Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nâng cao năng lực cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.23 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ VĂN SƠN
NÂNG CAO NĂNG LỰC CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ,
THỊ TRẤN Ở HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hường dẫn khoa học: TS. Đinh Trung Thành
Nghệ An - 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của
Tiến sỹ Đinh Trung Thành cùng với sự góp ý của các Giáo sư, Phó giáo sư -
Tiến sỹ phản biện và các bạn đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
sự giúp đỡ chân tình và quý báu đó.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng là quá trình vận dụng giữa lý luận
và thực tiễn trong công tác cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch
Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là kết quả học tập nghiên cứu, mặc dù đã cố gắng song
bản thân vẫn còn nhiều băn khoăn về nhiều vấn đề trong công tác cán bộ chủ
chốt chưa đi sâu nghiên cứu được. Do vậy trong quá trình thực hiện đề tài
không tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ của giáo viên hướng
dẫn và hội đồng bảo vệ luận văn để bản thân bổ cứu, hoàn chỉnh đề tài được
tốt hơn nhằm vận dụng vào thực tiến công tác cán bộ chủ chốt ở địa phương
công tác.
Xin chân thành cảm ơn!
2
MỤC LỤC Trang
A. MỞ ĐẦU 5


B. NỘI DUNG 13
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc nâng cao năng lực cán bộ chủ
chốt cấp xã, thị trấn
13
1.1. Một số khái niệm liên quan đến nội dung về nâng cao năng lực
cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn
13
1.2. Yêu cầu về năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn 16
1.3. Vai trò của đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn trong hệ thống chính trị
cơ sở
24
Chương 2: Thực trạng năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
32
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
32
2.2. Thực trạng về năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị
trấn của huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
38
Chương 3: Mục tiêu, quan điểm và một số giải pháp nâng cao
năng lực cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh
Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay
52
3.1. Mục tiêu, quan điểm nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay
52
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cán bộ chủ chốt
cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
57

C. KẾT LUẬN 85
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBCC Cán bộ chủ chốt
CCB Cựu Chiến binh
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3
ĐTN Đoàn Thanh niên
HĐND Hội đồng nhân dân
HPN Hội Phụ nữ
HND Hội Nông dân
HTCT Hệ thống chính trị
UBND Ủy ban nhân dân
UB MTTQ Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay xã, phường, thị
trấn (gọi chung là cấp xã, thị trấn) có vị trí rất quan trọng được ghi nhận tại Điều
4
110 - Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Cấp xã,
thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, là nơi trực tiếp thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm
vụ cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hàng ngày của nhân dân ở
địa phương. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn là người trực tiếp tiếp xúc
với nhân dân, làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Họ có vai trò rất
quan trọng trong việc quyết định hiệu quả của hệ thống chính trị cấp cơ sở nói
riêng và hệ thống chính trị nói chung.
Thực tiễn cho thấy, nơi đâu có đội ngũ nói nói CBCC, nhất là đội ngũ
CBCC cấp xã, thị trấn vững mạnh thì nơi đó tình hình chính trị, xã hội ổn định;
kinh tế, văn hóa phát triển; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Ngược lại,

những địa phương cơ sở nào đội ngũ CBCC không được đào tạo, không đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, thì địa phương đó sẽ gặp khó khăn, kinh tế - xã hội
chậm phát triển.
Trong những năm qua huyện Thạch Hà có sự điều chỉnh về địa giới hành
chính (trước đây, huyện Thạch Hà có 48 xã, thị trấn nay đã cắt chuyển 11 xã
nhập về thành phố Hà Tĩnh và 6 xã vùng biển cửa thành lập huyện mới Lộc Hà),
vì vậy, mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội có nhiều biến động, đặc biệt là
công tác cán bộ. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện có nhiều dự án, công trình
trọng điểm của tỉnh và quốc gia đang đồng thời được triển khai thực hiện. Để
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và ổn định, phát triển kinh tế - xã hội
thì vai trò của đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn là hết sức quan trọng. Thạch Hà
phải có một đội ngũ CBCC, nhất là đội ngũ CBCC của hệ thống chính trị cấp xã,
thị trấn vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, phương pháp, phong cách công tác
tốt, nhạy bén, năng động, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tình hình
mới. Tuy nhiên, hiện nay do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, đội
ngũ CBCC cấp xã, thị trấn của huyện còn có những hạn chế, bất cập: tỷ lệ được
đào tạo cơ bản còn ít; chất lượng, năng lực điều hành chưa đồng đều, còn một số
5
CBCC chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi
mới, sự nghiệp CNH, HĐH, hội nhập và phát triển; cơ cấu giới tính, độ tuổi…
còn có những bất hợp lý. Thực tiễn đòi hỏi đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn của
huyện Thạch Hà cần phải được xây dựng, phát triển cả về chất lượng và cơ cấu
nhằm góp phần trực tiếp thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương, xây dựng quê hương Thạch Hà ngày càng giàu, mạnh, văn minh. Xuất
phát từ những khía cạnh vừa nêu, tác giả chọn vấn đề: “Nâng cao năng lực cán
bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh trong giai
đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung, năng lực CBCC cấp xã, thị trấn nói riêng là
nội dung được nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và các nhà khoa học quan

tâm nghiên cứu. Trong số các bài viết đã đăng trên các tạp chí, các đề tài,
công trình nghiên cứu, các luận văn, luận án đã công bố, liên quan đến các
vấn đề cán bộ có nhiều công trình, bài viết đã với những đóng góp, kiến nghị
hết sức sâu sắc, có giá trị thực tiễn cao như:
- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên) (2001), Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cuốn sách đã phân tích, lý giải, hệ
thống hóa các căn cứ khoa học cho việc nâng cao đội ngũ CBCC các cấp, từ đó
đưa ra những kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm củng cố, phát triển đội
ngũ này cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Cao Khoa Bảng (2008) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố. Cuốn sách đã trình bày những kinh
nghiệm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuộc diện Ban Thường vụ
quản lý, thực trạng, kinh nghiệm và những yêu cầu đặt ra.
6
- Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2005), Hệ thống chính trị nông thôn nước ta
hiện nay. Các tác giả đã nghiên cứu vấn đề từ quan điểm lý luận đến thực tiễn,
đồng thời cũng đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi
mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở nông thôn nước ta.
- Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Chủ biên) (2005), Thể chế dân chủ và
phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay. Đây là công trình tập thể với sự tham
gia của các GS,TS Hoàng Chí Bảo; PGS, TS Lưu Đạt Thuyết; PGS, TS Nguyễn
Văn Mạnh; PGS,TS Nguyễn Quốc Phẩm bàn về dân chủ, hệ thống chính trị,
đặc biệt là hệ thống chính trị cấp cơ sở. Trong cuốn sách này có bàn đến đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở ở các vùng nông thôn Việt Nam.
- Đào Duy Quát (2005), Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Cuốn sách đã tập hợp các bài viết của tác giả về công tác tư tưởng và vấn
đề nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng; kiên định những quan
điểm có tính nguyên tắc trong công tác tư tưởng với việc thực hiện nhiệm vụ

chính trị trong thời kỳ mới.
Các luận văn, luận án:
- Phạm Công Khâm (2001), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Luận án Tiến sĩ Chính trị
học, chuyên ngành Xây dựng Đảng. Luận án đã làm rõ cơ sở khoa học về vai trò
đội ngũ CBCC và công tác xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã; đánh giá thực trạng
và những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã vùng nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long; Chỉ ra mục tiêu, quan điểm và đề xuất những giải
pháp để xây dựng đội ngũ CBCC theo yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay.
- Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ. Luận án đã
nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về công tác giáo dục lý luận chính trị
cho cán bộ chủ chốt trong HTCT cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ; trên cơ sở đó
đề xuất một hệ thống các giải pháp tác động phù hợp và kiến nghị những đổi mới
7
nội dung, chương trình, phương thức giáo dục lý luận chính trị, góp phần nâng
cao vai trò, phẩm chất và năng lực của cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta trong
quá trình đổi mới theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
- Giao Thị Châu (2005), Chất lượng Bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay. Đây là một luận văn thạc sĩ về công tác xây dựng Đảng
rất cần tham khảo, kế thừa thành quả nghiên cứu về việc đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao chất lượng đội ngũ Bí thư đảng ủy xã trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Mai Đức Ngọc (2007), Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã
trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay (qua
thực tế vùng đồng bằng sông Hồng). Luận án được bảo vệ thành công năm 2007
tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một công
trình giúp tham khảo những khía cạnh lý luận và thực tiễn về vai trò của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông
thôn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, ….
- Trần Duy Hưng (2009), Chất lượng bí thư đảng ủy xã vùng đồng bằng

sông Hồng giai đoạn hiện nay. Luận án này cũng được bảo vệ thành công năm
2009 ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung cơ
bản luận án đã phân tích, luận giải về chất lượng bí thư đảng ủy xã vùng đồng
bằng Sông Hồng; những kết quả, hạn chế, yếu kém trong đào tạo bồi dưỡng tạo
nguồn, bí thư đảng ủy xã trên địa bàn vùng đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu
của đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Thành Từ Dũ (2006) Báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho các
bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh hiện nay. Luận văn thạc sĩ triết học này tìm hiểu
thực trạng vai trò báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho cán bộ cấp cơ sở
ở tỉnh Tây Ninh và đưa ra những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò báo chí
trong giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Tây Ninh.
- Nguyễn Thị Huệ (2007), Thông tin việc hoạt động lãnh đạo, quản lý của
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa. Luận văn đã phân tích làm rõ vai
8
trò của thông tin với hoạt động lãnh đạo, quản lý của các bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Thanh Hóa trong điều kiện hiện nay. Đây là một luận văn rất cấp thiết tham
khảo khi triển khai đề tài nghiên cứu của học viên.
- Lường Thị Mến (2008) Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn hiện nay. Luận văn Thạc sĩ chuyên
nghành triết học này đã đi sâu phân tích về bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn song đã cho thấy nhiều điểm
hạn chế chung ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã ở các địa bàn
nông thôn Việt Nam nước ta. Đây cũng là một nguồn tài liệu tham khảo đáng
quý cho quá trình thực hiện luận văn.
- Tống Phước Trường (2008), Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa
cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Kiên Giang hiện nay. Đây là một luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, đã đi sâu nghiên cứu làm rõ tầm
quan trọng của ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở.
- Nguyễn Văn Vũ (2008), Kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc

Liêu hiện nay. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học này đã
phân tích luận giải về việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu ,
trong đó có việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt cấp cơ sở…
- Trần Ngọc Danh (2005), Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị
học này đã đi sâu bàn về chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính
trị ở cơ sở ở tỉnh Nghệ An giúp tham khảo khi bàn về chính sách, đãi ngộ với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.
- Trần Trung Trực (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học cũng đã phân tích thực trạng,
9
phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị
cấp xã ở huyện Bình Chánh. Đây cũng là một tài liệu tham khảo giúp triển khai
đề tài.
- Tăng Nghĩa (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính
trị cấp huyện tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ xây dựng
Đảng này đã bàn trực tiếp về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh nói chung. Đây là tài liệu tham khảo đáng quý
về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, xã ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn
hiện nay.
- Nguyễn Phi Long (2007), Quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
xã ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này đã đi sâu nghiên cứu
về quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở tỉnh Ninh Bình, giúp làm
tài liệu tham khảo để nghiên cứu về quản lý đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh.
- Trịnh Thăng Sự (2008), Xây dựng phong cách người Bí thư Đảng ủy xã
ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay. Luận văn là tài liệu
tham khảo tốt khi nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ

chốt cấp cơ sở nói chung
Các công trình khoa học như tổng thuật đã cung cấp nhiều luận cứ, luận
chứng cả về lý luận và thực tiễn cho việc triển khai đề tài. Tuy nhiên vấn đề nâng
cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh
Hà Tĩnh chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống. Đề tài
nghiên cứu của tác giả không trùng lắp với các công trình khoa học đã được
công bố và có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nâng cao năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà,
tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở trong tình hình hiện nay.
10
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu làm rõ những có sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ
CBCC cấp xã, thị trấn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã, thị
trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác của đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng năng lực đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà,
tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực đội ngũ CBCC ở xã
và thị trấn trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh (bao gồm 30 xã và 1 thị
trấn).
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2009 đến nay (sau khi tách 6 xã vùng

biển cửa của huyện Thạch Hà để lập huyện mới Lộc Hà).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề CBCC, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chính sách Nhà nước về bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ CBCC cấp
xã, thị trấn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp;
11
phương pháp lôgíc và lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học, đặc
biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học của việc năng cao năng
lực đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập về công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây
dựng hệ thống chính trị cấp xã, thị trấn ở trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm
bồi dưỡng chính trị các huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, Phụ lục , nội dung luận văn gồm 6 tiết, 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao năng lực cán bộ chủ chốt cấp
xã, thị trấn.
Chương 2. Thực trạng năng lực cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện
Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nâng cao năng lực cán bộ
chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện

nay.
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, THỊ TRẤN
1.1. Một số khái niệm liên quan đến nội dung về nâng cao năng lực
cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn
12
1.1.1. Khái niệm về cán bộ, cán bộ chủ chốt và cán bộ chủ chốt cấp xã,
thị trấn
1.1.1.1. Cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát,
giản dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng,
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình
dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng"
[31; 33].
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì: "Cán bộ:
dt.1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước. 2. Người giữ
chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước" [22; 249]. Theo Điều 4 Luật cán bộ công chức của Quốc hội
ban hành ngày 13/11/2008: "Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị -
xã hội trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách" [28; 1].
Từ những định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu cán bộ là khái niệm
dùng để chỉ những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng
trách hoàn thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công.
Như vậy, có nhiều quan niệm về cán bộ, nhưng tựu trung lại, có hai cách
hiểu cơ bản:
Một là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc

trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội, các doanh nghiệp
nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương và
cơ sở.
Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ
chức để phân biệt với người không có chức vụ.
13
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình
thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ
nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
1.1.1.2. Cán bộ chủ chốt
- Chủ chốt: Theo Từ điển tiếng Việt - 2000 của Nhà xuất bản Đà Nẵng, từ
"chủ chốt" là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của
phong trào" [49; 174].
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) ngày 18/3/2002 về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ
sở xã, phường, thị trấn” đã khẳng định “Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: các
bộ chủ chốt của cấp uỷ đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, những người
đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” [15; 174].
Từ những nội dung trình bày nêu trên, chúng ta có thể hiểu CBCC là
người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong
các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm
đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp
mình về lĩnh vực công tác được giao. Cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan
trọng, giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng, mục tiêu,
phương pháp công tác; đề ra các quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết
định của cấp mình hoặc cấp trên giao. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn
nắn những biểu hiện lệch lạc; bổ sung, điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi

cần thiết; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận.
Đồng thời, CBCC còn là người giữ vai trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh
của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức
vững mạnh. Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập thể
14
chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan
Đảng, Chính quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và là những
người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa
phương, đơn vị hoặc lĩnh vực công tác được đảm nhận.
1.1.1.3. Cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn
Căn cứ các khái niệm trên, chúng ta thấy CBCC cấp xã, thị trấn là người
có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ
chức thuộc hệ thống bộ máy của HTCT cấp xã, thị trấn.
Theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng
HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày
10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Quyết định
04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn đối
với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn; Điều 61 Luật Cán bộ, Công chức thì
CBCC cấp xã, thị trấn gồm:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn
có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt
Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [28; 3].
Với đề tài này, tác giả luận văn đề cập đến đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn

ở huyện Thạch Hà bao gồm các chức danh: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch,
Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận
15
Tổ quốc; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Bí thư Đoàn Thanh niên; Chủ tịch Hội
Nông dân; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh cấp xã.
1.1.2. Năng lực và nâng cao năng lực
- Năng lực: Năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến năng
lực, bao giờ người ta cũng nói đến năng lực thuộc về một hoạt động cụ thể nào
đó như năng lực Toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu Toán học, năng
lực hoạt động Chính trị của hoạt động Chính trị, năng lực Quản lý của hoạt động
Quản lý Nhà nước…
Theo Từ điển tiếng Việt thì “năng lực là khả năng đủ để làm một công
việc nào đó hay “năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực
hiện một hoạt động nào đó” [49; 238].
- Nâng cao năng lực: Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Nâng cao là làm tăng
thêm” [49; 968].
Như vậy, căn cứ các khái niệm trên chúng ta thấy rõ nâng cao năng lực là
“làm tăng thêm khả năng đủ để làm một công việc nào đó hay “năng lực” là
những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện một hoạt động nào đó”.
Nâng cao năng lực là những phương hướng, giải pháp trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng, quy hoạch, sử dụng và bố trí cán bộ nhằm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về
năng lực, trình độ, phẩm chất và những tố chất cần thiết của người cán bộ trong
quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao.
1.2. Yêu cầu về năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn
1.2.1. Mục tiêu của việc nâng cao năng lực cán bộ chủ chốt cấp xã, thị
trấn
Năng lực CBCC cấp xã, thị trấn là hệ thống những chuẩn mực bao gồm cả
phẩm chất chính trị, đạo đức; kiến thức, năng lực, trình độ; phong cách làm
việc , là sự thống nhất giữa đức và tài của người cán bộ trên cơ sở các tiêu
chuẩn chung của đội ngũ cán bộ và tiêu chuẩn riêng của cán bộ lãnh đạo Đảng,

Nhà nước, đoàn thể nhân dân do Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến
16
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đã xác định rất rõ về mục tiêu là:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt
là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng
trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,
đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ,
đi lên chủ nghĩa xã hội” [15; 168].
Từ mục tiêu đó Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đã tập trung xác định các tiêu chuẩn đối với cán
bộ nói chung trong đó có đội ngũ CBCC trong thời kỳ mới bao gồm:
“Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ
hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng
lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài,
đức là gốc.
Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
đoàn thể nhân dân còn phải: Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập
trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng
sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp
17
luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh

bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả
năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ.
Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý. Đã học tập có hệ thống ở
các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động thực
tiễn có hiệu quả” [15; 177, 178].
Như vậy, từ những mục tiêu, tiêu chuẩn mà Nghị quyết trung ương 3 khóa
VIII đã xác định, chúng ta thấy rõ sự đòi hỏi của thực tế khách quan là phải xây
dựng một đội ngũ CBCC có số lượng và cơ cấu phù hợp với các yêu cầu cụ thể
như:
Một là, tạo ra một đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn có số lượng và cơ cấu
hợp lý. Tính hợp lý trong việc xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã biểu hiện ở việc
tinh giản biên chế một cách tối ưu, đảm bảo gọn nhẹ, hoạt động có chất lượng.
Trong đó, mỗi cá nhân CBCC phát huy được hết năng lực, sở trường của mình;
có thể đảm đương tốt nhiệm vụ được giao, đảm bảo cho bộ máy hoạt động thông
suốt và có hiệu quả.
Xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn sẽ tạo ra một đội ngũ CBCC có
cơ cấu hợp lý. Đó là sự cân đối giữa các thành phần, giới tính, độ tuổi Sự hợp
lý đó sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, tính năng động, nhịp nhàng, hài hòa và có
sự kế thừa, phát triển.
Hai là, tạo ra một đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn có phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống tốt
Đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn có lòng yêu nước, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội; chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Có bản lĩnh chính trị vững vàng; không dao động trước
những khó khăn, thách thức và những biến động của tình hình trong nước thế
18
giới. Có ý thức giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm lệch lạc, sai trái của các
thế lực thù địch

Có đạo đức cách mạng thì CBCC mới có khả năng hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao, mới được nhân dân tin yêu và giúp đỡ. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả CBCC diễn ra nghiêm trọng, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân. Vì vậy, xây dựng đội ngũ CBCC không thể không chú ý
về đạo đức, lối sống.
Ba là, tạo ra một đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn có trình độ và năng lực
chuyên môn.
CBCC có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt mà không có năng lực thì trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí thất bại: “Chỉ
dựa vào tinh thần xung kích, và tinh thần phấn khởi và nhiệt tình không thôi, thì
không thể làm được cái gì cả” [27; 253].
Vì vậy, bên cạnh những yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn phải tạo ra được đội ngũ CBCC có trình
độ, năng lực tư duy lý luận và năng lực thực tiễn, đó là:
- Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ; lý luận chính trị và các kiến
thức bổ trợ khác.
- Năng lực tư duy lý luận: biết phát hiện, nhận thức đúng, nhanh nhạy các
vấn đề thực tiễn ở cơ sở dưới góc độ lý luận. Đồng thời có những đề xuất, kiến
nghị sắc bén, khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo, xử lý dứt điểm, có hiệu quả
tích cực.
- Năng lực tổ chức thực tiễn: Hiểu biết về chức năng, nhiệm vụ và vị trí
mình đang đảm nhiệm; hiểu biết sâu sắc, cụ thể về chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước; về tình hình địa phương; về khoa học quản lý. Bên
cạnh đó, phải có kỹ năng (cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
19
luật của Đảng và Nhà nước, kỹ năng phổ biến, tuyên truyền, kỹ năng quan sát,
linh hoạt mềm dẻo, khéo thuyết phục lôi kéo quần chúng, quyết đoán…).
Trước yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt là yêu cầu
của đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đội ngũ CBCC ở cấp xã, thị

trấn hơn lúc nào hết phải được đào tạo bài bản đáp ứng các cương vị công tác
được giao (công tác lãnh đạo Đảng; công tác quản lý của Nhà nước; công tác tập
hợp vận động quần chúng trong các tổ chức chính trị - xã hội ở cở sở).
Tiêu chuẩn CBCC là nội dung quan trọng hàng đầu ảnh hưởng tới việc
xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn; là sự biểu hiện về phẩm chất và năng
lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ; là căn cứ để lựa chọn, bố trí, sử dụng, đánh giá,
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC. Có tiêu chuẩn phù hợp mới có cơ sở rà
soát, đánh giá khách quan đội ngũ CBCC hiện có; loại bỏ những CBCC cơ hội,
thoái hóa, biến chất. Mặt khác, căn cứ vào tiêu chuẩn, từng CBCC sẽ phấn đấu
hoàn thiện bản thân mình.
1.2.2. Năng lực của cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn gắn với công tác
đào tạo, bồi dưỡng và các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước
Đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã, thị trấn là hoạt động của tổ chức nhằm
đào tạo, bồi dưỡng những người có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn
nhất định để bố trí hoặc dự nguồn sử dụng cho một tổ chức nào đó nhằm đáp ứng
yêu cầu và nhiệm vụ của tổ chức đó, cũng như để củng cố, xây dựng tổ chức vững
mạnh toàn diện.
Quyết định số 1374/QĐ-TTg, ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ “về
việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-
2015” quy định về mục tiêu chung là: “Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ có đủ năng lực
xây dựng hệ thống chính trị, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiên tiến,
hiện đại” [46; 2, 3]. Với các mục tiêu và nội dung cụ thể như sau:
“- 90% cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn quy định;
20
+ 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản
lý, điều hành theo vị trí công việc;
+ 70 đến 80% công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối
thiểu hàng năm;
- Đưa khoảng 3.000 lượt cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng tại các

nước phát triển và đang phát triển;
- 100% đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bồi dưỡng trang bị
kiến thức, kỹ năng hoạt động;
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng:
- Lý luận chính trị:
+ Trang bị trình độ lý luận chính trị theo tiêu chuẩn quy định cho các
chức danh cán bộ, ngạch công chức và chức danh lãnh đạo quản lý;
+ Tổ chức phổ biến các văn kiện, nghị quyết của Đảng; bồi dưỡng cập
nhật, nâng cao trình độ lý luận theo quy định của cơ quan có thẩm quyền;
- Kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước:
+ Trang bị kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước theo chương trình quy
định cho công chức các ngạch và theo chức vụ lãnh đạo, quản lý;
+ Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý chuyên ngành và vị trí việc làm
theo chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng năm;
+ Bồi dưỡng văn hóa công sở;
- Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học cho cán bộ,
công chức:
+ Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học theo tiêu chuẩn cho cán
bộ, công chức cấp xã;
- Bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động cho đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp theo chương trình quy định…”[46; 3]
1.2.3. Yêu cầu của công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ chủ chốt
cấp xã, thị trấn
21
Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX)
“về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định mục đích của công tác quy hoạch cán
bộ là: “Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh
lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị vững vàng về chính trị, trong
sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực,

nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [17; 3].
Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) đã
xác định quan điểm: “Lấy việc phục vụ nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ
cách mạng để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, phải thông qua thực
tiễn của sự nghiệp đổi mới, phong trào thi đua yêu nước của quần chúng nhân
dân để phát hiện những người có phẩm chất và năng lực, nhất là năng lực chỉ đạo
thực tiễn tốt, làm việc năng động, sáng tạo, có hiệu quả, cũng như các nhân tố
mới có nhiều triển vọng phát triển để đưa vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản
lý” [17; 3]. Và thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo các phương châm:
“Quy hoạch cán bộ phải thực sự gắn kết với các khâu khác trong công tác
cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển,
sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ là khâu quan trọng nhất, là
tiền đề cho việc bố trí cán bộ và cho quy hoạch cán bộ; đồng thời quy hoạch cán
bộ là cơ sở để thực hiện luân chuyển, đào tạo cán bộ cho nhu cầu trước mắt và
lâu dài.
Thực hiện quy hoạch “động” và “mở”: một chức danh có thể quy hoạch
nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải
luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng năm, đưa ra khỏi quy
22
hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào quy
hoạch những nhân tố mới có triển vọng.
Quy hoạch cán bộ phải đồng bộ từ trên xuống dưới; cấp trên chỉ đạo,
hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm cơ sở
cho quy hoạch cán bộ cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy hoạch cấp dưới.
Quy hoạch cán bộ phải mang tính khoa học và thực tiễn, vừa tạo nguồn
cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy,
phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn kết
trong sự phát triển của toàn đội ngũ cán bộ, đề phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo

quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực hiện quy hoạch.
Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch cán bộ; cơ quan có thẩm
quyền quyết định quy hoạch thì quyết định phạm vi, đối tượng, thời điểm, mức
độ và cách thức công khai quy hoạch” [17; 4, 5].
Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) đã
xác định tiêu chuẩn cán bộ đưa vào quy hoạch bao gồm:
“Năng lực thực tiễn, thể hiện ở kết quả và hiệu quả công việc, tinh thần
chủ động, sáng tạo, mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; khả
năng đoàn kết, tập hợp, quy tụ cán bộ; năng lực tổ chức, điều hành để thúc đẩy
sự phát triển của lĩnh vực công tác được phân công phụ trách.
Đạo đức, lối sống trong sạch, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
chống chủ nghĩa cá nhân; bản thân cán bộ và gia đình phải gương mẫu chấp hành
đúng pháp luật, không lợi dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích riêng.
Ham học hỏi, cầu tiến bộ, qua thực tế cho thấy là cán bộ có triển vọng
vươn lên đảm nhận nhiệm vụ cao hơn; chú ý phát hiện, xem xét đưa vào quy
hoạch những nhân tố mới, cán bộ trẻ; được đào tạo cơ bản; đã kinh qua công tác
23
thực tế ở địa phương, cơ sở; năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, có nhiều triển vọng phát triển” [17; 5].
Quy hoạch phải gắn với công tác đào tạo, bồi dưỡng đồng thời phải hết
sức quan tâm đến việc bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí CBCC đã được quy hoạch
một cách kịp thời, hợp lý và thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách theo các chủ
trương của Đảng, quy định của Nhà nước sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng
cao và phát huy tốt nhất năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải xây dựng đội
ngũ CBCC vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.
Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác định:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực
hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy
với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa

đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở” [16; 156].
1.3. Vai trò của đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn trong hệ thống chính
trị cơ sở
Luận bàn về vị trí, vai trò của cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách
mạng, C.Mác và Ph. Ăngghen là người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học về
cán bộ. Hai ông khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn" [29;184].
Theo quan điểm của hai ông, cán bộ là những người tiêu biểu cho phong
trào cách mạng; có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết kết hợp vận dụng lý
luận cách mạng với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng,
lãnh đạo quần chúng thực hiện các cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Họ phải
là những người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, có trách nhiệm cao và được quần chúng noi theo.
24
Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen về Đảng của giai
cấp công nhân, V.I. Lênin đã đề ra những quan điểm quan trọng về cán bộ trong quá
trình xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Theo V.I. Lênin, vai trò quan
trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là ở chỗ đảm bảo tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối chính trị của Đảng. Bởi vì họ vừa là người xây dựng đường lối, vừa tiến
hành lựa chọn phương pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra quá trình vận
động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề ra. Vì thế, Người nhấn mạnh: "Mấu chốt
là vấn đề người, vấn đề lựa chọn người" [27; 132] và "trong lịch sử, chưa hề có một
giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được, trong hàng
ngũ của mình, những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào" [24; 473].
V.I. Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
Nga, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tổ chức và lãnh đạo Cách
mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi to lớn. Khi giành được chính quyền, Đảng
kiểu mới của V.I. Lênin trở thành Đảng cầm quyền. Lúc này, vấn đề cán bộ càng

trở nên quan trọng và cấp bách hơn. Ở giai đoạn này, nhiệm vụ mới vô cùng khó
khăn của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân là quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế, xã hội nhằm xây dựng thành công xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
V.I. Lênin yêu cầu đội ngũ cán bộ phải nỗ lực cao hơn thời nội chiến để hoàn
thành sứ mệnh mới là quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Người khẳng định:
"Nghiên cứu con người, tìm ra cán bộ có bản lĩnh; hiện nay đó là then chốt, nếu
không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [26; 449].
Để có được đội ngũ cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, một nhiệm vụ lâu dài, khó khăn và phức tạp, V.I. Lênin đã coi
trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, đề bạt cán bộ vào các cương vị công
tác, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ, chú ý giáo dục, rèn
25

×