sống.
Từ xưa đến nay, trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội, mỗi tổ chức đều cần có
hoạt động quản lý để duy trì trật tự của tổ chức đó, trong bất kỳ một thể chế xã
hội nào cũng cần có sự quản lý. Chính vì vậy, những khái niệm về quản lý đã có
từ rất lâu, đó là việc phối hợp con người trong các hoạt động và quan hệ xã hội.
Ban đầu quản lý được xem là một việc làm phụ thêm, nhưng khi xã hội
ngày càng phát triển và càng phức tạp thì quản lý đã thực sự trở thành một hoạt
động chuyên biệt, có vai trò ngày càng quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết
định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Quản lý là một hệ thống xã hội tác động có mục đích đến tập thể người -
thành viên của hệ, nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự
kiến.
Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và
phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động.[38]

Trung Hoa cổ đại đã có những lý thuyết quản lý của Khổng Tử, Mạnh Tử,
Hàn Phi…cho đến các nhà nghiên cứu phương tây sau này muốn phản ánh
những nét đặc trưng của quản lý bằng nhiều cách như nhấn mạnh tính chất hay
hình thức tác động, mục đích hay chức năng của quản lý đã đưa ra các định
nghĩa sau:
Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp H. Fayon (1849-1925) là cha đẻ của
thuyết hành chính trong quản lý đã đưa ra định nghĩa “Quản lý hành chính là dự
đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.[14]
Theo F.Taylor (1856 - 1915) là người đầu tiên làm cho các vấn đề của quản
lý thành đối tượng của môn học khoa học độc lập và chính ông đã biến các tư
14
tưởng quản lý thành các nguyên tắc và kỹ thuật lao động cụ thể, tạo ra được năng
suất, hiệu quả cao trong sản xuất: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn
người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách
tốt nhất, rẻ nhất”.[29]
Theo nhà lý luận quản lý Henry Fayol: “Quản lý hành chính là dự đoán và
lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.[14]
Theo phân tích của Marx, quản lý là một chức năng tất yếu của lao động xã
hội, nó luôn gắn chặt với sự phân công và phối hợp. Song, điều đó chỉ có thể thực
hiện trên cơ sở tổ chức vì: “chức năng chủ yếu của quản lý là liên hợp, tháp hợp
tất cả các mặt hoạt động của tổ chức và của những người tham gia tổ chức đó là
một chỉnh thể”.
GS. Hà Thế Ngữ và GS. Đặng Vũ Hoạt nói: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ
thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng
cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, "Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản lý)
nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến" [13]
Tác giả Hồ Văn Vĩnh định nghĩa: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có

hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”
[19]
Tác giả Trần Quốc Thành quan niệm: “Quản lý là sự tác động của chủ thể
quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt
động của con người nhằm đạt được mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù
hợp với quy luật khách quan” [17]
GS. Hoàng Chúng và Phạm Thanh Liêm đã đưa ra định nghĩa: “Quản lý là
tác động có mục đích đến tập thể những con người nhằm tổ chức và phối hợp hoạt
động của họ, động viên kích thích họ trong quá trình lao động”.[10]
Từ các quan niệm trên, ta có thể hiểu về quản lý như sau:
15
Quản lý là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức
đã đề ra.
Quản lý là một quá trình mang tính xã hội, xuất hiện cùng với sự hợp tác và
phân công lao động, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bởi vì trong
mỗi lĩnh vực con người luôn điều chỉnh hoạt động của mình theo một phương
thức nhất định,
* Bản chất và chức năng của quản lý
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích đến tập thể người
nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Trong giáo dục đó là tác động của nhà quản lý
giáo dục đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng khác trong xã hội nhằm
thực hiện có hệ thống các mục tiêu giáo dục. Vậy bản chất của quản lý là sự phối
hợp các nỗ lực của con người thông qua các chức năng quản lý.
Theo Stonner và Freemance trong tác phẩm “Management” (quản lý) thì:
“Chức năng quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các
công việc của các thành viên trong tổ chức và việc sử dụng tất cả các khả năng,
cách tổ chức để đạt được mục tiêu mà tổ chức đã đề ra” (Sonner và Freemance –
Management, 1995).
Nhiều tác giả đã phân loại chức năng quản lý thành bốn hoặc năm loại nhưng

nội dung cơ bản vẫn gồm bốn chức năng sau đây:
 Lập kế hoạch
Là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là khâu đầu tiên của
chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình xác lập mục tiêu, thời gian, biện
pháp, dự báo trước kế hoạch và quyết định phương thức để thực hiện mục tiêu đó.
Nói cách khác lập kế hoạch là xác định trước xem phải làm gì, làm như thế nào,
khi nào làm và ai làm. Căn cứ thực trạng ban đầu của tổ chức và căn cứ vào mục
tiêu cần phải hướng tới để cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ của tổ chức trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn. Từ đó tìm ra con đường, biện pháp đưa đơn vị đạt
được mục tiêu.
16
 Tổ chức
Là quá trình thiết lập cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận. Từ
đó, chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý một cách có hiệu quả bằng
cách điều phối các nguồn lực của tổ chức như nhân lực, vật lực và tài lực. Quá
trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức phải đảm bảo các yêu cầu: Tính tối
ưu, tính linh hoạt, độ tin cậy và tính kinh tế. Trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ
chức quản lý cần tính đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đó là
những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình tổ chức thực hiện.
 Chỉ đạo
Là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm điều hành tổ chức - nhân
lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế hoạch đã vạch ra. Lãnh đạo bao hàm
cả liên kết, liên hệ, uốn nắn hoạt động của người, động viên, khuyến khích họ
hoàn thành nhiệm vụ. Trong chức năng chỉ đạo, chủ thể quản lý phải trực tiếp ra
quyết định (mệnh lệnh) cho nhân viên dưới quyền và hướng dẫn, quan sát, phối
hợp, động viên để thuyết phục, thúc đẩy họ hoạt động đạt được các mục tiêu đó
bằng nhiều biện pháp khác nhau.
 Kiểm tra
Là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý thông qua

một cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế, đánh giá, giám sát thành quả
hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh các sai sót lệch lạc nhằm thúc đẩy hệ
thống sớm đạt được mục tiêu đã định. Để tiến hành kiểm tra, cần phải có các tiêu
chuẩn, nội dung và phương pháp kiểm tra, dựa trên các nguyên tắc khoa học để
hình thành hệ thống kiểm tra thích hợp.
Các chức năng quản lý tạo thành một chu trình thống nhất. Trong đó, mỗi
chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ phụ thuộc với các
chức năng khác. Quá trình ra các quyết định quản lý là quá trình thực hiện các
chức năng theo một trình tự nhất định. Nhà quản lý không được bỏ qua hay coi
nhẹ bất cứ chức năng nào. Bên cạnh bốn chức năng cơ bản nêu trên, trong quá
17
trình quản lý cần quan tâm thêm hai vấn đề quan trọng là: thông tin quản lý và
quyết định quản lý.
Thông tin quản lý là yếu tố cực kỳ quan trọng trong quản lý. Vì thông tin là
nền tảng, là huyết mạch của quản lý, không có thông tin thì không có quản lý
hoặc quản lý mắc sai phạm, nhờ có thông tin mà sự trao đổi qua lại giữa các chức
năng được cập nhật thường xuyên, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.
Quyết định quản lý: là sản phẩm của người quản lý trong quá trình thực hiện
các chức năng quản lý.
Các chức năng này tạo thành một hệ thống nhất với một trình tự nhất định,
trong quản lý không được coi nhẹ một chức năng nào.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ
thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu. Quản lý phải thực hiện nhiều chức năng khác nhau,
từng chức năng có tính độc lập tương đối nhưng chúng được liên kết cơ hữu
trong một hệ thống nhất.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội loài người, những hoạt động
quản lý luôn tồn tại. Chúng chỉ khác nhau về mục đích, nội dung, hình thức và
phương pháp. Tùy thuộc vào hình thái kinh tế nhất định những hoạt động này
đều bị tác động và ảnh hưởng bởi tính chất chế độ xã hội và trình độ tăng trưởng

trong quá trình sản xuất. Đặc biệt trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, hoạt
động quản lý có vai trò rất quan trọng. Nếu hoạt động quản lý tốt sẽ thúc đẩy sản
xuất, nâng cao lợi nhuận đồng thời cũng góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của con người, tạo điều kiện cho tư duy sáng tạo phát triển về mọi
phương diện. Ngược lại, nếu hoạt động quản lý tồi không chỉ tác động hạn chế,
ngăn cản sự phát triển kinh tế, xã hội mà còn dẫn đến tình trạng làm nghèo đi và
làm chậm lại sự phát triển của đất nước, lãng phí sức người và của cải vật chất
của tồn tại xã hội.
Tóm lại, quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua con người và
với con người.
1.2.3.2. Quản lý chất lượng đào tạo
18
Quản lý chất lượng đào tạo là nhiệm vụ quan trọng nhất và luôn luôn được
đặt ra đối với mỗi trường học, mỗi cơ sở giáo dục đào tạo do những yêu cầu
khách quan và chủ quan khác nhau như:
Do nhu cầu xã hội trong sử dụng nguồn nhân lực luôn đòi hỏi nguồn nhân
lực có chất lượng ngày càng cao để đáp ứng yêu cầu đặt ra từ sự phát triển
nhanh chóng của nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế
thế giới.
Về phía bản thân người học, người lao động luôn đòi hỏi các cơ sở đào tạo
khi mở ra trường lớp phải đào tạo có chất lượng tốt và ngày càng được nâng cao
để giúp cho người được đào tạo có thể học tập và trang bị những kỹ năng nghề
nghiệp, kiến thức chuyên môn mới, trang bị nghiệp vụ tạo nên năng lực lao động
cần thiết và rèn luyện phẩm chất đạo đức đáp ứng được các yêu cầu thực tế đặt
ra. Từ đó giúp cho người được đào tạo có năng lực lao động tốt, có khả năng tìm
kiếm việc làm và khẳng định năng lực chuyên môn trong công việc, ổn định đời
sống.
Yêu cầu quản lý và nâng cao chất lượng đào tạo cũng là yêu cầu bức thiết
và là nhiệm vụ cần thiết phải làm thường xuyên được đặt ra đối với các trường
học và cơ sở đào tạo bởi vì chỉ có làm tốt công tác Quản lý chất lượng đào tạo

mới có thể giúp cho các trường tạo nên uy tín, khẳng định được thương hiệu,
tăng sức cạnh tranh và khả năng thu hút người học, tạo ra sự phát triển ổn định
bền vững cho các đơn vị thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo.
1.2.4. Giải Pháp và giải pháp Quản lý chất lượng đào tạo
1.2.4.1 Khái niệm giải pháp
Trong đời sống hằng ngày ở tất cả các lĩnh vực không khó để chúng ta có
thể bắt gặp một thực tế là: khi đứng trước các vấn đề khó khăn, thách thức cần
phải được giải quyết thì người ta luôn tính đến những giải pháp khác nhau và
chọn ra giải pháp tối ưu, thích hợp nhất, và có tính khả thi nhất để giải quyết các
vấn đề, các tình huống theo hướng nhanh chóng và đạt hiệu quả như mong muốn
Vậy khái niệm giải pháp là gì?
19
Định nghĩa về khái niệm giải pháp theo Từ điển Lạc Việt: Giải pháp là “
cách giải quyết một vấn đề nào đó đưa ra giải pháp hữu ích; giải pháp nâng cao
hiệu quả nghiệp vụ”
Từ những định nghĩa trên chúng ta có thể nói rằng giải pháp chính là cách
thức tác động có mục đích bằng tập hợp các phương pháp thích hợp, hiệu quả
nhất nhằm làm cải biến, thay đổi hiện trạng của một trạng thái, một quá trình
hay cả một hệ thống nhằm tạo ra những chuyển biến mới theo chiều hướng tốt
đẹp và tích cực hơn để giải quyết vấn đề đang tồn tại một cách nhanh chóng,
nhằm vượt qua các khó khăn, thách thức.
1.2.4.2. Giải pháp quản lý chất lượng đào tạo
Trong lĩnh vực giáo dục song song với công tác quản lý chất lượng đào
tạoluôn là những khó khăn, thử thách đi kèm do đó để hoạt động này có hiệu
quả, đạt được mục đích đề ra đòi hỏi công tác quản lý phải luôn có các giải pháp
thích hợp, kịp thời để giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong mọi hoạt động liên
quan.
Hay nói cách khác giải pháp quản lý chất lượng đào tạolà tập hợp các cách
thức, các phương pháp để giải quyết mọi khó khăn, trở ngại trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ bằng một tập hợp tác động phù hợp, đồng bộ, có tính khả thi cao.

Giải pháp đó còn là sự kết hợp của nhiều giải pháp tác động đến các đối
tượng trong quá trình đào tạo từ công tác quản lý, đến nội dung chương trình
đào tạo, đến các nhân tố tham gia vào quá trình đào tạo nhằm tạo ra sự chuyển
biến tích cực và giúp cho chủ thể của quá trình đào tạo là người dạy và người
học phát huy được tối đa năng lực truyền thụ và tiếp thu các kiến thức, kỹ năng
chuyên môn, đạo đức tạo ra những biến đổi tích cực về chất lượng, tạo ra
những sản phẩm đào tạo có chất lượng ngày càng cao theo mục tiêu đề ra, đáp
ứng yêu cầu xã hội.
1.3.Một số vấn đề về chất lượng đào tạo ở trường TCCN
20
1.3.1 Trường Trung cấp chuyên nghiệp:
Trường TCCN là một bộ phận quan trọng nằm trong hệ thống giáo dục
quốc dân: đây là nơi diễn ra các hoạt động giáo dục đào tạo nghề và đào tạo
chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, là nơi đào tạo nên
đội ngũ lao động có chất lượng ở các ngành nghề khác nhau nhằm đáp ứng cho
nhu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước góp phần xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong những năm qua hệ thống các trường TCCN đã được chú trọng xây
dựng và phát triển thành một hệ thống khá hoàn chỉnh trong cả nước và đã thể
hiện được vai trò, nhiệm vụ quan trọng của mình trong việc đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Tuy còn gặp rất nhiều khó khăn thách thức để tồn tại
và phát triển song nhìn chung hệ thống các trường TCCN ở nước ta vẫn không
ngừng đổi mới và hoàn thiện hơn.
1.3.2 Chất lượng ĐT của Trường TCCN:
Chất lượng đào tạo luôn là vấn đề quan trong nhất của tất cả các trường
học, cơ sở giáo dục đào tạo nói chung và đối với hệ thống trường TCCN nói
riêng thể hiện ở các cấp từ thấp đến cao, và việc phấn đấu nâng cao chất lượng
đào tạo bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở
giáo dục đào tạo nào, là mục đích trong hoạt động tại các cơ sở giáo dục đào tạo
có tính định hướng cho các hoạt động khác diễn ra trong trường học, vừa có tác

động chi phối và điều chỉnh các hoạt động liên quan.
Xét chất lượng trong giáo dục trong hệ thống các các trường TCCN và
TCN ta thấy: Mặc dù khó có thể đưa ra được một định nghĩa về chất lượng trong
giáo dục mà mọi người đều thừa nhận, song các nhà nghiên cứu cũng cố gắng
tìm ra những cách tiếp cận phổ biến nhất. Cơ sở của các cách tiếp cận này xem
chất lượng là một khái niệm mang tính tương đối, động, đa chiều và với những
người ở các cương vị khác nhau có thể có những ưu tiên khác nhau khi xem xét
nó:
21
CLGD đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên thì ưu tiên của khái niệm này
phải là ở quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình
giảng dạy và học tập.
Đối với nhà trường là CLGD là thành phần đầu ra của hệ thống TCCN. Đầu
ra của hệ thống TCCN đã được hình thành nên từ nhu cầu về nguồn lao động
của môi trường xã hội đặt ra cho giáo dục: Thông qua quá trình đào tạo hệ thống
trường TCCN sẽ “ đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng thực hành cơ
bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng
công nghệ vào công việc”.
Chất lượng giáo dục ở trường TCCN là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường
đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu GD TCCN của luật GD, phù hợp với
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển KT-XH của địa
phương, của đất nước.
Còn đối với những người sử dụng lao động, việc đánh giá chất lượng của
họ lại ở đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực và kiến thức của sinh viên khi ra
trường ứng dụng vào quá trình thực tế trong công việc được giao phó và đảm
trách.
Như vậy “CLĐT là mức độ đạt được so với các chuẩn của mục tiêu ĐT và
mức độ thoả mãn yêu cầu của khách hàng”. v.v. Do vậy không thể nói tới chất
lượng như một khái niệm nhất thể, chất lượng cần được xác định kèm theo với
mục tiêu hay ý nghĩa của nó, và ở khía cạnh này, một trường học có thể có chất

lượng cao ở một lĩnh vực này nhưng ở một lĩnh vực khác lại có thể có chất
lượng thấp. Điều này đặt ra một yêu cầu phải xây dựng một hệ thống rõ ràng,
mạch lạc các tiêu chí với những chỉ số được lượng hoá, nêu rõ các phương thức
đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng sẽ được sử dụng trong và ngoài giáo
dục với xu hướng tiếp cận dần với chuẩn của khu vực và thế giới nhằm đưa giáo
dục đại học Việt Nam hoà nhập với giáo dục đại học thế giới .
Tóm lại, mặc dù CLĐT có tính phức tạp và luôn tồn tại nhiều định nghĩa,
cách hiểu khác nhau nhưng có thể khái quát lại như sau: CLĐT là sự phù hợp với
22

×