Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Một số giải pháp phát triển xã hội học tập ở tỉnh tiền giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 99 trang )









































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH






NGUYỄN TRUNG CHÁNH



MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TẬP
Ở TỈNH TIỀN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC












Nghệ An, năm 2014


2








































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH





NGUYỄN TRUNG CHÁNH




MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TẬP
Ở TỈNH TIỀN GIANG
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đình Phương





Nghệ An, năm 2014





3
Lời cảm ơn
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu với sự nổ lực, cố gắng của bản thân và
sự chỉ bảo tận tình của quý thầy, cô giáo và các nhà quản lý giáo dục. Với tình cảm
kính trọng và chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy trong Ban
giám hiệu nhà trường; quý thầy, cô ở Phòng đào tạo sau Đại học của trường Đại học
Vinh và quý thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Đặc biệt là cảm ơn thầy PGS. TS Ngô Đình Phương đã trực tiếp hướng dẫn

khoa học cho tôi.
Và tôi cũng xin cảm ơn Sở GD&ĐT, Hội Khuyến học tỉnh Tiền Giang, Trường
Đại học Tiền Giang, Cục Thống kê, TTGDTX, TTGDTX-HN các huyện, TTHTCĐ
các xã phường, thị trấn trong tỉnh và các đơn vị có liên quan trong quá trình nghiên
cứu.
Cám ơn các anh, chị trong lớp Cao học Quản lý Giáo dục khóa 20, các đồng
nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu, viết luận văn, bản thân đã cố gắng hết sức nhưng
chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của
quý thầy cô giáo, quý đồng nghiệp cùng các cơ quan, đơn vị.

Xin trân trọng cảm ơn.
Vinh, tháng 5 năm 2014
Tác giả




NGUYỄN TRUNG CHÁNH












4
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Mục đích nghiên cứu 10
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 11
4. Giả thuyết khoa học 11
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 11
6. Phương pháp nghiên cứu 11
7. Cấu trúc của luận văn 11
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP 12
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề 12
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài 12
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam 13
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài 15
1.2.1. Khái niệm XHHT 15
1.2.2. Xã hội hoá và xã hội hoá giáo dục 17
1.2.3. Phát triển 20
1.2.4. Phát triển XHHT 20
1.2.5. Giải pháp và giải pháp phát triển xã hội học tập 20
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT
23
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng XHHT 23
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT 25
Kết luận Chương 1 26
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TẬP Ở TỈNH TIỀN
GIANG 28
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, KT-XH và tình hình giáo dục của tỉnh Tiền
Giang 28

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tỉnh Tiền Giang 28
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 29
2.1.3. Khái quát về GD-ĐT tỉnh Tiền Giang 29
2.2. Thực trạng công tác XHHT ở tỉnh Tiền Giang 37
2.2.1. Tình hình xây dựng XHHT ở tỉnh Tiền Giang 37
2.2.2. Vấn đề xây dựng mô hình XHHTở tỉnh Tiền Giang 37
2.2.3. Thực trạng hệ thống trường, lớp trong giáo dục ban đầu (giáo dục chính
quy) 38
2.2.4. Thực trạng trường, lớp GDTX (giáo dục không chính quy) 42
2.3. Thực trạng phát triển XHHT ở tỉnh Tiền Giang 47
2.4. Đánh giá chung về thực trạng phát triển XHHT ở tỉnh Tiền Giang 55
2.4.1. Thành tựu 55

5
2.4.2. Nguyên nhân của những thành tựu 55
2.4.3. Những tồn tại hạn chế 56
2.4.4. Nguyên nhân về những tồn tại, hạn chế 57
Kết luận Chương 2 58
CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TẬP Ở
TỈNH TIỀN GIANG 60
3.1. Những nguyên tắc đề xuất các giải pháp 60
3.1.1. Bảo đảm tính mục tiêu 60
3.1.2. Bảo đảm tính toàn diện 60
3.1.3. Bảo đảm tính khả thi 60
3.1.4. Bảo đảm phù hợp với các chức năng quản lý giáo dục 60
3.2. Các giải pháp góp phần phát triển XHHT ở tỉnh Tiền Giang 60
3.2.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý - điều hành của nhà nước đối
với việc phát triển XHHT 60
3.2.2. Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý và nhân dân về tầm quan trọng
của phát triển XHHT 63

3.2.3. Tổ chức huy động toàn xã hội cùng chăm lo phát triển giáo dục 65
3.2.4. Đa dạng hóa các hình thức và phương tiện học tập 68
3.2.5. Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động của các TTHTCĐ nhằm kết hợp tốt với
Trung tâm GDTX, trường trung cấp KTKT, trường nghề 72
3.2.6. Xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học, khóm ấp khuyến học
76
3.3. Khảo sát sự cần thiết và khả thi của các giải pháp đề xuất 80
3.3.1. Khảo sát nhận thức về các giải pháp xây dựng XHHT ở tỉnh Tiền Giang
80
3.3.2. Khảo sát về tầm quan trọng của 6 nhóm giải pháp xây dựng XHHT nếu
được áp dụng ở tỉnh Tiền Giang 81
3.3.2. Kết quả thăm dò tính khả thi của 5 nhóm giải pháp xây dựng XHHT nếu
được áp dụng ở tỉnh Tiền Giang 82
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 83
1. Kết luận 84
2. Kiến nghị 84
CÁC PHỤ LỤC 87








6
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BCH
:

Ban Chấp hành.
CBQL
:
Cán bộ quản lý.
CMC-PCGD
:
Chống mù chữ - Phổ cập giáo dục
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSVC
:
Cơ sở vật chất.
DL
:
Dân lập
GD & ĐT
:
Giáo dục và Đào tạo
GDTX
:
Giáo dục thường xuyên
HĐND
:
Hội đồng nhân dân.
KH - CN
:
Khoa học - Công nghệ.
KTKT
:

Kinh tế kỹ thuật
KT-XH
:
Kinh tế - xã hội.
NCL
:
Ngoài công lập.
PCGD
:
Phổ cập giáo dục.
PCGDTH
:
Phổ cập giáo dục tiểu học
PCGDTHCS
:
Phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
THCS
:
Trung học cơ sở.
THPT
:
Trung học phổ thông.
TTGDTX
:
Trung tâm iáo dục thường xuyên
TTGDTX-HN
:
Trung tâm giáo dục thường xuyên-hướng nghiệp
TTHTCĐ
:

Trung tâm học tập công đồng.
XHHT
:
Xã hội học tập.
XHHGD
:
Xã hội hóa giáo dục.
XMC
:
Xóa mù chữ
XMC - PCGD
:
Xóa mù chữ - Phổ cập giáo dục.






7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt lý luận:
Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ
và đòi hỏi của xã hội tri thức, xây dựng xã hội học tập là xu thế phát triển của nhân
loại đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia.Việc xây dựng xã hội
học tập có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là mục tiêu, động lực và giải pháp để
phát triển giáo dục – đào tạo bền vững, tiến tới một xã hội văn minh, tiến bộ. Trong
bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức, học không chỉ tiếp
nhận tri thức, kỹ năng để tìm kiếm việc làm mà còn để phát triển năng lực con

người, thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của cá nhân, phù hợp với trụ cột của giáo dục thế
kỷ 21 “học để học cách học, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định
mình”. Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập là một chủ trương quan trọng,
một cuộc vận động cách mạng to lớn, của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, vừa có
tính cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài phù hợp với xu thế của thời đại khi giáo dục - đào
tạo đã trở thành yếu tố quyết định tương lai của mỗi dân tộc, quốc sách hàng đầu của
mỗi quốc gia. Xã hội học tập là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xã hội học tập sẽ tạo
thế và lực nội sinh phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế trong quá trình thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Trong xã hội tri thức, những điều vừa học được có nguy cơ lạc hậu, cần phải
được bổ sung. Từ đó xuất hiện khái niệm Học suốt đời. Nền kinh tế tri thức bắt buộc
mọi người phải có kiến thức đáp ứng được nhu cầu của nó, nên ai cũng phải học, do
vậy khái niệm xã hội học tập ra đời thay cho khái niệm xã hội công nghiệp. Trong xã
hội học tập, không phải ai cũng được đến trường, người học trở thành người tự
học. Năng lực học tập, lòng ham hiểu biết trở thành kho báu nội tại của mỗi con
người trong xã hội mới.
Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi,
bổ sung một số điều năm 2001) tại điều 35 đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu”. Luật Giáo dục Việt Nam năm 2005 cũng đã khẳng định: “Phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”. Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
một lần nữa khẳng định "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài".
Trong những năm qua, ngành GD&ĐT cả nước đã có những bước phát triển
mới, đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong việc mở rộng quy mô, tăng cơ hội tiếp
cận giáo dục cho mọi người và tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

8
Tuy vậy, trước những yêu cầu tăng về quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục và

đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu đổi mới và hội nhập, việc xây dựng xã hội học
tập là vấn đề bức bách cần sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, xã hội và
của ngành giáo dục.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, trong Báo cáo chính trị có đoạn viết về
giáo dục: “Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên,
đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề”; “đẩy mạnh phong trào
học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính
quy, thực hiện giáo dục cho mọi người”; “cả nước trở thành một xã hội học tập”

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, một lần nữa Trung ương Đảng
nhấn mạnh quan điểm của Đảng về xã hội học tập như sau: “chuyển dần mô hình
giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống
giáo dục suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây
dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực
hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, tạo nhiều khả năng, cơ hội
học tập khác nhau cho người học bảo đảm sự cộng bằng xã hội trong giáo dục”
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định:
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên cả ba phương
diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng
đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập,
tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời.”
Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng
chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010đã xác định:
"Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập với tiêu chí cơ bản là tạo cơ hội và
điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường
xuyên, học liên tục, học suốt đời ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi trình độ; huy động
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục"
Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 09 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt Đề án Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020 nhấn mạnh:


“Trong
xã hội học tập, mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên, suốt đời, tận dụng
mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động với hiệu quả ngày
càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh phúc; học để góp
phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại. Các cơ quan nhà nước, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cộng đồng dân cư và gia đình
có trách nhiệm cung ứng các cơ hội học tập và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người
được học tập suốt đời. Xây dựng xã hội học tập dựa trên nền tảng phát triển đồng
thời, gắn kết và liên thông giữa giáo dục chính quy và GDTX; đẩy mạnh các hoạt

9
động học tập suốt đời ở ngoài nhà trường; ưu tiên các đối tượng chính sách, người
dân tộc, phụ nữ, người bị thiệt thòi”.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ IX nhiệm kỳ 2010
– 2015 đã khẳng định: “Đổi mới, phát triển mạnh mẽ GD&ĐT, khoa học và công
nghệ, chủ động bảo vệ môi trường, hạn chế tác hại của biến đổi khí hậu, xây dựng
xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời”.
1.2. Về mặt thực tiễn:
Hiện nay, nâng cao dân trí là một yêu cầu bức thiết mang một ý nghĩa chiến
lược về phát triển nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nhất là
trong điều kiện khoa học - công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và
công cuộc công nghiệp hóa đang chuyển dần qua nền kinh tế tri thức mà cốt lõi là
đội ngũ công nhân trí thức có trình độ chuyên môn cao. Lịch sử phát triển của nhiều
nước trên thế giới đã cho chúng ta thấy rằng, tất cả các nước có nền kinh tế hùng
mạnh, có khoa học - công nghệ phát triển đều là những nước có nền giáo dục -
đào tạo tiên tiến, luôn xem phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo là nhiệm vụ chiến
lược hàng đầu của quốc gia mình. Giáo dục - đào tạo và phát triển kinh tế - xã hội
ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau, giáo dục - đào tạo cũng đồng thời gắn bó hữu
cơ với khoa học - công nghệ. Chính điều đó đã đặt giáo dục đứng ở vị trí trung tâm
của sự phát triển. Giáo dục có sứ mạng giúp mọi người phát huy tất cả tài năng và

tiềm lực sáng tạo của mình. Để thực hiện được sứ mạng đó, việc xây dựng xã hội
học tập trở thành xu thế tất yếu của các nước trên thế giới trước yêu cầu mới của thời
đại. Đặc biệt đối với Việt Nam sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO.
Tại tỉnh Tiền Giang, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, vì vậy, cùng một
lúc chúng ta vừa phải chuyển đổi sang nền kinh tế công nghiệp vừa chuyển một số
lĩnh vực sang kinh tế tri thức. Do đó, mô hình xã hội học tập chắc chắn phải có cấu
trúc, cơ chế, giải pháp quản lý và vận hành khác với các địa phương trong cả nước.
Song, phương châm học suốt đời; đào tạo liên tục; GDTX phải là bất di bất dịch của
mô hình xã hội học tập ở bất kỳ không gian nào, thời gian nào.
Trong những năm gần đây, GD&ĐT tỉnh Tiền Giang đã có những bước phát triển
cả về quy mô và chất lượng, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, trước sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin, của nền kinh tế tri thức, của xu thế hội
nhập và toàn cầu hóa và yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục Việt Nam trong
thời kỳ CNH, HĐH thì GD&ĐT tỉnh Tiền Giang nói riêng và vấn đề xây dựng mô
hình xã hội học tập ở Tiền Giang nói chung bộc lộ nhiều hạn chế. Những tiêu chí cơ
bản nhằm tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ

10
được học tập thường xuyên, học liên tục, học suốt đời ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp,
mọi trình độ đã được ngành GD&ĐT, Hội Khuyến học cùng với các địa phương
trong tỉnh, các tổ chức, đoàn thể nhân dân và cơ quan thông tin xây dựng và đẩy
mạnh công tác tuyên truyền vận động, khuyến học khuyến tài, tổng thể chung nhận
thức của người dân về xây dựng xã hội học tập là tốt nhưng bước chuyển từ nhận
thức đến hành động vẫn còn khoảng cách.
Bên cạnh đó, nền tảng phát triển đồng thời của hai bộ phận cấu thành mô hình
xã hội học tập: giáo dục chính quy và GDTX của hệ thống giáo dục quốc dân trong
đó GDTX thực hiện các chương trình học tập nhằm tạo các điều kiện tốt nhất đáp
ứng mọi yêu cầu học tập suốt đời, học tập liên tục của mọi công dân chưa có sự gắn
kết, liên thông làm tiền đề để xây dựng xã hội học tập.

Vấn đề xây dựng xã hội học tập ở Tiền Giang là một vấn đề có ý nghĩa quyết
định và cấp bách đối với đòi hỏi CNH, HĐH của đất nước và của tỉnh Tiền Giang.
Đây là một vấn đề lớn, phức tạp đòi hỏi phải có công trình nghiên cứu khoa học với
phương pháp tiếp cận hệ thống trên cơ sở phân tích thực trạng và định hướng xây
dựng mô hình xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang. Trên cơ sở hệ thống giáo dục mở, từ
đó sẽ khắc phục dần sự phân biệt truyền thống giữa giáo dục ban đầu với GDTX,
khắc phục quan niệm cổ truyền về tuổi đi học và tuổi lao động trong đời người, khắc
phục cách hiểu cứng nhắc và tạo ra một hàng rào phân cách giữa giáo dục hàn lâm
và giáo dục nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều và chưa có
những nghiên cứu sâu về giải pháp phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang. Các
hoạt động xây dựng xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang trong những năm qua tuy được
quan tâm, nhưng trong triển khai thực hiện gặp nhiều khó khăn do đây là vấn đề vừa
mới, vừa khó và hiệu quả mang lại chưa cao, mặt bằng dân trí dù được cải thiện
nhưng vẫn còn ở mức thấp. Trong những năm gần đây chỉ có duy nhất một công
trình nghiên cứu về mô hình xã hội học tập tại tỉnh Tiền Giang, đó là: Đề tài khoa
học cấp tỉnh “Xây dựng mô hình xã hội học tập giai đoạn 2006 – 2015” của Hội
khuyến học tỉnh Tiền Giang.
Xuất phát từ những lý do nêu trên chúng tôi chọn đề tài luận văn “Một số giải
pháp phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang với mong muốn thông qua việc
định hướng phát triển mô hình về xã hội học tập trên địa bàn Tiền Giang sẽ có điều
kiện để tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về ý thức học tập, học suốt đời, qua đó
huy động mọi nguồn lực hình thành và xây dựng xã hội học tập.
2. Mục đích nghiên cứu

11
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số giải pháp
phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản
và toàn diện GD&ĐT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác phát triển xã hội học tập
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang.
4. Giả thuyết khoa học
Có thể phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang cả về quy mô và chất lượng,
góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học và có
tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
5.2.Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài.
5.3. Đề xuất các giải pháp phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận có các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
6.1.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu;
6.1.2. Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập;
6.2 Nhm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn có
các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
6.2.1. Phương pháp điều tra;
6.2.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
6.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
6.2.4. Phương pháp thống kê toán học.
7. Cấu trúc của luận văn
7.1. Phần mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài và cấu trúc luận văn.
7.2. Nội dung nghiên cứu: Dự kiến có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề phát triển xã hội học tập.

Chương 2: Vấn đề phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển xã hội học tập ở tỉnh Tiền Giang .
7.3. Kết luận và kiến nghị


12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Xây dựng XHHT đã trở thành một trào lưu của thế giới khi bước vào thế kỷ
XXI. Trong kế hoạch phát triển giáo dục của nhiều nước như Mỹ, Canada, Nga,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… đều coi XHHT như “mô hình của giáo dục
trong một xã hội đang thay đổi”. Singapore đề ra: “Nhà trường tư duy, quốc gia học
tập”. Mục tiêu giáo dục của Thái Lan trong kỷ nguyên toàn cầu hoá là xây dựng
XHHT… Đài Loan cũng đưa ra chính sách “Tiến tới xây dựng XHHT”, công bố
năm 1998 là “năm học tập suốt đời cho mọi người”.
Thật ra, vấn đề xây dựng XHHT trên thế giới bắt đầu được nghiên cứu từ
những thập niên 60 của thế kỷ trước. Đônanson là người đầu tiên đã đưa ra ý tưởng
cho rằng, xã hội trong tương lai sẽ có nhiều biến đổi rất nhanh chóng, do đó nhu cầu
học tập sẽ tăng lên hơn nhiều. Con người cần phải học để hiểu, để tác động, để điều
hành các biến đổi đó. Năng lực học tập phải trở thành một thuộc tính bản chất của
mỗi người, ai cũng phải biết học suốt đời một cách thành thục. Từ đó theo
Đônanson, các công ty, các phong trào xã hội và chính quyền đều phải là các “hệ
thống học tập”.
Năm 1972, Etga Phô viết cuốn “Học để tồn tại”. Trong cuốn sách này, tác
giả đã nhấn mạnh “nếu học tập là việc động chạm đến suốt đời của con người, cả
theo nghĩa thời gian, cả theo nghĩa đa dạng và đối với mọi người trong xã hội, kể cả
các nguồn lực xã hội, kinh tế và giáo dục, khi đó chúng ta phải đi xa hơn việc tháo
dỡ tất cả các hệ thống giáo dục cho đến lúc nào đạt được tình trạng của một XHHT”.

Trong một cuốn sách công bố năm 1968 Rôbớt Hútchin cũng đã khẳng định
sự cần thiết tiến tới một “XHHT” với hai lí do “là người ta có nhiều thời gian nghỉ
ngơi hơn và thế giới biến đổi nhanh hơn”.
Giắc Đơlô, trong công trình nghiên cứu: “Học tập một kho báu tiềm ẩn” đã
đi sâu vào vấn đề “Học tập suốt đời” và gắn bó với quan niệm: “XHHT là xã hội ở
đó mọi sự đều là cơ hội học tập và phát triển mọi khả năng”.
Ông cho rằng, nguyên tắc “Học tập suốt đời” đòi hỏi biết cách nắm được
vững tri thức ngoài nhà trường hoặc ở nơi làm việc cũng như ở ngoài xã hội, trong
suốt cuộc đời. Do đó, cần phải kết hợp giáo dục chính quy ở nhà trường với giáo dục
không chính quy ở ngoài nhà trường, giáo dục trong XHHT cần phải có những đặc
điểm sau đây:
- Đó là một nền giáo dục thể hiện được tính mềm dẻo, đa dạng và khả thi
trong thời gian khác nhau và địa điểm khác nhau. Giáo dục trở thành một quá trình

13
liên tục về sự hình thành con người toàn diện, cả về tri thức và cả những khả năng
của họ (khả năng phán đoán trong tư duy và khả năng hành động trong đời sống
hằng ngày).
- Đó là một nền giáo dục tạo ra được những cơ hội học tập cho mỗi một con
người và mỗi cộng đồng có nhu cầu nắm bắt thông tin và tri thức, làm chủ được các
công nghệ mới.
- Đó là nền giáo dục coi trọng giáo dục cơ sở, tận lực phát triển giáo dục
trung học và đại chúng hoá giáo dục đại học.
Phong trào Giáo dục cho mọi người ra đời và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ
năm 1990, khi các đại biểu tham dự Diễn đàn Thế giới Giáo dục cho mọi người ở
Jomtien, Thái Lan cùng nhau cam kết cung cấp Giáo dục tiểu học có chất lượng cho
tất cả trẻ em và giảm một cách đáng kể tỷ lệ mù chữ của người lớn vào cuối thập kỷ.
Đến tháng 4/2000, tại Diễn đàn Giáo dục Quốc tế ở Dakar, Xênêgan, hơn 1100 đại
biểu bao gồm các nhà lãnh đạo, nhà quản lư giáo dục, các giáo viên, nhà nghiên
cứu… đến từ 164 quốc gia, trong đó có Việt Nam đã cùng nhau tổng kết lại những

tiến bộ đã đạt được kể từ sau Diễn đàn ở Jomtien, đồng thời khẳng định một lần nữa
tầm nhìn về Giáo dục cho mọi người đến năm 2015. Các mục tiêu đề ra tại Diễn đàn
Dakar gồm 6 nhóm chính:
- Mở rộng chăm sóc và giáo dục mầm non;
- Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đến năm 2015;
- Tăng cường hiểu biết và kỹ năng sống cho thanh niên và người lớn;
- Đạt mức 50% tỷ lệ biết đọc, biết viết của người lớn vào năm 2015;
- Đạt cân bằng giới vào năm 2005 và bình đẳng giới vào năm 2015;
- Cải thiện chất lượng giáo dục.
Sau đó 3 tháng, tại hội nghị G8, họp ở Ôkinawa, Nhật Bản, tháng 7/2000,
nguyên thủ của các nước này đã cho rằng: “Sự thách thức đối với mỗi nước là phải
trở thành một XHHT và phải đảm bảo cho công dân của mình được trang bị kiến
thức, kỹ năng và tay nghề cho thế kỷ mới”. Tại Hội nghị của UNESCO họp ở
Giơnevơ tháng 12/2003 đã gắn XHHT với xã hội thông tin, xã hội tri thức. Từ đó
các đại biểu dự hội nghị đã đi tới thống nhất XHHT, xã hội tri thức, xã hội thông tin
đều đặt ra con người vào vị trí trung tâm, đều tập trung vào con người, tạo điều kiện
cho con người phát triển bền vững và là điều kiện của mọi sự phát triển của kinh tế
xã hội.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm hướng tới
các mục tiêu Giáo dục cho mọi người đã cam kết ở Dakar và đạt được một số thành

14
tựu sau: Giáo dục mầm non đã có những chuyển hướng quan trọng trong việc hình
thành mạng lưới giáo dục mầm non trong cả nước trên tinh thần Quyết định 161/QĐ-
TTg ngày 15/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Đề án phát triển Giáo dục cho mọi
người giai đoạn 2006 - 2015 để thực hiện Quyết định 161QĐ-TTg đã được Chính
phủ thông qua tại phiên họp tháng 11/2005. Về giáo dục tiểu học, đã có 45 tỉnh,
thành đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi đạt 71,43% số tỉnh, thành của cả
nước; Về giáo dục trung học cơ sở, đã có 46 tỉnh, thành đạt chuẩn phổ cập trung học

cơ sở đạt 73,02% số tỉnh, thành của cả nước; Hiện nay nhiều tỉnh, thành đang phấn
đấu đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học. Năm học qua tổng số học sinh được giáo
dục-đào tạo chính quy trên cả nước là 24.114.850 người, giáo dục-đào tạo không
chính quy là 11.217.949 người và giáo dục dành cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt (
khuyết tật, mồ côi, cơ nhỡ…) là 36.200 người. Như vậy, tổng số người học năm học
qua của cả nước là 35.368.999 người chiếm gần 2/5 dân số cả nước; 3/5 dân số còn
lại được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng qua mạng lưới trên 9000 TTHTCĐ được
phân bố rộng khắp ở các xã, phường trong cả nước cho thấy Việt Nam đã có nhiều
nỗ lực thực hiện các mục tiêu Giáo dục cho mọi người hướng tới XHHT.
Tuy nhiên, nhiệm vụ còn lại cũng rất nặng nề, muốn thực hiện được các mục
tiêu đã đề ra trong Kế hoạch hành động quốc gia Giáo dục cho mọi người cần có sự
phối hợp tích cực của các Bộ, Ban, Ngành ở Trung ương và sự quyết tâm thực hiện
của các địa phương.
Nghiên cứu về vấn đề xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam, từ sau Đại hội
IX của Đảng đã xuất hiện hàng loạt bài báo của các tác giả Vũ Oanh, Phạm Minh
Hạc, Phạm Tất Dong, Nguyễn Minh Đường, Thái Xuân Đào, Nguyễn Như Ất,
Nguyễn Viết Sự, Nguyễn Xuân Đường, Phan Đức Thành, Nguyễn Mạnh Cầm… bàn
về vấn đề XHHT và xây dựng XHHT.
Các bài báo này đã đề cập tới những nội dung chủ yếu sau đây :
- Vị trí, chức năng và sự cần thiết phải xây dựng XHHT ở Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Quan niệm về XHHT, từ các phương diện tiếp cận khác nhau.
- Định hướng phát triển, phương châm, mô hình, lộ trình xây dựng XHHT ở
nước ta.
- Các giải pháp và một số bài học kinh nghiệm về xây dựng XHHT.
- Sự khẳng định Trung tâm học tập cộng đồng là hạt nhân, là đơn vị tổ chức
học tập của XHHT.
- Hội Khuyến học làm nồng cốt liên kết các lực lượng xây dựng XHHT…
Các công trình nghiên cứu trên đây là những nét phác thảo ban đầu về
XHHT và xây dựng XHHT ở Việt Nam.


15
Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về xây dựng XHHT ở các
địa phương. Các nghiên cứu trong một số luận văn trên đã đề cập đến thực trạng nhận
thức về XHHT và đề xuất các giải pháp xây dựng XHHT ở các địa phương.
Riêng ở tỉnh Tiền Giang, ngoài những văn bản có tính chất chủ trương,
đường lối của Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, Sở GD&ĐT…, thì những năm gần
đây hầu như chỉ có duy nhất một công trình nghiên cứu về mô hình xã hội học tập tại
tỉnh Tiền Giang đó là: Đề tài khoa học cấp tỉnh “Xây dựng mô hình xã hội học tập
giai đoạn 2006 – 2015” của Hội khuyến học tỉnh Tiền Giang. Ngoài ra chưa có tác
giả nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm XHHT
Khái niệm XHHT lần đầu tiên xuất hiện trong bản báo cáo: “Học để làm
người” trình UNESCO năm 1975 của “Hội đồng Quốc tế về phát triển giáo dục” do
ông Edgare Fause, nguyên Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Pháp, làm chủ tịch
trình bày. Trong bản báo cáo này, Hội đồng cho rằng, hướng về tương lai thay cho
các cuộc cải cách “từng mảng” này cần phải tư duy lại và tập trung vào hai khái
niệm gắn bó với nhau là “GDTX” và “XHHT”.
Bước vào thế kỷ XXI, xây dựng XHHT đã trở thành một trào lưu của thế
giới. Tổ chức các nước trong Hội đồng kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC)
họp tháng 4/2000, Hội nghị thượng đỉnh G8 họp tháng 7/2000, đều có lời kêu gọi
các nước xây dựng XHHT trên quan điểm học tập suốt đời, đảm bảo cho công dân
của mình được trang bị kiến thức, kỹ năng và tay nghề cần cho thế kỷ mới.
Theo các quan chức của UNESCO, XHHT có những đặc trưng nổi bật :
- Mọi người đều được học tập, học thường xuyên, học suốt đời.
- Toàn bộ môi trường xung quanh đều có thể tạo ra cơ hội học tập và phát
huy tài năng của mỗi người.
- Con người được tiếp nhận trình độ giáo dục cơ bản để học tập và tự hoàn
thiện.

- Nhà trường mang lại cho mọi người lòng mong muốn và sự hào hứng được
học tập, với năng lực “học cách học” và với sự tò mò trí tuệ.
- Mỗi cá nhân đều có thể lần lượt làm người dạy và làm người học.
- Xã hội dựa trên thành tựu, cập nhật và ứng dụng tri thức.
- Người học trở thành những nhà nghiên cứu, còn người dạy, dạy cho người
học cách đánh giá và quản lý những thông tin mà họ được cung cấp…
Còn theo Risac Etoa, XHHT có những đặc trưng sau đây :

16
- XHHT là một xã hội có học, một xã hội đảm bảo mọi người đều tự tạo cho
mình khả năng tự học và tự học suốt đời; nhu cầu học tập, động cơ học tập là nội lực
quan trọng.
- XHHT là một thị trường học tập, tạo cho mọi người có khả năng cạnh
tranh trí tuệ, một thị trường tạo cơ hội học tập, cập nhật kỹ năng và trình độ của từng
người với tư cách là người lao động.
- XHHT tạo ra cho người học có phương pháp tiếp cận học tập đối với cuộc
sống, tác động vào cách nghĩ, cách nhìn và lối sống thực tiễn của từng người, coi đây
là điều kiện cần thiết cho cuộc sống của con người trong thời kỳ đầy biến động, đầy
ngẫu nhiên và cũng là thời đại của hợp tác, giao lưu và phát triển.
- XHHT gắn liền với ý tưởng xã hội hoá giáo dục - mọi người làm giáo dục
và giáo dục cho mọi người.
Ở Việt Nam, thuật ngữ XHHT lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX: "đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng
những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi
người, cả nước trở thành một xã hội học tập"
Khái niệm này lại được đề cập trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW
khoá IX: “Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn , phát triển giáo dục
không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu
thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học
tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập".

Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định “Xây
dựng nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, ðảm bảo công bằng về cõ hội học tập
cho mọi ngýời tạo ðiều kiện ðể toàn xã hội học tập và học tập suốt đời"

Theo tác giả Phạm Minh Hạc, “XHHT là một xã hội mọi người đều lấy học
tập làm một công việc thường xuyên, suốt đời, học trong nhà trường và ngoài nhà
trường, chính quy và không chính quy, như là một phần không thể thiếu được của
đời mình, lấy học tập làm phương pháp tiếp cận (cách nhìn, cách xử lý) của cuộc
sống nhằm phát triển con người bền vững - động lực cho toàn bộ sự tiến bộ xă hội”.
Tác giả Phạm Tất Dong đưa ra quan điểm: “Trong xã hội học tập, mỗi con
người phải được GDTX, đào tạo liên tục, học tập suốt đời, lấy sự học hỏi làm lẽ sống
của mình. Mỗi người đều có cơ hội học tập, học ở trường, học tập trong đời sống
kinh tế, xã hội, văn hóa, do đó, hệ thống giáo dục không chỉ bó hẹp trong các hình
thức học ngoài nhà trường. Đó là hệ thống giáo dục mềm dẻo, tạo ra sự đa dạng của các
ngành học, của các hình thức học về các kênh liên thông giữa các hình thức giáo dục khác
nhau”


17
Theo tác giả Đoàn Minh Tuấn, hiểu nột cách đơn giản: “Xã hội học tập là
một xã hội mà ở đó việc học tập trở thành một nhu cầu tự nhiên và trở thành nếp
cảm, nếp nghĩ của cộng đồng dân cư trong xã hội”.
Tác giả Nguyễn Như Ất quan niệm: “vấn đề xây dựng xã hội học tập sau thế
kỷ XX là vấn đề nóng hổi của giáo dục toàn cầu, tuy cho đến nay khái niệm xã hội
học tập vẫn chưa đi đến thống nhất nhưng như thế vẫn không cản trở con đường
nhiều nước đi tìm để thiết lập mô hình xã hội học tập trong thực tiễn”.
Theo quan điểm của tác giả Vũ Oanh, XHHT là “một xã hội vì người học,
của người học, do người học, lấy người học và việc học suốt đời làm trung tâm”.
Tác giả Nguyễn Viết Sự lại xem xét khái niệm XHHT từ các tiêu chí của nó.
Theo tác giả, XHHT là một xã hội trong đó:

- Kinh tế giáo dục chiếm tổng giá trị sản lượng kinh tế quốc dân từ 6-8%.
- Bình quân trình độ văn hoá người lao động: Trung học phổ thông.
- Nền giáo dục phát triển dành cho mọi người theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá.
- Mọi người dân thể hiện sự ham học hỏi, quý trọng thầy và nghề dạy học,
coi trọng tri thức. Luôn có ý chí výõn lên chiếm lĩnh ðỉnh cao khoa học kỹ thuật.
- Nhà nước thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng ðầu, là động lực chủ yếu
cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Hình thành và phát triển bền vững hệ thống giáo dục quốc dân với sự
phong phú đa dạng về phương thức giáo dục, tạo sự liên thông trong giáo dục.
Từ việc trình bày khái niệm XHHT theo quan niệm của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước, chúng tôi cho rằng XHHT về bản chất là một xã hội mà trong
đó mọi người đều được học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt đời và mọi lực
lượng trong xã hội đều có trách nhiệm tạo cơ hội học tập cho mọi người dân.
1.2.2. Xã hội hoá và xã hội hoá giáo dục
1.2.2.1. Xã hội hoá.
Thuật ngữ “Xã hội hóa” dùng để chỉ chức năng nguyên thủy của giáo dục
(Socialization), được các nhà xã hội học sử dụng để mô tả những phương cách, các
giá trị, các vai trò mà xã hội đã quy ước, tạo cơ sở cho quá trình hình thành và phát
triển nhân cách con người.
Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim (1858 – 1917) là một trong số rất ít
người sử dụng thuật ngữ “Xã hội hóa”. Ông nêu: “giáo dục vừa có chức năng phân
hóa vừa có chức năng xã hội hóa”.
Nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhiều cách hiểu và định nghĩa XHH khác nhau:

18
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì khái niệm “XHH được hiểu là làm cho một
việc gì, một cái gì đó thành của chung xã hội”.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chủ trương cải cách tổ chức
bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, thì thuật ngữ xã hội hóa được sử dụng khá phổ biến trong các văn kiện,
trong các hội nghị, hội thảo…
Nhiều công trình nghiên cứu về XHH đều nhận định: “Bản chất của xã hội
hóa là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng bằng con đường
giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi người dân, mọi lực lượng xã hội;
tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống
nhất của Nhà nước, làm cho việc giải quyết các vấn đề xã hội thực sự là của dân, do
dân và vì dân”.
Xã hội hóa không phải là buông lỏng sự quản lý hoặc từ bỏ chức năng quản
lý thống nhất của Nhà nước mà thực chất là tăng cường sự quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật.
Xã hội hóa gắn liền với mở rộng dân chủ, khắc phục dần tính thụ động, thờ
ơ, phó mặc cho Nhà nước.
Xã hội hóa là làm sao phải thu hút mọi tổ chức trong xã hội, mọi thành phần
kinh tế tham gia thực hiện các dự án phát triển của Nhà nước.
Tất cả những đặc điểm trên thể hiện khá đầy đủ về nội dung, vai trò cũng
như ý nghĩa của hoạt động xã hội hóa.
1.2.2.2. Xã hội hoá giáo dục.
Qua nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn hoạt động giáo dục, cho
thấy có sự khác biệt rõ ràng về ý nghĩa tính chất xã hội của giáo dục và xã hội hóa
công tác giáo dục. Thực tế nếu tự thân vận động, giáo dục dù không có định hướng
cụ thể rõ ràng vẫn thể hiện tính chất xã hội nhưng không đạt đến trình độ XHH đích
thực theo ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó. Cần phân biệt XHHGD và xã hội hóa
công tác giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt động
giáo dục và cộng đồng xã hội, là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã
hội, thích ứng với xã hội. Xã hội hóa công tác giáo dục là duy trì sự cân bằng giữa
hoạt động giáo dục và xã hội.
Xã hội hóa giáo dục là cách nói gọn của XHHCTGD với nội hàm là phương
thức, cách thức, phương châm, cách làm giáo dục, tổ chức và quản lý giáo dục. Đảng

ta chủ trương XHHGD là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận không thể thiếu
trong đường lối giáo dục của Đảng.

19
Đặc điểm của XHHGD là mở rộng quy mô, mở rộng trách nhiệm giáo dục,
chuyển hướng từ giáo dục tinh hoa thành giáo dục đại chúng – giáo dục cho mọi
người – xây dựng xã hội học tập. Hoạt động giáo dục từ chỗ là trách nhiệm của
ngành giáo dục, do Nhà nước đảm trách, đến mọi cá nhân, tập thể, cộng đồng cùng
chăm lo. Điều đó tạo nên động lực mới và sức mạnh tổng hợp, tính công bằng xã hội
của GD& ĐT .
Như vậy, XHHGD là quá trình tăng cường tính xã hội của giáo dục lên tầm
cao mới, đa phương hóa nguồn lực, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, cộng đồng
hóa trách nhiệm.
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng XHHGD là: “Làm cho xã hội nhận rõ
trách nhiệm đối với giáo dục, giáo dục phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế- xã hội,
thực hiện việc kết hợp giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường, tạo điều kiện
để giáo dục kết hợp với lao động, học đi đôi với hành; xã hội hóa giáo dục có quan
hệ hữu cơ với dân chủ hóa giáo dục”
Xã hội hóa giáo dục đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và thực
hiện từ nhiều thập kỷ qua, hoạt động XHHGD luôn vận động và phát triển.
Ở nước ta, XHHGD là điều kiện cần thiết và tất yếu để phát triển GD& ĐT,
XHHGD là chủ trương đúng đắn, mang tính chiến lược của Đảng. “Xã hội hóa giáo
dục là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức kinh tế - xã
hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đầu tư vào hoạt động giáo dục trên cơ sở phù
hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên môn nhằm xây dựng xã hội học tập”.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng có nêu: “Thực hiện chủ trương xã hội hóa
giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ
khuyến khích phát triển tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục”.
Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh: “Đổi mới cơ cấu tổ chức,
nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng “Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội

hóa”. Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao
trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện
nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt
đời”.
Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, Chính phủ đã ban hành các văn bản
pháp quy và tổ chức thực hiện rộng rãi chủ trương XHHGD và XHHGD phải được
hiểu trên phương diện rộng là toàn thể nhân dân, toàn thể xă hội tham gia vào giáo
dục, làm cho hoạt động giáo dục trở thành hoạt động chung của toàn xă hội.

20
Xã hội hóa giáo dục, theo chúng tôi phải được hiểu trên phương diện rộng là
toàn thể nhân dân, toàn thể xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, làm cho hoạt
động giáo dục trở thành hoạt động chung của toàn xã hội.
1.2.3. Phát triển
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như phát
triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển nguồn nhân lực, phát triển đội ngũ…, theo
nghĩa thông thường “phát triển” được hiểu là sự tăng trưởng, là sự chuyển biến theo
chiều hướng tích cực, tiến lên.
Từ điển Tiếng Việt đã giải thích khái niệm “phát triển” như sau: “biến đổi
hoặc làm cho biến đổi, từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp”. Phát triển là mở mang từ nhỏ thành to, từ yếu thành mạnh. Phát triển là
khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật: hướng đi lên từ thấp đến
cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
1.2.4. Phát triển XHHT
Phát triển XHHT là nhằm hình thành một xã hội thực hiện tốt sự gắn kết
chặt chẽ giữa học tập ban đầu trong các nhà trường với học tập suốt đời bên ngoài
nhà trường, giữa giáo dục với phát triển kinh tế - xã hội, mọi người có nhu cầu đều
được học tập thường xuyên, suốt đời, học gắn với hành, được tri thức hoá, ai cũng
được phát huy mọi tiềm năng của mình. Phát triển XHHT còn là nhằm tạo ra một
môi trường giáo dục, trong đó mọi người đều được cung cấp cơ hội học tập, với thiết

chế giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng điều kiện học của từng người, từng
cơ quan, đơn vị một môi trường trong đó mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp xã hội
đều tự giác học hành và tích cực tạo ra các cơ hội, điều kiện học hành cho xã hội sao
cho cả xã hội trở thành một trường học lớn, mỗi người dân là một học trò, nhu cầu
học luôn được đáp ứng và là nơi đào tạo nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng với nhiều
trình độ, nhiều năng lực khác nhau đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế trong một thị trường lao động luôn biến động dưới sự tác động tiến
bộ của khoa học và công nghệ.
Phát triển XHHT ở nước ta đã trở thành một nhiệm vụ chiến lược nhằm thực
hiện mục tiêu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, đáp ứng
nhu cầu CNH, HĐH đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, sớm sánh
vai với các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
1.2.5. Giải pháp và giải pháp phát triển xã hội học tập
1.2.5.1. Giải pháp
Theo từ điển Tiếng Việt giải pháp là: “Phương pháp giải quyết một vấn đề
cụ thể nào đó”. Như vậy nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động
nhằm thay đổi chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái nhất định ,

21
tựu trung lại, nhằm đạt được mục đích hoạt động. Giải pháp càng thích hợp, càng tối
ưu, càng giúp con người nhanh chóng giải quyết những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để
có được những giải pháp như vậy, cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn
đáng tin cậy.
1.2.5.2. Giải pháp phát triển xã hội học tập
Giải pháp phát triển XHHT là những cách thức tác động chủ thể quản lý
giáo dục hướng vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra của hệ thống giáo dục, làm
cho hệ thống đó vận hành và tạo ra những biến đổi về chất lượng của quá trình phát
triển XHHT. Phát triển XHHT là một trong những nhân tố quan trọng phát triển sự
nghiệp giáo dục. Phát triển xã hội học tập là xu thế phát triển của nhân loại.Việc
nghiên cứu, xây dựng các giải pháp phát triển xã hội học tập có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng, vừa là mục tiêu, động lực và giải pháp để phát triển giáo dục – đào tạo
bền vững, tiến tới một xã hội văn minh, tiến bộ.
Thông thường các giải pháp phát triển XHHT phải đảm bảo thực hiện cho
được các chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá quá trình xây
dựng và phát triển XHHT.
a. Định hướng phát triển XHHT ở nước ta.
Trong quá trình phát triển XHHT ở nước ta cần xuất phát từ các định hướng
sau đây:
Phát triển XHHT là con đường sáng tạo của nhân dân ta nhằm “phát triển
mọi tiềm năng có sẵn ở mỗi con người Việt Nam”, phát huy nội lực của người học
bằng tự học, tự rèn luyện, tự lập thân, lập nghiệp; khai thác và phát triển những tiềm
năng của xã hội nói chung của ngành giáo dục nói riêng để phát triển giáo dục.
Phát triển XHHT ở Việt Nam là nhằm thực hiện có hiệu quả các chương
trình mục tiêu giáo dục đến năm 2020 là duy trì một cách bền vững kết quả chống
mù chữ, phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS, tạo tiền đề để phổ cập trung
học ở giai đoạn tiếp theo, phát triển mạnh mẽ đào tạo nghề, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, nâng cao chất lượng, và hiện đại hoá giáo
dục, củng cố hệ thống công lập, đồng thời đẩy mạnh việc mở rộng, nâng cao chất
lượng giáo dục “không chính quy”, giáo dục “ngoài công lập”, giáo dục từ xa, khu
vực nông thôn, nông nghiệp, vùng dân tộc ít người, tăng cường chỉ đạo mở rộng
phong trào tự học và đào tạo nhân lực đại trà, coi trọng đào tạo tinh hoa, bồi dưỡng,
phát triển nhân tài.
Phát triển XHHT dựa trên đường lối phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, theo phương thức xã hội hoá giáo dục kết hợp với vai trò chủ đạo của Nhà
nước, phát huy truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc, kế thừa và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách.

22
- Mạnh dạn đổi mới cơ chế quản lý giáo dục hiện nay theo hướng phân cấp
mạnh để tăng cường tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho địa phương và các cơ sở

giáo dục, ứng dụng sáng tạo những thành tựu về khoa học, công nghệ nói chung và
thành tựu về khoa học giáo dục nói riêng để xây dựng nền giáo dục Việt Nam tiên
tiến, hiện đại, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, tạo tiền đề cho nền giáo dục nước ta hội
nhập với nền giáo dục tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới.
b. Mục tiêu phát triển XHHT ở nước ta.
Mục tiêu phát triển XHHT ở nước ta gắn với mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội, với Chiến lược phát triển giáo dục và Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục
cho mọi người 2003-2015, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH. Từ
mục tiêu tổng quát trên đây cần cụ thể hoá thành những yêu cầu, nhằm từng bước
xây dựng XHHT ở nước ta.
Trước tiên, phải khắc phục những yếu kém trong giáo dục, tạo bước chuyển
biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế
giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực các chương trình, mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương. Phấn đấu
đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các
nước phát triển trong khu vực.
Đồng thời hình thành được cơ cấu hệ thống giáo dục mới của XHHT gồm
hai khu vực giáo dục trong nhà trường (giáo dục chính quy) và giáo dục ngoài nhà
trường (GDTX) liên thông với nhau, huy động được hai đối tượng người học có số
lượng lớn: thế hệ trẻ và một bộ phận người lớn tuổi cần được thụ hưởng giáo dục
phổ cập trong “độ tuổi đi học”; các nhà lãnh đạo của hệ thống chính trị các cấp và
các nhà quản lư, các doanh nhân, các nhà giáo dục, khoa học - công nghệ.
c. Nhiệm vụ phát triển XHHT ở nước ta.
Phát triển XHHT ở nước ta cần hướng vào thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản
sau đây:
- Tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người có nhu cầu đều được học thường
xuyên, suốt đời, học gắn với hành, được tri thức hoá, ai cũng được phát huy mọi
tiềm năng của mình. Học để có những kỹ năng làm việc và kỹ năng sống nhằm tạo
nên năng lực thích ứng và phát triển của mỗi người trong một xã hội hiện đại và
thường xuyên thay đổi. Học để biết vận dụng tri thức, để biết giao tiếp, ứng xử, để

cùng chung sống với nhau, biết tuân thủ pháp luật, bảo vệ môi trường, biết thích nghi
với những thay đổi về việc làm, biết tự tạo việc làm, biết tự rèn luyện đạo đức, thể
lực…

23
Có thể học ở mọi lúc, mọi nơi, học ở mọi người, mọi việc, trong lao động,
giao tiếp, giải trí, học bằng nhiều cách. Mọi người học tập lẫn nhau và giúp nhau học
tập.
Mở rộng cơ chế để mọi người đều hiểu biết và có trách nhiệm, nghĩa vụ học
tập và góp phần xây dựng và phát triển XHHT. Huy động mọi tiềm năng trí tuệ, tài
lực, vật lực trong toàn xă hội, tạo ra nhiều nguồn lực đa dạng để vừa phát triển giáo
dục đào tạo trong các trường học, vừa tạo điều kiện hỗ trợ tổ chức nhiều hình thức
giáo dục mới, đa dạng bên ngoài nhà trường để xây dựng phong trào học tập và môi
trường giáo dục lành mạnh trong toàn xã hội, hướng tới XHHT. Những hoạt động
này có thể gọi tắt là “khuyến học” với ý nghĩa là khuyến khích hỗ trợ, tạo điều kiện
cho việc học, tự học.
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
XHHT
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng XHHT
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển giáo dục,
giúp cho nhiều người có cơ hội học tập, thu hút ngày càng nhiều người tham gia xây
dựng giáo dục, hướng tới một XHHT như đã nêu ở Nghị quyết Trung ương 4 (khoá
VII), Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII). Luật Giáo dục thể hiện rất rõ ràng: “
GDTX giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện
nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để
cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời
sống xã hội. Nhà nước có chính sách phát triển GDTX, thực hiện giáo dục cho mọi
người, xây dựng xã hội học tập”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Phát huy nguồn lực
trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục- đào tạo,

khoa học và công nghệ là nền tảng, và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Đến Đại hội X Đảng lại tiếp tục xác định: “Phấn đấu xây dựng nền giáo dục
hiện đại, của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi
người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 đã nêu: Xây dựng XHHT “tạo
điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học
suốt đời”
Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) cũng chỉ rõ: Phát triển giáo
dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường. thị trấn gắn

24
với nhu cầu thực tế đời sống kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho mọi người có thể học
tập suốt đời, hướng tới XHHT.
Trước khi có 3 văn kiện trên, ngày 24 tháng 8 năm 1999 của Bộ Chính trị ra
Chỉ thị số 50-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Khuyến học
Việt Nam” và Chỉ thị số 29/1999/CT-TTg ngày 15-10-1999 của Thủ tướng Chính
phủ “về việc phát huy vai trò của Hội Khuyến học Việt Nam trong sự nghiệp phát
triển giáo dục” đã đề cập đến mục tiêu phát triển giáo dục là từng bước hình thành
một XHHT, đưa sự nghiệp giáo dục lên ngang tầm đòi hỏi của CNH, HĐH đất nước.
Đến ngày 18 tháng 5 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
112/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn
2005-2010”, việc xây dựng XHHT ở nước ta được tổ chức thực hiện một cách có hệ
thống hơn. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ xác định: Xây dựng cả nước trở
thành xã hội học tập với tiêu chí cơ bản là tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi
người ở mọi lứa tổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, học liên tục, học suốt
đời ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi trình độ; huy động sức mạnh của toàn xã hội
tham gia xây dựng và phát triển giáo dục, mọi người, mọi tổ chức đều có trách
nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập và tích cực tham gia xây dựng XHHT.

Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã
hội học tập đã tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo của Đảng là : “ Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và nhân dân với nhiều hình thức phong phú,
thiết thực để nhận thức rõ về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc xây dựng xã hội
học tập ở nước ta hiện nay; xác định xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển
giáo dục của nước ta” và “ Cụ thể hoá các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng
xã hội học tập trong từng địa phương, đơn vị. Trước mắt rà soát, bổ sung nội dung
kế hoạch thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong “ Đề án xây dựng xã hội học tập
giai đoạn 2005-2010” mà Chính phủ đã ban hành. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc,
kiểm tra, chỉ đạo giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện”.
Xây dựng cả nước trở thành XHHT được dựa trên nền tảng phát triển đồng
thời, gắn kết, liên thông cả hai bộ phận cấu thành: giáo dục chính quy và giáo dục
không thường xuyên của hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó GDTX thực hiện các
chương trình học tập nhằm tạo các điều kiện tốt nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập
suốt đời, học liên tục của mọi công dân, sẽ là một bộ phận có chức năng quan trọng,
làm tiền đề để xây dựng XHHT.


25
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng XHHT
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng XHHT chỉ mới đặt ra cách đây không lâu, tuy
nhiên XHHT đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay từ khi thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Mặc dù Bác không nói tới XHHT, nhưng tư tưởng
“giáo dục cho mọi người” và “mọi người cho giáo dục” đã được thể hiện rõ qua việc
làm, qua các bài phát biểu, các bài nói chuyện của Người.
Tư tưởng “giáo dục cho mọi người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Ngay trong phiên họp đầu tiên (ngày 3-9-1945) của Chính phủ, Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở
một chiến dịch để chống nạn mù chữ” [29,8]. Người đặt ra 3 nhiệm vụ cách mạng
trước mắt của Chính phủ là: Chống nạn đói, nạn thất học, nạn ngoại xâm và coi
chống giặc dốt cũng quan trọng như chống giặc đói và giặc ngoại xâm.
Vì vậy, chỉ 6 ngày sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, ngày 8-9-1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành ba sắc lệnh về chống nạn thất học.
- Sắc lệnh 17 về việc thành lập Nha Bình dân học vụ trong toàn nước Việt
Nam để trông nom việc học tập của dân chúng.
- Sắc lệnh số 19 về việc thành lập những lớp học bình dân buổi tối cho nông
dân và thợ thuyền
- Sắc lệnh 20 công bố việc học chữ quốc ngữ là bắt buộc và không mất tiền
cho tất cả mọi ngýời và hạn trong một nãm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi
phải biết ðọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Đầu tháng 10/1945, trong “Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học” Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân
mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam cần phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải
có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết
phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Tư tưởng “Giáo dục cho mọi người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được
thể hiện rõ khi Bác trả lời báo chí tháng 1/1946: “Tôi chỉ có một ham muốn, một
ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn
tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành”.
Tư tưởng “Học tập suốt đời” của Chủ tịch Hồ Chí Minh :
Với mục đích phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc thông
thái, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những chỉ kêu gọi mọi người học tập, mà còn kêu
gọi mọi người học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Có thể nói đây là một tư
tưởng tiến bộ đi trước thời đại.

×