Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo ở trường trung cấp việt anh, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.24 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________
NGUYỄN HỮU THỤ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP VIỆT - ANH,
TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
VINH – 2014
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________________
NGUYỄN HỮU THỤ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP VIỆT - ANH,
TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HƯỜNG
VINH – 2014
ii
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Trường Đại học Vinh, Khoa Sau Đại học, Khoa Quản lý Giáo dục, Khoa Tâm
lý giáo dục, Phòng Khoa học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi
trong thời gian học tập, nghiên cứu và làm luận văn.
Xin trân trọng biết ơn các thầy giáo, cô giáo đã tham gia giảng dạy,
hướng dẫn giúp đỡ lớp Cao học khóa 20 chuyên ngành “Quản lý giáo dục”.


Xin chân thành cám ơn các cấp lãnh đạo, giáo viên, công nhân viên
trường Trung cấp Việt - Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi tham gia
khoá học và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS
Nguyễn Thị Hường đã mang lại cho chúng tôi những tri thức, những kinh
nghiệm quý báu về tư duy và kiến thức khoa học quản lý, đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ chúng tôi hoàn thành luận văn đúng thời hạn.
Do điều kiện thời gian và năng lực, nên chắc chắn luận văn còn nhiều
khiếm khuyết, chúng tôi mong các thầy giáo, cô giáo và các đồng nghiệp góp
ý để luận văn được hoàn chỉnh.
TP.Vinh, tháng 04 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Hữu Thụ

MỤC LỤC
iii
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGH Ban giám hiệu
Bộ GD & ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo
CB – GV Cán bộ - Giáo viên
CSVC Cơ sở vật chất
CT HS – SV Công tác Học sinh - Sinh viên
CNH-HĐH Công nghiệp hoá –Hiện đại hoá
DH Dạy học
ĐT Đào tạo
GD Giáo dục
GDCN Giáo dục chuyên nghiệp
GV Giáo viên
HC – TC Hành chính - Tổ chức
HĐD Hoạt động dạy

HĐH Hoạt động học
HS Học sinh
KT – XH Kinh tế - Xã hội
QL Quản lý
QLGD Quản lý giáo dục
QL-HDĐT Quản lý hoạt động đào tạo
SV Sinh viên
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
XHCN Xã hội chủ nghĩa
iv

v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tốc độ phát
triển kinh tế, bảo đảm sự phát triển kinh tế xã hội bền vững, vừa là một bộ
phận quan trọng trong hệ thống chính sách phát triển toàn diện con người của
Đảng và Nhà nước ta. Đây là một trong những yếu tố quyết định khả năng
tăng trưởng và cạnh tranh, có ý nghĩa quan trọng đối với cơ cấu sản xuất, lĩnh
vực công nghệ và quản lý. Hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và
có những tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế - xã hội của cả thế giới.
Những thay đổi này tạo ra cho mỗi quốc gia, dân tộc những vận hội mới và
cũng đặt ra những thách thức mới.
Mục tiêu đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặt ra cho các cơ
sở đào tạo một nhiệm vụ cao cả và một trọng trách nặng nề. Các cơ sở đào tạo
phải giải quyết hiệu quả bài toán giữa phát triển nhanh quy mô, phạm vi đào
tạo và ổn định, nâng cao chất lượng đào tạo. Để hoàn thành sứ mệnh: đào tạo
đạt chuẩn, đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, của địa phương được

xem như là những nội dung mang tính chất “sống còn” của cơ sở đào tạo nhân
lực trên cả nước…
Quản lý chất lượng đào tạo ở nhà trường, trọng tâm vẫn là quản lý
dạy học. Hoạt động dạy - học giữ vị trí trung tâm và chi phối các hoạt động
giáo dục khác. Do đó mọi hoạt động trong nhà trường đều phải hỗ trợ đắc
lực cho hoạt động dạy học. Đây là hoạt động đặc trưng của nhà trường,
không có hoạt động dạy học không có nhà trường và kết quả hoạt động dạy
học cũng là thước đo về khả năng của những người làm công tác quản lý
trong nhà trường. Vì vậy việc nắm bắt những thuận lợi, khó khăn của nhà
trường, để có những giải pháp quản lý một cách có hiệu quả hoạt động dạy
1
học là việc cấp thiết, là mối quan tâm hàng đầu của những người làm công
tác quản lý giáo dục.
Trường Trung cấp Việt - Anh được thành lập theo Quyết định số:
1851QĐ/UBND - VX vào ngày 28 tháng 05 năm 2007 của Uỷ ban nhân dân
Tỉnh Nghệ An. Trường đào tạo 04 ngành: Kế toán; Y sỹ trung cấp; Điều
dưỡng và Dược sỹ trung cấp. Trường có 99 cán bộ, giáo viên, nhưng phân tán
tại nhiều bộ phận. Đặc biệt trường thành lập muộn so với nhu cầu phát triển
của xã hội nên cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý chất lượng đào
tạo của Nhà trường.
Từ cơ sở lý luận và những lý do trên chúng tôi nhận thấy việc nghiên
cứu đề tài “Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo ở trường Trung
cấp Việt - Anh, tỉnh Nghệ An” là một yêu cầu cấp thiết và chúng tôi đã chọn
đề tài này làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo
dục của mình, đồng thời với mục đích góp sức mình nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của trường, để góp phần
vào việc hoàn thành những nhiệm vụ lớn lao mà Đảng và Nhà nước đã giao
cho trường Trung cấp Việt - Anh.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở

Trường trung cấp Việt - Anh, tỉnh Nghệ An
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý chất lượng đào tạo ở trường TCCN
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý chất lượng đào tạo của Trường trung cấp Việt - Anh,
tỉnh Nghệ An
2
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng đào tạo ở Trường trung cấp Việt - Anh, tỉnh Nghệ An sẽ
được nâng cao nếu đề xuất và thực hiện các giải pháp QL có tính khoa học,
tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý chất lượng đào tạo ở trường
Trung cấp chuyên nghiệp.
5.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý chất lượng đào tạo ở
Trường Trung cấp Việt - Anh, tỉnh Nghệ An
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo ở trường
Trung cấp Việt - Anh, tỉnh Nghệ An
6. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong phạm vi chất
lượng quản lý đào tạo trường Trung cấp Việt - Anh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa tài liệu có liên quan nhằm xác
lập cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Các nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Gồm các phương
pháp
- Phương pháp điều tra: Phương pháp này chính yếu cho việc khảo sát
và đánh giá hoạt động quản lý các bộ phận, Khoa, Bộ môn và đội ngũ giáo

viên tại trường Trung cấp Việt -Anh, tỉnh Nghệ An
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
- Phương pháp chuyên gia để thu thập thông tin làm sáng tỏ các cơ sở
thực tiễn
3
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu điều tra và
các kết quả nghiên cứu.
8. Đóng góp của luận văn
Đề tài góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và nội dung của việc tăng
cường các giải pháp QL hoạt động ĐT của trường Trung cấp Việt - Anh.
Trên cơ sở thực trạng việc QL hoạt động ĐT của trường Trung cấp Việt
- Anh, tác giả đề xuất một số giải pháp tăng cường QL hoạt động ĐT của
trường Trung cấp Việt - Anh.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý chất lượng đào tạo ở
trường trung cấp chuyên nghiệp
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý chất lượng đào tạo ở trường
trung cấp Việt - Anh, tỉnh Nghệ An
Chương 3: Một số giải pháp quản lý chất lượng đào tạo ở trường trung
cấp Việt - Anh, tỉnh Nghệ An
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Những nghiên cứu nước ngoài
Khi nghiên cứu về vai trò QL, các nhà lý luận QL trên thế giới như:

Frederich Wiliam Taylor (1856 -1915) - Mỹ, Henri Fayol (1841-1925) - Pháp,
Max Weber (1864 -1920) - Đức đều khẳng định: QL là khoa học, đồng thời là
nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội. Trong bất kỳ lĩnh vực nào của xã hội,
QL luôn giữ vai trò quan trọng trong việc vận hành và phát triển.
Các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục Xô Viết trong những công trình
nghiên cứu của mình đã cho rằng: “Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường
phụ thuộc rất nhiều vào công việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt
động của đội ngũ giáo viên”[30]. V.A Xukhomlinxki đã tổng kết những thành
công cũng như thất bại của 26 năm kinh nghiệm thực tiễn làm công tác QL
chuyên môn nghiệp vụ của một hiệu trưởng. Cùng với nhiều tác giả khác, ông
đã nhấn mạnh đến sự phân công hợp lý, sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất QL
giữa hiệu trưởng (HT) và phó HT để đạt được mục tiêu hoạt động chuyên
môn nghiệp vụ đã đề ra. Nhiều tác giả đều khẳng định vai trò lãnh đạo và QL
toàn diện của HT. Tuy nhiên, trong thực tế cùng tham gia QL các hoạt động
chuyên môn nghiệp vụ của nhà trường còn có vai trò quan trọng của các phó
hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn và các tổ chức đoàn thể. Song, làm thế
nào để hoạt động chuyên môn nghiệp vụ đạt hiệu quả cao nhất, huy động
được tốt nhất sức mạnh của mỗi giáo viên? Đây là vấn đề nhiều tác giả đặt ra
trong công trình nghiên cứu. Vì vậy V.A Xukhomlinxki cũng như các tác giả
khác đều chú trọng đến việc phân công hợp lý và các biện pháp QL chuyên
5
môn nghiệp vụ của HT [30].
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động hoạt động quản lý
giáo dục đào tạo và chất lượng đào tạo nhà trường đã thu hút được sự quan
tâm cũng như nhiều nhà nghiên cứu như Phạm Minh Hạc, Phạm Minh Hùng,
Thái Văn Thành, khi nghiên cứu các tác giả đã nêu lên nguyên tắc chung về
nâng cao chất lượng quản lý đào tạo của các cán bộ quản lý: Xác định đầy đủ
nội dung hoạt động quản lý, xây dựng hoàn thiện quy chế kiểm tra và đánh
giá đào tạo của nhà trường, xác lập các tiêu chí đánh giá GV; tổ chức đánh giá

và sự thay đổi nhà trường”, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mỹ Trinh từ các
chuyên đề đã được đề cập đến “quản lý nguồn lực” và việc đổi mới quản lý
nhà trường trên cơ sở chất lượng quản lý đào tạo làm tiêu chí trọng tâm, định
hướng phát triển nhà trường các phương pháp đổi mới tích cực, tăng cường
phương pháp quản lý đào tạo, phát huy tính tự học của tập thể cán bộ quản lý
và giáo viên… trong việc đổi mới phương pháp dạy và học trong trường
TCCN. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp cũng mở ra nhiều hội
thảo bàn về giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học bộ
môn trên thông tin mạng giáo dục.
Như vậy, vấn đề QL Nhà trường và hoạt động GDCN từ lâu đã được
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Hiện nay, chúng ta đang
đẩy nhanh tốc độ CNH - HĐH, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Việc tìm ra các biện
pháp QL để nâng cao chất lượng GDCN là vấn đề quan tâm chung của toàn
xã hội, đặc biệt là các nhà nghiên cứu GDCN.
Qua nhiều công trình nghiên cứu đều cho thấy vai trò quan trọng của
các biện pháp QL GDCN trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, dạy học ở
tất cả các cấp học, bậc học. Đây cũng là một trong những tư tưởng mang tính
6
chiến lược về phát triển GD của Đảng ta.
Đối với Tỉnh Nghệ An, ngoài những văn bản, chỉ thị, đề án nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động quản lý đào tạo GDCN ở các bậc học của Tỉnh và
được quan tâm cho vấn đề này và muốn tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo ở các trường TCCN nói chung và trường Trung cấp Việt -Anh
nói riêng.
1.2 Một số khái niệm cơ bản
1.2.1 Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1 Khái niệm về quản lý
Quản lý là sự công tác liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
(người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt

chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra
môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng quản lý có
thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con
người, sự vật cụ thể. Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp người,
công cụ phương tiện, tài chính để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt
mục tiêu đã định trước. Chủ thể muốn kết hợp được các hoạt động của đối
tượng theo một định hướng quản lý đặt ra phải tạo ra được “quyền uy” buộc
đối tượng phải tuân thủ. Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn các quá trính xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới
mục đích đã đề ra. Sự tác động của quản lý, phải bằng cách nào đó để người
chịu quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực, trí tuệ để sáng tạo
ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội. Quản lý là một môn
khoa học sử dụng trí thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và xã hội nhân
văn khác như: toán học, thống kế, kinh tế, tâm lý và xã hội học Nó còn là
một “nghệ thuật” đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế để đạt tới mục đích.
7
Quản lý là một hoạt động, một dạng lao động có tính đặc thù, có tổ
chức, là một hoạt động đa dạng phức tạp có nhiều cách tiếp cận khác nhau
trên cơ sở phương pháp luận khoa học để nghiên cứu các khía cạnh các yếu
tố, các lĩnh vực quản lý để làm đối tượng của sự nghiên cứu.
Do sự đa dạng về các hoạt động quản lý và cách tiếp cận với quản lý
dẫn đến sự phong phú các quan niệm, các định nghĩa theo nhiều cách của học
giả, học thuyết khác nhau. Có thể điểm qua một số khái niệm về QL như:
+ Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng có chủ đích của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức” [10]
+ Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là một quá trình tác động gây
ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu

chung” [1].
+ Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ thì “Quản lý là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác
động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục
tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong
muốn” [15].
+ Tác giả Nguyễn Văn Lê cho rằng: “Quản lý là một công việc mang
tính khoa học song nó cũng mang tính nghệ thuật”. Ông cho rằng mục đích
của công việc quản lý chính là nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra.
Ông viết “Quản lý là một hệ thống xã hội khoa học và nghệ thuật tác động
vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu
theo mục tiêu đề ra” [20].
+ Theo tác giả Thái Văn Thành: “Quản lý gồm những công việc chỉ
huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt được
8
mục đích của nhóm ” [25].
Từ những khái niệm về quản lý nêu trên ta có thể hiểu: Nói đến QL là
điều hành, điều khiển chỉ huy. Về bản chất, nội dung đều là tổ chức, điều
khiển hoạt động một nhóm (hay nhiều nhóm xã hội cùng nhau thực hiện mục
đích, nhiệm vụ hoạt động chung).
Hoạt động QL bao giờ cũng là hoạt động hướng đích. Khi xem xét về
đối tượng QL các quan điểm đều thống nhất với nhau ở các yếu tố cơ bản
trong hoạt động QL là:
- Người chỉ huy, điều khiển (chủ thể QL)
- Người hoặc đồ vật bị chỉ huy, điều khiển (khách thể QL)
- Phải có mục đích, nhiệm vụ hoạt động chung.
Như vậy từ các yếu tố trên ta thấy yếu tố quan trọng và có thể coi đó là
xuất phát điểm của hoạt động QL là con người điều khiển, điều hành, tiếp
theo là đối tượng QL. Quản lý tồn tại với tư cách là một hệ thống, QL có cấu
trúc và vận động trong một môi trường nhất định. Hệ thống QL được tạo bởi

các yếu tố: Cơ chế QL, chủ thể QL, đối tượng QL và mục tiêu QL.
1.2.1.2 Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một lĩnh vực mà từ trước đến nay đã được rất nhiều
nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu và đưa ra những định nghĩa về khái niệm
QLGD khác nhau.
+ Theo Thái Văn Thành “quản lý hệ thống giáo dục có thể xác định là
tác động của hệ thống có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản
lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (Bộ đến Trường)
nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở
nhận thức và vận dụng những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát
triển thể lực và tâm lý trẻ em” [25]
+ Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục, quản lý trường học có
9
thể hiểu là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích tự giác, hệ thống, có kế
hoạch) mang tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên
và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm
huy động cho họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia mọi hoạt động của nhà
trường, nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu với việc hoàn thành
những mục tiêu dự kiến” [16].
+ Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý
(hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo
dục của Đảng thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới các mục tiêu dự kiến, tiến tới trạng
thái mới về chất”. [21]
+ Theo tác giả Nguyễn Gia Quý “Quản lý quá trình giáo dục là quản lý
một hệ thống toàn vẹn bao gồm các yếu tố: Mục tiêu, nội dung, phương pháp,
tổ chức giáo dục, người dạy, người học, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho
dạy và học, môi trường giáo dục, kết quả giáo dục” [24].
Như vậy QLGD là tổng hợp các biện pháp tổ chức, kế hoạch hóa, nhằm

bảo đảm sự vận hành bình thường các cơ quan trong hệ thống giáo dục. Hệ
thống giáo dục là một hệ thống xã hội, QLGD cũng chịu sự chi phối của quy
luật xã hội và tác động của quản lý xã hội. Trong QLGD các hoạt động quản
lý hành chính nhà nước và quản lý sự nghiệp chuyên môn đan xen vào nhau,
thâm nhập lẫn nhau không tách biệt tạo thành hoạt động quản lý thống nhất.
Từ những khái niệm nêu trên đưa đến cách hiểu chung nhất là: QLGD
là quá trình vận dụng nguyên lý, khái niệm, phương pháp chung nhất của
khoa học quản lý vào lĩnh vực QLGD.
Quản lý giáo dục là hoạt động của các chủ thể và đối tượng quản lý
thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm đạt mục đích đề ra của
10
quản lý bằng cách thực hiện các chức năng nhất định và vận dụng các biện
pháp, nguyên tắc, công cụ quản lý thích hợp.
1.2.1.3 Khái niệm quản lý nhà trường
Trường học là một hệ thống xã hội mà ở đó tiến hành quá trình giáo
dục đào tạo. Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội trong đó diễn ra
quá trình giáo dục đào tạo. Nhà trường là một bộ phận của cộng đồng xã hội
và trong hệ thống giáo dục quốc dân đó chính là cơ sở giáo dục.
- Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục
nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và với từng học sinh” [14]
Có thể hiểu quản lý nhà trường bao gồm 2 loại:
1. Tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường.
2. Tác động của những chủ thể quản lý bên trong nhà trường.
Như vậy, quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ
quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt
động giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường. Quản lý nhà trường cũng
bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của những thực thể bên ngoài nhà

trường nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại
diện dưới hình thức hội đồng giáo dục nhằm định hướng sự phát triển của
nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát
triển đó.
Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm
các hoạt động quản lý giáo viên (GV), quản lý học sinh sinh viên (HSSV),
quản lý quá trình dạy học, giáo dục; quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị
trường học; quản lý tài chính; quản lý lớp học, quản lý mối quan hệ giữa nhà
11
trường và cộng đồng.
Trường học là một hệ thống xã hội đặc trưng bởi quá trình giáo dục.
Giáo dục là quá trình hình thành, hoàn thiện nhân cách, còn đào tạo là hướng
vào một nghề nhất định. Theo đó, từ trường phổ thông đến các trường chuyên
nghiệp, dạy nghề người ta thường dùng là đào tạo. Các thành tố để tạo thành
quá trình giáo dục và đào tạo trong nhà trường, bao gồm:
- Bộ máy tổ chức, quản lý
- Mục tiêu giáo dục và đào tạo
- Nội dung giáo dục và đào tạo
- Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục và đào tạo
- Lực lượng giáo dục và đào tạo (gồm giáo viên, CBVC)
- Đối tượng giáo dục và đào tạo (người học)
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục và đào tạo
- Môi trường giáo dục và đào tạo.
Quản lý nhà trường là một bộ phận của QLGD nói chung, không có
trường học thì không thể có giáo dục đúng nghĩa của nó.
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục, quản lý trường học có thể
là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế hoạch)
mang tính tổ chức, sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học
sinh, đến lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm tác động họ
cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của trường nhằm làm

cho quá trình này vận hành tối ưu tới việc hoàn thành những mục tiêu dự
kiến” [17].
Khái niệm trên cho thấy: Quản lý nhà trường là QLGD được tổ chức,
thực hiện ở trong một phạm vi không gian nhất định của một đơn vị giáo dục
- đào tạo - nhà trường. Quản lý với từng bậc học khác nhau, với loại hình
khác nhau để đảm bảo đạt được mục tiêu quản lý đặt ra. Tuy nhiên dù quản lý
12
nhà trường ở bậc học nào, loại hình trường nào thì cũng phải bảo đảm những
yếu tố cơ bản chung nhất là:
- Xác định rõ mục tiêu quản lý của nhà trường đó là những mục tiêu
hoạt động của nhà trường được dự kiến trước khi triển khai hoạt động. Mục
tiêu đó được cụ thể hóa trong kế hoạch năm học, chính là các nhiệm vụ, chức
năng mà nhà trường phải thực hiện trong năm học.
- Xác định cụ thể nội dung các mục tiêu, trên cơ sở đó hoạch định các
mục tiêu một cách tổng thể, chủ thể quản lý cụ thể hóa nội dung từng mục
tiêu, đây là những điều kiện để cho mục tiêu trở thành hiện thực khi được tổ
chức thực hiện trong năm học.
- Nhà trường là một cơ sở giáo dục và đào tạo, là một đơn vị độc lập,
nhà trường thực hiện sứ mệnh chính trị của mình là dạy học và giáo dục thế
hệ trẻ.
Từ những quan điểm trên, quản lý nhà trường là một khoa học và mang
tính nghệ thuật, nó được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của khoa
học quản lý, đồng thời nó có những nét đặc thù riêng đó là những quy định ở
bản chất của sự lao động, lao động sư phạm của người giảng viên, bản chất
của quá trình dạy học giáo dục mà là đối tượng của nó là học sinh, sinh viên.
Học sinh, sinh viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể hoạt động của chính bản
thân mình. Sản phẩm giáo dục và đào tạo của nhà trường là nhân cách học
sinh, sinh viên được rèn luyện, phát triển theo yêu cầu của xã hội. Có thể nói
rằng quản lý nhà trường là quá trình tổ chức giáo dục và đào tạo hoàn thiện và
phát triển nhân cách học sinh, sinh viên một cách khoa học và có hiệu quả

chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Theo Nguyễn Ngọc Quang “Quản lý trường học là tập hợp những tác
động tối ưu (công tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, can thiệp) của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ khác”.[21]
13
Khái niệm trên cho thấy: Quản lý nhà trường là QLGD được tổ chức,
thực hiện ở trong một phạm vi không gian nhất định của một đơn vị giáo dục
- đào tạo - nhà trường. Quản lý với từng bậc học khác nhau, với loại hình
khác nhau để đảm bảo đạt được mục tiêu quản lý đặt ra. Tuy nhiên dù quản lý
nhà trường ở bậc học nào, loại hình trường nào thì cũng phải bảo đảm những
yếu tố cơ bản chung nhất là:
- Xác định rõ mục tiêu quản lý của nhà trường đó là những mục tiêu
hoạt động của nhà trường được dự kiến trước khi triển khai hoạt động. Mục
tiêu đó được cụ thể hóa trong kế hoạch năm học, chính là các nhiệm vụ, chức
năng mà nhà trường phải thực hiện trong năm học.
- Xác định cụ thể nội dung các mục tiêu, trên cơ sở đó hoạch định các
mục tiêu một cách tổng thể, chủ thể quản lý cụ thể hóa nội dung từng mục
tiêu, đây là những điều kiện để cho mục tiêu trở thành hiện thực khi được tổ
chức thực hiện trong năm học.
- Nhà trường là một cơ sở giáo dục - đào tạo, là một đơn vị độc lập, nhà
trường thực hiện sứ mệnh chính trị của mình là dạy học và giáo dục thế hệ trẻ.
Tóm lại: Quản lý nhà trường là một khoa học và mang tính nghệ thuật,
nó được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của khoa học quản lý,
đồng thời nó có những nét đặc thù riêng đó là những quy định ở bản chất của
sự lao động - lao động sư phạm của người giảng viên - bản chất của quá trình
dạy học - giáo dục, mà là đối tượng của nó là học sinh, sinh viên. Học sinh,
sinh viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể hoạt động của chính bản thân mình.
Sản phẩm giáo dục - đào tạo của nhà trường là nhân cách học sinh, sinh viên
được rèn luyện, phát triển theo yêu cầu của xã hội. Có thể nói rằng quản lý
nhà trường là quá trình tổ chức giáo dục - đào tạo hoàn thiện và phát triển

nhân cách học sinh, sinh viên một cách khoa học và có hiệu quả chất lượng
tốt đáp ứng nhu cầu của xã hội.
14
1.2.2 Đào tạo, quản lý đào tạo
1.2.2.1 Đào tạo
Đào tạo, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, là quá trình tác động đến
một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi
với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp
phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh
của loài người. [27]
Đào tạo, cùng với nghiên cứu khoa học và dịch vụ phục vụ cộng đồng,
là hoạt động đặc trưng của các cơ sở đào tạo. Đó là hoạt động chuyển giao có
hệ thống, có phương pháp những kinh nghiệm, những tri thức, những kĩ năng,
kĩ xảo nghề nghiệp chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo
đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự
lập và góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước.
Đào tạo là hoạt động mang tính phối hợp giữa các chủ thể dạy học
(người dạy và người học), là sự thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học
tiến hành trong một cơ sở giáo dục, mà trong đó tính chất, phạm vi, cấp độ,
cấu trúc, qui trình của hoạt động được qui định một cách chặt chẽ, cụ thể về
mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, cơ sở vật
chất và thiết bị dạy học, đánh giá kết quả đào tạo, cũng như thời gian và đối
tượng đào tạo cụ thể.
Xét từ góc độ chuyển giao kinh nghiệm, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề
nghiệp chuyên môn, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn
bị tâm thế lao động cho người học, đào tạo được cấu thành bởi các thành tố
cấu trúc gồm mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp, phương tiện và
hình thức tổ chức các hoạt động đào tạo.
15

Quá trình chuyển giao năng lực nghề nghiệp được thực hiện trong hoạt
động cùng nhau của thầy và trò trong một môi trường dạy học xác định. Xét
từ góc độ này đào tạo gồm các thành tố: 1) hoạt động dạy của giảng viên; 2)
hoạt động học của sinh viên; 3) môi trường đào tạo (môi trường vật chất và
môi trường tinh thần, môi trường văn hoá).
Xét từ góc độ quá trình thực hiện nhiệm vụ theo chức năng của nhà
trường, đào tạo bao gồm các khâu: 1) đầu vào: đánh giá nhu cầu đào tạo, xây
dựng các chương trình đào tạo, xây dựng các điều kiện đảm bảo cho việc thực
hiện các chương trình đào tạo, tuyển sinh; 2) các hoạt động đào tạo: dạy học,
thực tập, giáo dục, nghiên cứu khoa học ; 3) đầu ra: kiểm tra, đánh giá kết
quả giáo dục và dạy học, xét công nhận tốt nghiệp, cấp phát văn bằng, chứng
chỉ, kiểm định và đảm bảo chất lượng đào tạo.
1.2.2.2.Quản lý hoạt động đào tạo
Quản lý hoạt động đào tạo (QL-HĐĐT) tồn tại như một hoạt động tổ
chức xã hội, nó gắn liền với hoạt động của trường hay con người nhằm chiếm
lĩnh các mục tiêu chung.
Mục đích quản lý đào tạo phản ánh tập trung nhất những yêu cầu của
xã hội đối với quá trình QL-HĐĐT. Nó gắn liền với mục tiêu giáo dục nói
chung và mục tiêu đào tạo nghề nói riêng của bậc học.
Quản lý hoạt động đào tạo bao gồm các hoạt động: Quản lý hoạt động
giáo dục và quản lý hoạt động của con người trong tổ chức. Hai hoạt động
này luôn gắn bó mật thiết với nhau, tồn tại cùng nhau, có tác động qua lại lẫn
nhau, là tiền đề phát triển cho nhau. Trong đó, quản lý hoạt động đào tạo của
trường là tổ chức có tính thống nhất, điều hành thực hiện các mục tiêu đào
tạo; hoạt động của con người (GV) là chính yếu và quản lý chung nhất dưới
các mục tiêu chung đã đề ra.
Quản lý hoạt động đào tạo là nhân tố quan trọng hàng đầu để thực thi
16
chất lượng và hiệu quả đào tạo, là mục tiêu trung tâm cùa hoạt động quản lý
nhà trường. Mục đích cuối cùng của giáo dục là vì sự phát triển cho thế hệ trẻ.

Tất cả hoạt động của nhà trường đều phục vụ cho mục đích này, do đó các
hoạt động luôn hướng vào hoạt động trung tâm là dạy và học. Vì vậy quản lý
hoạt động đào tạo chính là mục tiêu của quản lý.
Các nội dung của quản lý hoạt động đào tạo như:
- Quản lý việc thực hiện mục tiêu.
- Quản lý kế hoạch đào tạo.
- Quản lý việc thực hiện nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo.
- Quản lý cơ sở các điều kiện phục vụ cho quá trình đào tạo.
- Quản lý các phương thức tổ chức đào tạo.
- Quản lý công tác tuyển sinh, chấp hành các quy định thi cử, hồ sơ đào
tạo, việc thực hiện cấp phát văn bằng, chứng chỉ.
- Quản lý các mối quan hệ trong công tác đào tạo.
- Quản lý kiểm ta và đánh giá kết quả đào tạo.
1.2.3 Chất lượng, chất lượng đào tạo
1.2.3.1. Chất lượng
Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của
sự vật chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự phân biệt nó với sự vật
khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng thể hiện ra
bên ngoài thông qua các thuộc tính. Nó là sự liên kết các thuộc tính của sự vật
lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và
không tách khỏi sự vật. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính
quy định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi
sự vật bao giờ cũng có sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng.
Ngoài ra, chất lượng còn được hiểu là sự phù hợp với mục tiêu tức là
đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng lao động (khách hàng) hay vượt quá
17
các tiêu chuẩn đặt ra ban đầu cho sản phẩm. Đây là định nghĩa thông dụng
nhất khi xem xét các vấn đề của giáo dục…
1.2.3.2 Chất lượng đào tạo
Theo từ điển Giáo dục học của Nguyễn Văn Giao, chất lượng giáo dục

là “tổng hòa những sản phẩm chất và năng lực được tạo nên trong quá trình
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho người học so với thang chuẩn giá trị của nhà
nước hoặc xã hội” [12]
Chất lượng giáo dục có tính lịch sử cụ thể và luôn tùy thuộc vào điều
kiện xã hội đương thời, trong đó có thiết chế, chính sách và lực lượng tham
gia giáo dục. Từ định nghĩa “Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu, có thể
xem chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu giáo dục”. Mục tiêu giáo
dục là những yêu cầu của xã hội đối với con người mà các nhà trường phải
đáp ứng. Chất lượng giáo dục thường được xác định và đánh giá bởi những
tiêu chí trong các lĩnh vực như: cơ hội tiếp cận, sự nhập học, tỷ lệ tham dự
học tập, tỷ lệ lưu ban, bỏ học, mức độ thông thạo của đọc viết, và tính toán,
kết quả những bài kiểm tra, tỷ lệ đầu tư cho giá dục trong ngân sách nhà
nước… Giáo dục nghề được tiến hành bằng nhiều hình thức, nhưng hình thức
đặc trưng cơ bản nhất của GD chuyên nghiệp là hình thức dạy nghề. Kết quả
trực tiếp của quá trình đào tạo (QTĐT) là kiến thức nghề chuyên nghiệp
(phương pháp nhận thức, hành động và năng lực chuyên biệt của người học).
Chất lượng đào tạo chính là chất lượng của trường hay chất lượng người được
đào tạo hay tri thức nghề mà người học lĩnh hội được. Vốn học nghề toàn diện
vững chắc ở mỗi người là chất lượng đích thực của đào tạo.
Khái niệm chất lượng giáo dục đào tạo liên quan mật thiết với khái
niệm hiệu quả quản lý. Nói đến hiệu quản lý đào tạo tức là nói đến mục tiêu
đã đạt được ở mức độ nào, sự đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhà trường, chi
phí tiền của, sức lực và thời gian cần thiết ít nhất nhưng lại mang lại kết quả
18
cao nhất. Nhằm thực hiện việc đánh giá, người ta chuyển mục tiêu đào tạo
sang hệ thống tiêu chí. Thông thường dựa trên 3 tiêu chí cơ bản: Thái độ -
kiến thức - kỹ năng
1.2.4 Giải pháp, giải pháp QL chất lượng đào tạo chuyên nghiệp
1.2.4.1 Giải pháp
Giải pháp là quy trình thực hiện các công đoạn hoặc hàng loạt các công

đoạn xảy ra cùng một lúc hoặc liên tiếp theo thời gian.
1.2.4.2 Giải pháp QL chất lượng đào tạo chuyên nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt Giải pháp là “Phương pháp giải quyết một
vấn đề cụ thể nào đó”. [28]
Như vậy, nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm
thay đổi, chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái nhất định…
nhằm đạt được mục đích hoạt động. Giải pháp càng thích hợp, càng tối ưu,
càng giúp con người nhanh chóng giải quyết được những vấn đề đặt ra. Tuy
nhiên, để có được những giải pháp như vậy, cần phải dựa trên những cơ sở lý
luận và thực tiễn đáng tin cậy.
Giải pháp quản lý giáo dục là những cách thức tác động của chủ thể
quản lý hướng vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra của hệ thống giáo dục,
làm cho hệ thống đó vận hành đạt được kết quả mong muốn.
Chất lượng nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng là những thuật
ngữ khái niệm cơ bản được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Hiểu đơn
giản chất lượng đào tạo là mức độ đáp ứng của sản phẩm đào tạo so với
mục tiêu, nhưng khó khăn là ở chỗ nó rất khó đo lường đánh giá một cách
trực tiếp, muốn tiến hành đánh giá chất lượng đào tạo thì phải tiến hành
đánh giá gián tiếp qua hệ thống các điều kiện đảm bảo chất lượng, yếu tố
tác động đến quá trình đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đề ra và đáp ứng
được nhu cầu xã hội.
19

×