Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu các loài lưỡng cư trong họ cóc bùn megopryidae ở tây nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 84 trang )






BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
====================



HOÀNG QUỐC DŨNG



NGHIÊN CỨU CÁC LOÀI LƯỠNG CƯ TRONG HỌ
CÓC BÙN MEGOPRYIDAE Ở TÂY NGHỆ AN





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC







Nghệ An, 2014





1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
====================


HOÀNG QUỐC DŨNG


NGHIÊN CỨU CÁC LOÀI LƯỠNG CƯ TRONG HỌ
CÓC BÙN MEGOPRYIDAE Ở TÂY NGHỆ AN



CHUYÊN NGÀNH: ĐỘNG VẬT
MÃ SỐ: 60.42.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


Hướng dẫn khoa học: TS. Ông Vĩnh An






Nghệ An, 2014






2

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
của Ban Giám hiệu Trường Đại học Vinh, Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học, các
thầy cô giáo, các cán bộ kỹ thuật viên tổ bộ môn Động vật – Sinh lý, Khoa Sinh học
Trường Đại học Vinh, UBND xã Na Ngoi, huyện Kỳ Sơn, xã Châu Cường huyện
Quỳ Hợp, ban quản lí KBTTN Pù Huống, người dân địa phương tại khu vực nghiên
cứu và những người thân trong gia đình. Nhân dịp này tác giả bày tỏ lòng cám ơn
với những sự giúp đỡ đó.
Tác giả xin đặc biệt nói lời cám ơn với lòng kính trọng sâu sắc TS. Ông Vĩnh
An, đã trực tiếp định hướng và hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn, NCS. Đậu
Quang Vinh giúp đỡ trong những lần đi thực địa cũng như trong quá trình hoàn
thiện luận văn. TS. Hoàng Ngọc Thảo giúp đỡ trong quá trình hoàn thiện luận văn.

Tác giả luôn trân trọng và vô cùng biết ơn những sự giúp đỡ quý báu trên.

Vinh, tháng 10 năm 2014



Hoàng Quốc Dũng





3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

cs. Cộng sự.
BTB Bắc Trung Bộ.
ĐDSH Đa dạng sinh học.
ENBS Ếch nhái bò sát.
KBTTN Khu bảo tồn thiên nhiên.
NXB Nhà xuất bản.
pp. Trang (ký hiệu tắt bằng tiếng Anh).
Tr. Trang.
TTH Thừa Thiên Huế.
VQG Vườn Quốc gia.
KVNC Khu vực nghiên cứu
TS. Tiến sĩ




4
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Các chỉ số khí hậu tại khu vực nghiên cứu 13
Bảng 1.2: Số liệu dân số các huyện Tây Nghệ An 14
Bảng 3.1: Thành phần các loài lưỡng trong họ Megophryidae 19
Bảng 3.2. Khóa định loại các loài trong họ Megophryidae 19

Bảng 3.3: Chỉ tiêu hình thái và tỉ lệ của loài Leptolalax eos 21
Bảng 3.4: Chỉ tiêu hình thái và tỉ lệ của loài Leptolalax ventripunctatus 24
Bảng 3.5: Chỉ tiêu hình thái và tỉ lệ của loài Leptobrachium chapaense 26
Bảng 3.6: Chỉ tiêu hình thái và tỉ lệ của loài Xenophrys major 29
Bảng 3.7: Chỉ tiêu hình thái và tỉ lệ của loài Xenophrys palpebralespinosa 31
Bảng 3.8: Chỉ tiêu hình thái và tỉ lệ của loài Xenophrys cf. parva 33
Bảng 3.9: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Leptolalax eos 36
Bảng 3.10: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Leptolalax ventripunctatus 37
Bảng 3.11: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Leptobrachium chapaense 39
Bảng 3.12: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Xenophrys major 41
Bảng 3.13: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Xenophrys palpebralespinosa 42
Bảng 3.14: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Leptobrachium chapaense 45
Bảng 3.15: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Ophryophryne pachyproctus 46
Bảng 3.16: Số liệu chỉ tiêu so sánh loài Xenophrys major 47
Bảng 3.17: Phân bố của các loài trong họ Megophryidae 49
















5
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Bản đồ Nghệ An 15
Hình 2.2. Sơ đồ đo lưỡng cư không đuôi 18
Hình 3.1: Leptolalax eos 23
Hình 3.2: Leptolalax ventripunctatus 25
Hình 3.3: Leptobrachium chapaense 27
Hình 3.4: Ophryophryne pachyproctus 28
Hình 3.5: Xenophrys major 30
Hình 3.6: Xenophrys palpebralespinosa 33
Hình 3.7: Xenophrys cf. parva 35
Hình 3.8: Biểu đồ so sánh loài Leptolalax eos 37
Hình 3.9: Biểu đồ so sánh loài Leptolalax ventripunctatus 38
Hình 3.10: Biểu đồ so sánh loài Leptobrachium chapaense 40
Hình 3.11: Biểu đồ so sánh loài Xenophrys major 42
Hình 3.12: Biểu đồ so sánh loài Xenophrys palpebralespinosa 43
Hình 3.13: Biểu đồ so sánh loài Leptobrachium chapaense KVNC và Đông Bắc
Việt Nam 45
Hình 3.14: Biểu đồ so sánh loài Ophryophryne pachyproctus KVNC và Đông Bắc
Việt Nam 46
Hình 3.15: Biểu đồ so sánh loài Xenophrys major ở KVNC và Đông Bắc Việt Nam
48












6
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Lược sử vấn đề nghiên cứu 3
1.1.1. Lược sử nghiên cứu lưỡng cư, bò sát ở Khu Bắc Trung Bộ 3
1.1.2. Lược sử nghiên cứu lưỡng cư, bò sát ở Nghệ An 7
1.1.3. Lược sử nghiên họ Cóc bùn Megophryidae ở Việt Nam và khu vực Tây Nghệ
An 8
1.2. Khái quát điều kiện tự nhiên xã hội khu vực nghiên cứu 12
1.2.1. Đặc điểm địa hình 12
1.2.2. Đặc điểm thuỷ văn 12
1.2.3. Đặc điểm khí hậu 13
1.2.4. Dân cư và sự phân bố dân cư 13
CHƯƠNG 2: ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
15
2.1. Địa điểm và thời gian 15
2.1.1. Thời gian 15
2.1.2. Địa điểm 15
2.2. Phương pháp nghiên cứu 16
2.2.1. Nghiên cứu thực địa 16
2.2.2. Phương pháp xử lý và bảo quản mẫu 16
2.2.3. Dụng cụ, hóa chất 16
2.2.4. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 17
3.1. Thành phần loại lưỡng cư trong họ Megophryidea ở Tây Nghệ An 19

3.2. Đặc điểm hình thái phân loại các loài LCBS tại KVNC 19
3.2.1. Khóa định loại 19
3.2.2. Đặc điểm hình thái phân loại các loài trong họ Meophryidae 21
3.3. Đặc điểm biến dị hình thái một số loài ở KVNC. 36




7
3.3.1. Leptolalax eos Ohler, Wollenberg, Grosjean, Hendrix, Vences, Ziegler &
Dubois, 2011. 36
3.3.2. Leptolalax ventripunctatus Fei, Ye and Li, 1991 37
3.3.3. Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937) 39
3.3.4. Xenophrys major (Boulenger, 1908) 41
3.3.5. Xenophrys palpebralespinosa (Bourret, 1937) 42
3.4. Đặc điểm biến dị hình thái một số loài ở KVNC so với mẫu ở Đông Bắc Việt
Nam 44
3.4.1. Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937) 44
3.4.2. Ophryophryne pachyproctus Kou, 1985 46
3.4.3 Xenophrys major (Boulenger, 1908) 47
3.5. Phân bố của các loài trong họ Megophryidae 48
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
PHỤ LỤC 61







1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay số lượng các loài lưỡng cư đang đứng trước nguy cơ suy giảm
nghiêm trọng và sự tuyệt chủng cục bộ hàng loạt, đã được ghi nhận từ những năm
1980 từ các địa điểm trên thế giới. Những suy giảm này là một trong những mối đe
dọa nghiêm trọng nhất đối với sự đa dạng sinh học toàn cầu.
Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng cao về số lượng các loài
lưỡng cư. Cho đến nay, ở nước ta hiện biết 180 loài lưỡng cư, trong đó có rất nhiều loài
đặc hữu cho Việt Nam và phát hiện nhiều loài mới (Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc,
Nguyễn Quảng Trường, 2009) [41], trong đó có rất nhiều loài đang đứng trước
nguy cơ đe dọa do mất dần môi trường sống.
Tây Nghệ An là vùng có ý nghĩa bảo tồn đa dạng sinh học Quốc Gia và Quốc
Tế. Với vị trí địa lý đặc biệt và sự đa dạng về địa hình, khí hậu và thủy văn, khu hệ
động vật Tây Nghệ An, một mặt mang tính đặc hữu cao, mặt khác mang tính giao
thoa của nhiều yếu tố địa động vật: yếu tố cận nhiệt đới (Nam Trung Hoa), yếu tố
nhiệt đới (Indo - Malaysia), yếu tố ôn đới (Hymalaya),
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lưỡng cư – bò sát tại khu vực này:
Hoàng Xuân Quang, 1993[20, 21], Hoàng Xuân Quang, Hoàng Ngọc Thảo, Cao
Tiến Trung, 2005 [28]; Hoàng Ngọc Thảo, Hoàng Xuân Quang, Cao Tiến Trung,
Ông Vĩnh An, Nguyễn Thị Lương, 2012 [44] và những người khác.
Việc nghiên cứu các lưỡng cư trong họ Cóc bùn (Megophryidae) góp phần
bổ sung các dấu hiệu hình thái, môi trường sinh sống, phát triển nhằm cung cấp dẫn
liệu hoàn chỉnh về các loài này.
Nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về các loài lưỡng cư trong khu vực, dưới
sự hướng dẫn của các nhà khoa học, tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài: "Nghiên cứu
các loài lưỡng cư trong họ Cóc bùn Megophryidae ở Tây Nghệ An".






2
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu tính đa dạng thành phần loài và đặc điểm phân bố các loài trong
họ Megophryidae ở khu vực Tây Nghệ An, góp phần bổ sung tư liệu cho nghiên
cứu về lưỡng cư ở khu vực nghiên cứu. Trên cơ sở đó góp phần xây dựng các biện
pháp bảo tồn loài lưỡng cư này ở Việt Nam.
3. Nội dung nghiên cứu.
- Nghiên cứu xác định thành phần loài của họ Megophryidae tại Tây Nghệ An.
- Mô tả đặc điểm hình thái phân loại các loài.
- Phân tích đặc điểm biến dị quần thể một số loài thuộc họ Megophryidae ở KVNC.



3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lược sử vấn đề nghiên cứu.
1.1.1. Lược sử nghiên cứu lưỡng cư, bò sát ở Khu Bắc Trung Bộ.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đủ các dạng địa hình
(đồng bằng, trung du và miền núi) với các sinh cảnh đa dạng và phức tạp nên rất
phù hợp cho sự phát triển của động vật nói chung, ENBS nói riêng.
Năm 1996, số loài ENBS ở nước ta đã biết 340 loài gồm 82 loài ếch nhái, 258
loài bò sát (Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, 1996 [36]). Đến năm 2005, nâng số
loài lên 458 loài (162 loài ếch nhái, 296 loài bò sát) [39]. Năm 2009, số loài tăng lên
545 loài (176 loài ếch nhái, 369 loài bò sát) [41]. Trong thời gian 1988 đến 2009 đã
công bố 106 loài mới, nhiều nhất vào năm 2006 – 2009 đã công bố 41 loài với 10

tác giả Việt Nam đứng đầu.
Song song với sự lớn mạnh về nghiên cứu ENBS trong cả nước, ở Bắc Trung
Bộ (BTB) đã được các nhà khoa học chú ý và thực hiện nhiều cuộc khảo sát. Các
tác giả tiêu biểu cho vùng này là tác giả Hoàng Xuân Quang, Ngô Đắc Chứng,
Nguyễn Kim Tiến,… ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học trong nước và ngoài nước tại khu vực này.
Khu vực BTB bao gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên – Huế (TTH), có
tọa độ địa lý từ 16
0
12’/20
0
40’ N, 104
0
25’/108
0
10’ E. Địa hình, khí hậu BTB đặc
biệt vì có dãy Pù Hoạt nối tiếp với khối núi Tây Bắc theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam và dãy Trường Sơn theo hướng gần như song song với bờ biển, với dãy Hoành
Sơn (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình) và dãy núi Bạch Mã – Hải Vân chạy theo hướng
ra biển. Địa hình bị chia cắt mạnh đã tạo nên tiểu vùng vi khí hậu cũng như sự phân
hóa cảnh quan và ổ sinh thái đa dạng. Điều này đã làm cho hệ động vật ở đây phong
phú và đặc biệt, trong đó có nhóm ENBS.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu ENBS ở khu vực này (Bourret 1942, 1943
[53,54]; Đào Văn Tiến, 1960; Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc,



4
1981;…). Năm 1992 - 1994, tác giả Hoàng Xuân Quang đã thống kê 33 loài rắn, bổ
sung cho danh lục loài rắn ở BTB 10 loài, được thực hiện năm 1985 – 1987 ở các

tỉnh BTB từ Thanh Hóa đến TTH. So với một số vùng ở nước ta, nhóm rắn BTB
khá phong phú về thành phần loài chiếm khoảng 57,3% tổng số rắn miền Bắc;
67,1% tổng số rắn ở miền Nam [19,20,21,22,23]. Tiếp đó tác giả nghiên cứu tại 3
điểm Hương Sơn, Kỳ Anh (Hà Tĩnh) và Vinh (Nghệ An) mô tả đặc điểm sinh thái
họ Cóc nhà Bufo melanostictus Schineider, 1799). Cùng năm tác giả bổ sung 4 loài
Oligodon tamdaoensis, O. longicauda, O. chinensis, O. taeniatus. Cho đến thời
điểm này ở BTB biết 6 loài (gồm cả 2 loài O. cylutus & O. cinereus).
Năm 1992, nghiên cứu thống kê 34 loài ếch nhái và 94 loài bò sát [19]. Cùng
năm điều tra sơ bộ ENBS tại Vũ Quang (Hà Tĩnh) thu được 37 loài bò sát và 20 loài
ếch nhái (Nguyễn Văn Sáng, Hoàng Xuân Quang, 1992 [19]). Tại khu vực Bến En
(Thanh Hóa) tác giả Trần Kiên & Hoàng Xuân Quang thống kê ở Bắc Bộ - Thanh
Nghệ Tĩnh có 12 loài ếch nhái và 27 loài bò sát, không có loài đặc hữu so với khu
vực BTB có 32 loài ếch nhái và 73 loài bò sát với 13 loài đặc hữu của Việt Nam.
Năm 1993, Hoàng Xuân Quang ghi nhận 128 loài ENBS có ở khu vực BTB
[20,21,22].
Năm 1994, Hoàng Xuân Quang [23] nghiên cứu về đặc điểm phân bố theo sinh
cảnh thích nghi của các loài ENBS kết quả cho thấy các loài tập trung nhiều ở sinh
cảnh rừng núi đất là 66 loài (51,38%), khu dân cư 38 loài (29,67%), sông suối – ven
bờ 30 loài (23,42%), đồng ruộng 27 loài, 2 sinh cảnh nghèo là cát biển và núi đá có
6 loài.
Năm 1995, Ngô Đắc Chứng [8] nghiên cứu LCBS ở VQG Bạch Mã ghi nhận
49 loài ENBS thuộc 3 bộ, 15 họ.
Năm 1997, Hoàng Xuân Quang, Lê Nguyên Ngật [24] thống kê 16 loài (5 loài
ếch nhái, 11 loài bò sát) đã bổ sung 5 loài ếch nhái và 11 loài bò sát, trong đó có
loài Nhông xám (Calotes mystaceus) được ghi nhận ở xã Hói Mit, Lộc Hảo nâng
tổng loài ENBS hiện biết tại khu vực Nam Đông – Bạch Mã – Hải Vân lên 64 loài
(23 loài ếch nhái, 41 loài bò sát).
Năm 2000, thống kê 85 loài (54 loài bò sát, 31 loài ếch nhái) đã bổ sung cho




5
danh lục ENBS VQG Bến En (Thanh Hóa) 9 loài (Nguyễn Văn Sáng, Hoàng Xuân
Quang [38]).
Năm 2006, Zieger T. & cs., [66] công bố kết quả nghiên cứu ENBS ở VQG
Phong Nha - Kẽ Bàng gồm 140 loài. Trong đó đã bổ sung thêm dẫn liệu cho 19 loài
mới được ghi nhận ở đây. Đến năm 2008, có 5 loài lưỡng cư được bổ sung cho
VQG Phong Nha – Kẻ Bàng (Henderix R. & cs., [56]).
Năm 2007, ghi nhận ở khu vực nghiên cứu huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
có 92 loài, gồm 41 loài ếch nhái thuộc loài 6 họ, 1 bộ & 51 loài bò sát thuộc 8 họ, 2
bộ (Hồ Thu Cúc & cs., 2007 [5,6]). Cùng thời gian này tác giả Đoàn Văn Kiên &
Hồ Thu Cúc [11] bước đầu nghiên cứu thành phần ENBS ở khu vực Lệ Thủy &
Quảng Ninh (Quảng Trị) ghi nhận có 75 loài ENBS (24 loài ếch nhái, 28 loài bò sát,
11 loài rùa). Ở xã Cẩm Lương (Cẩm Thủy, Thanh Hóa) tác giả Nguyễn Kim Tiến
[48] đã thống kê được 29 loài bò sát, 18 loài ếch nhái, trước đó Lê Nguyệt Ánh
(2007) điều tra ở núi Bồ Um, xã Cẩm Lương được 20 loài bò sát. Còn ở VQG Bạch
Mã ghi nhận 93 loài thuộc 19 họ, 3 bộ (Hoàng Xuân Quang & cs., 2007 [30,31]).
Kết quả nghiên cứu điều tra từ năm 1996 – 2007 đã bổ sung cho VQG Bạch Mã 3
họ thằn lằn (họ Thằn lằn rắn Anguidae, họ Rùa đầu to Platysternidae & họ Rùa núi
Testudinidae), 15 loài ếch nhái và 30 loài bò sát, trong đó có 16 loài (3 loài ếch
nhái, 13 loài bò sát) bổ sung cho khu hệ ENBS ở BTB (Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu
Cúc, Nguyễn Quảng Trường [41])
Năm 2008, Hoàng Xuân Quang & cs.[33], ghi nhận ở khu vực BTB có 226 loài,
gồm 88 loài ếch nhái, 138 loài bò sát, trong đó có 22 loài ếch nhái và 15 loài bò sát
đặc hữu của Việt Nam.
Năm 2009, Nguyễn Kim Tiến [49] nghiên cứu thành phần loài LCBS ở một số
VQG & KBTTN tỉnh Thanh Hóa thống kê 121 loài (49 loài ếch nhái, 72 loài bò
sát), nếu so sánh thành phần ENBS với BTB thì chiếm 71,17%. Lê Thi Quý & cs.,
mô tả các đặc điểm hình thái nòng nọc của các loài Leptobrachium chapaensis ở
VQG Bạch Mã.

Các công trình năm 2009 – 2011, cũng đã tập trung nghiên cứu cứu mô tả hình
thái phân loại, đặc điểm sinh học sinh thái, sinh sản và dinh dưỡng của các loài



6
ENBS, tiêu biểu: mô tả 2 loài Mabuya longicaudata & M.multifasciata ở TTH (Ngô
Đắc Chứng & cs., 2009. Đặc điểm sinh sản của ếch gai sần (Paa veruscopinosa
Bourret, 1937) ở vùng A Lưới, TTH (Ngô Đắc Chứng & cs., 2009). Một số đặc
điểm hình thái của quần thể Nhông cát Leiolepis reevesii reevesii (Gray, 1831) mẫu
thu thập ở nhiều điểm từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế, kết quả cho thấy có
khoảng cách địa lý càng xa thì sự sai khác thể hiện càng rõ (Ngô Đắc Chứng & cs.,
2009). Năm 2011, Nguyễn Văn Lanh nghiên cứu đặc điểm hình thái và dinh dưỡng
của rắn lục xanh Viridovipera stejnegeri Schimdt, 1925 ở vùng Tây Nam (TTH).
Công trình nghiên cứu mô tả về đặc điểm hình thái các gia đoạn phát triển các loài
nòng nọc Limnonectes poilani (Bourret, 1942) ở VQG Bạch Mã của tác giả Lê Thị
Quý & cs., 2009.
Một số công trình nghiên cứu mô tả loài mới ở khu vực Bắc Trung Bộ trong
những năm gần đây:
Năm 2007: Mô tả loài mới thuộc giống Lygosoma, mẫu thu ở VQG Phong Nha,
Kẻ Bàng (Quảng Bình) (Zieger T. & cs., [66]). David et al. [55] mô tả loài rắn thuộc
giống Amphiesma dựa trên mẫu chuẩn thu ở huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) và các
mẫu ở Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Gia Lai.
Năm 2008: Mô tả loài rắn mới thuộc giống Fimbrios ở VQG Phong Nha – Kẻ
Bàng (Zieger T & cs., 2008[68]). Rösler & cs., [62] mô tả loài thạch sùng mới
Cytodactylus pseudoquachivigatus trên mẫu chuẩn thu ở khu vực A Lưới (Thừa
Thiên Huế). Loài mới Philautus quyeti ở Quảng Bình (Nguyen Quang Truong,
2008).
Năm 2009: Jodi R. & cs., [58] mô tả loài mới Leptolalax và các thông tin về
loài Leptolalax tuberosus ở Quảng Bình.

Năm 2010: Zieger & cs., [69] mô tả loài Cytodactylus roesleri ở VQG Phong
Nha – Kẻ Bàng và xây dựng khóa định loại cho các loài trong giống Cytodactylus
hiện biết ở Việt Nam.






7
1.1.2. Lược sử nghiên cứu lưỡng cư, bò sát ở Nghệ An.
Nghiên cứu lưỡng cư bò sát ở Nghệ An đã được tiến hành những năm 1982 –
1993, tác giả Hoàng Xuân Quang đã điều tra, thu mẫu và xác định thành phần loài
LCBS ở các tỉnh Bắc Trung Bộ thống kê 128 loài thuộc 42 giống, 24 họ, 4 bộ [20].
Năm 1994 – 1995, FIPI đã tiến hành nghiên cứu khảo sát đa dạng sinh học
KBTTN Pù Huống thống kê được 35 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư thuộc 3 bộ, 18 họ.
Năm 2003 – 2004, Bộ môn Động vật và Trung tâm Môi trường và Phát triển
nông thôn (Trường Đại học Vinh) triển khai đợt nghiên cứu đánh giá nhanh đa dạng
sinh học KBTTN Pù Huống, thu thập dẫn liệu về ĐDSH các nhóm động vật trong
đó có LCBS có 20 loài bò sát và 19 loài lưỡng cư, 13 loài rùa [27].
Năm 2005, Hoàng Xuân Quang, Hoàng Ngọc Thảo, Cao Tiến Trung điều tra sơ
bộ các loài LCBS ở khu bảo tồn thiên Pù Huống tỉnh Nghệ An, thống kê 87 loài,
trong đó 25 loài lưỡng cư, 62 loài bò sát thuộc 21 họ, 3 bộ [28]. Cùng năm, Nguyễn
Văn Sáng, Nguyễn Quảng Trường, Hồ Thu Cúc thống kê ở Nghệ An có 87 loài (37
loài lưỡng cư và 50 loài bò sát) [39].
Năm 2006, Hoàng Xuân Quang & cs. đã nghiên cứu các loài thuộc giống
Takydromus Daudin, 1802 ở Bắc Trung Bộ trong đó Nghệ An có 3 loài. Loài tắc kè
chân vịt Gekko palmatus lần đầu tiên phát hiện phân bố về phía nam Việt Nam và
Bắc Trung Bộ tại Bản Khì, Xã Châu Cường, Quỳ Hợp.
Năm 2007, Nguyễn Văn Sáng thống kê thống kê khu hệ rắn vùng Bắc Trung Bộ

có 36 loài, trong đó Nghệ An có 28 loài. Hoàng Xuân Quang, Hoàng Ngọc Thảo mô
tả đặc điểm hình thái 6 loài trong giống Trimersurus Lacápède, 1804 (họ rắn lục –
Viperidae) ở Bắc Trung Bộ trong đó Nghệ An có 4 loài.
Năm 2008, kết quả nghiên cứu đề tài đánh giá đa dạng cá, lưỡng cư, bò sát ở
khu vực Tây Bắc Nghệ An của Hoàng Xuân Quang và cs.[34] xác định được 96 loài
(25 loài lưỡng cư, 71 loài bò sát) thuộc 21 họ, 3 bộ. Bên cạnh đó tác giả cũng đã
phân tích sự phân bố của các loài LCBS theo sinh cảnh, đánh giá hiện trạng các loài
cũng như tình trạng săn bắt, buôn bán các loài LCBS trong vùng.
Năm 2009, Đậu Quang Vinh & Hoàng Ngọc Thảo [52] nghiên cứu điều tra ENBS ở



8
huyện Quỳ Hợp đã xác định có 74 loài thuộc 21 họ, 3 bộ. Ông Vĩnh An & cs., công bố
kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến hoạt động giao phối của rắn ráo
(Ptyas mucosa, Linnaeus, 1788) trong điều kiện nuôi nhốt ở Nghệ An.
Năm 2011, tác giả Ông Vĩnh An & cs., nghiên cứu trên đối tượng con non của
Rắn ráo trâu Ptyas mucosa cho thấy thành phần thức ăn của con non chủ yếu là
lưỡng cư có kích thước nhỏ. Ở xã Na Ngoi, Kỳ Sơn là một vùng được để ý gần đây,
ở đây có mặt của loài ếch mẫu sơn Hylarana maosonensis Bourret, 1943 là loài đặc
hữu của Việt Nam đã được bổ sung vào thành phần loài LCBS ở Nghệ An, Nguyễn
Thị Lương & cs., 2011.
1.1.3. Lược sử nghiên họ Cóc bùn Megophryidae ở Việt Nam và khu vực Tây
Nghệ An.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu điều tra cơ bản lưỡng cư cũng đã tiến hành từ
lâu. Trong đó có 3 mốc được xem là các đợt tu chỉnh khá đầy đủ và có tính hệ thống
là năm 1996, 2005 và 20009 của Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Nguyễn Quảng
Trường[39]. Các đợt tu chỉnh này đã thống kê số lượng các loài lưỡng cư và bò sát
của Việt Nam ở mỗi giai đoạn khác nhau và sự phân bố địa lý của các loài ở Việt
Nam và trê thế giới.

Sau này công tác điều tra cơ bản đa dạng sinh học lưỡng cư, bò sát ở các Vườn
quốc gia, Khu bảo tồn và các địa phương khác nhau của Việt Nam hiện vẫn được thực
hiện.
Năm 2004, Ngô Đắc Chứng, Hoàng Xuân Quang, Phạm Văn Hòa [9] nghiên
cứu thành phần loài ếch nhái, bò sát các tỉnh phía tây miền đông Nam Bộ (Bình
Dương, Bình Phước và Tây Ninh), có 120 loài, 24 họ, 5 bộ. Trong đó họ Cóc bùn
Megophryidae có 2 loài là: Leptobrachium pullum (Smith, 1921); Xenophrys
longipes (Boulenger, 1886). Lê Nguyên Ngật, Hoàng Văn Ngọc[16] nghiên cứu về
thành phần loài lưỡng cư, bò sát ở vùng hồ Núi Cốc tỉnh Thái Nguyên, trong đó có
18 loài lưỡng cư thuộc 12 giống, 6 họ, 2 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có
1 loài là: Xenophrys longipes (Boulenger, 1886).




9
Năm 2006, Trần Thanh Tùng, Lê Nguyên Ngật, Nguyễn Văn Sáng[51]
nghiên cứu thành phần loài ếch nhái (Amphibia) và bò sát (Reptilia) ở vùng núi Yên
Tử thuộc tỉnh Bắc Giang, trong đó có 41 loài ếch nhái thuộc 8 họ, 3 bộ. Trong đó họ
Cóc bùn Megophryidae có 5 loài là: Brachytarsophrys feae (Boulenger, 1887);
Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937); Leptolalax pelodytoides (Boulenger,
1893); Xenophrys major (Boulenger, 1908); Ophryophryne microstoma Boulenger,
1903.
Năm 2007, Hồ Thu Cúc, Nguyễn Quảng Trường, Nikolai Orlov[5] nghiên
cứu thành phần loài ếch nhái (Amphibia) và bò sát (Reptilia) khu vực huyện Hướng
Hóa - Quảng Trị, đã ghi nhận ở khu vực huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị có 92
loài gồm 41 loài Ếch nhái thuộc 6 họ, 1 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có
5 loài là: Leptolalax pelodytoides (Boulenger, 1893); Leptolalax tuberosus Inger,
Orlov and Darevsky, 1999; Ophryophryne hansi Ohler, 2003; Ophryophryne
pachyproctus Kou, 1985; Xenophrys major (Boulenger, 1908). Các tác giả Đoàn

Văn Kiên, Hồ Thu Cúc [12] nghiên cứu thành phần loài ếch nhái (Amphibia) và bò
sát (Reptilia) tại khu vực Lệ Thủy và Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, đã ghi nhận
được 75 loài thuộc 56 giống, 19 họ, 4 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 1
loài là: Xenophrys major (Boulenger, 1908). Các tác giả Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn
Quảng Trường, Hồ Thu Cúc, Đoàn Văn Kiên [40] điều tra bước đầu về thành phần
loài ếch nhái (Amphibia) và bò sát (Reptilia) vùng núi Mẫu Sơn, tỉnh Lạng Sơn,
trong đó có 74 loài thuộc 16 họ, 4 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 4 loài
là: Brachytarsophrys feae (Boulenger, 1887); Leptobrachium chapaense (Bourret,
1937); Leptolalax pelodytoides (Boulenger, 1839; Ophryophryne microstoma
Boulenger, 1903. Nguyễn Quốc Thắng, Nguyễn Ngọc Sang[46] điều tra ếch nhái và
bò sát tại vườn quốc gia Núi Chúa, Ninh Thuận, có 74 loài thuộc 50 giống, 20 họ và
3 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 1 loài là: Xenophrys longipes
(Boulenger, 1886).
Năm 2008, Hoàng Xuân Quang, Hoàng Ngọc Thảo, Andrew Grieser John,
Cao Tiến Trung, Hồ Anh Tuấn, Chu Văn Dũng [32] điều tra nghiên cứu ếch nhái,
bò sát ở khu vực bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, có 2 loài là: Leptobrachium



10
chapaense (Bourret, 1937), Xenophrys major (Boulenger, 1908).
Năm 2009, Ngô Thái Lan, Đỗ Thế Hải [14] khảo sát nghiên cứu thành phần
loài ếch nhái, bò sát ở xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, có 58 loài
ếch nhái và bò sát thuộc 38 giống, 17 họ, 3 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae
có 3 loài là: Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937); Xenophrys major
(Boulenger, 1908); Ophryophryne pachyproctus Kou, 1985. Tác giả Nguyễn Thiên
Tạo [42] khảo sát thành phần loài bò sát, ếch nhái của khu vực rừng núi Pia Oắc,
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, có 29 loài ếch nhái thuộc 7 họ, 3 bộ. Trong đó
họ Cóc bùn Megophryidae có 5 loài là: Leptolalax pelodytoides (Boulenger, 1893);
Leptolalax cf. sungi Lathrop, Murphy, Orlov & Ho, 1998; Leptobrachium

chapaense (Bourret, 1937); Ophryophryne microstoma Boulenger, 1903; Xenophrys
major (Boulenger, 1908). Nguyễn Kim Tiến [49] nghiên cứu thành phần loài lưỡng
cư và bò sát ở một số vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên tỉnh Thanh Hóa, có
49 loài ếch nhái thuộc 20 giống, 7 họ, 1 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có
5 loài là: Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937); Leptolalax pelodytoides
(Boulenger, 1893); Ophryophryne hansi Ohler, 2003; Xenophrys major (Boulenger,
1908); Xenophrys minor (Stejneger, 1926). Các tác giả Đậu Quang Vinh, Hoàng
Ngọc Thảo [52] cũng điều tra sơ bộ các loài ếch nhái và bò sát ở huyện Quỳ Hợp,
Nghệ An.
Năm 2011, Nguyễn Kim Tiến, Nguyễn Thị Dung, Hoàng Thị Ngân, Trương
Như Thọ [50] điều tra nghiên cứu thành phần loài lưỡng cư, bò sát khu bảo tồn
thiên nhiên Pù Hu, tỉnh Thanh Hóa, có 32 loài lưỡng cư thuộc 7 ho, 1 bộ. Trong đó
họ Cóc bùn Megophryidae có 4 loài là: Leptobrachium banae Lathrop, Murphy,
Orlov & Ho, 1988; Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937); Brachytarsophrys
feae (Boulenger, 1887); Xenophrys major (Boulenger, 1908). Các tác giả Lê
Nguyên Ngật, Lê Thị Ly, Hoàng Văn Ngọc [16] khảo sát điều tra lưỡng cư bò sát ở
vùng Tây Bắc Việt Nam, có 157 loài lưỡng cư bò sát thuộc 94 giống, 25 họ, 5 bộ.
Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 4 loài là: Leptobrachium chapaense
(Bourret, 1937); Leptolalax bourreti Dubois, 1983; Leptolalax pelodytoides
(Boulenger, 1893); Xenophrys major (Boulenger, 1908).



11
Năm 2012, Ngô Đắc Chứng, Võ Đình Bá, Cáp Kim Cương điều tra bước đầu
về thành phần loài và đặc điểm phân bố của lưỡng cư, bò sát ở tỉnh Quảng Trị, có
38 loài lưỡng cư thuộc 1 bộ, 7 họ, 20 giống. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có
3 loài là: Xenophrys major (Boulenger, 1908); Xenophrys palpebralespinosa
(Bourret, 1937); Ophryophryne microstoma Boulenger, 1903. Lê Thị Thanh, Đinh
Thị Phương Anh [43] bước đầu khảo sát nghiên cứu về thành phần loài lưỡng cư,

bò sát ở vùng Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, có 29 loài lưỡng cư thuộc 7 họ, 2 bộ.
Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 3 loài là: Leptobrachium xanthospilum
Lathrop, Murphy, Orlov & Ho, 1998; Ophryophryne gerti Ohler, 2003;
Ophryophryne hansi Ohler, 2003. Hoàng Ngọc Thảo, Hoàng Xuân Quang, Cao
Tiến Trung, Nguyễn Thị Lương [45] nghiên cứu khảo sát vùng phân bố mới của các
loài lưỡng cư, bò sát ở khu vực Bắc Trung Bộ, có 35 loài ghi nhận bổ sung phân bố
cho khu vực trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 3 loài là: Brachytarsophrys
intermedia (Smith, 1921); Xenophrys palpebralespinosa (Bourret, 1937);
Xenophrys parva (Bourret, 1893). Các tác giả Hoàng Ngọc Thảo, Hoàng Xuân
Quang, Cao Tiến Trung, Ông Vĩnh An, Nguyễn Thị Lương [44] điều tra nghiên cứu
đa dạng thành phần loài ếch nhái, bò sát ở khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An, có
144 loài ếch nhái bò sát thuộc 24 họ, 5 bộ, bổ sung cho Nghệ An 18 loài, khu vực
Bắc Trung Bộ 9 loài. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 6 loài là:
Leptobrachium chapaense (Bourret, 1937); Leptolalax pelodytoides (Boulenger,
1893); Xenophrys major (Boulenger, 1908); Xenophrys palpebralespinosa (Bourret,
1937); Xenophrys parva (Bourret, 1893); Ophryophryne pachyproctus Kou, 1985.
Năm 2013, Hoàng Văn Chung, Nguyễn Quảng Trường, Phạm Thế Cường,
Nguyễn Thiên Tạo [7] khảo sát đa dạng về thành phần loài bò sát (Reptilia) và ếch
nhái (Amphibia) của vườn quốc gia Kon Ka Kinh, tỉnh Gia Lai ghi nhận có 44 loài
ếch nhái thuộc 7 họ, 2 bộ. Trong đó họ Cóc bùn Megophryidae có 8 loài là:
Brachytarsophrys intermedia (Smith, 1921); Leptobrachium banae Lathrop,
Murphy, Orlov & Ho, 1988; Leptobrachium pullum (Smith, 1921); Leptolalax
applebyi Rowley & Cao, 2009; Leptolalax tuberosus Inger, Orlov and Darevsky,
1999; Ophryophryne hansi Ohler, 2003; Ophryophryne gerti Ohler, 2003;



12
Xenophrys major (Boulenger, 1908).
1.2. Khái quát điều kiện tự nhiên xã hội khu vực nghiên cứu.

1.2.1. Đặc điểm địa hình.
Khu vực Tây Nghệ An có địa hình tương đối đa dạng và phức tạp, chủ yếu là
đồi núi dốc bao gồm các đỉnh núi cao, vùng đồi núi thấp và một phần núi đá vôi.
Các đỉnh núi cao trong vùng thuộc phía Bắc dãy Trường Sơn, là một dải núi trải dài
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam của cánh cung Pù Hoạt với các sống núi bị chia
cắt phức tạp. Trong vùng có nhiều đỉnh núi cao trên 1.000m như Pù Lon (1.447m)
Pù Mát (2357m) nằm ở phần cuối phía Tây Bắc của dãy núi, đỉnh Pù Huống
(1.200m) và nhiều đỉnh cao từ 1.311 - 1.148m. Dải núi chính Pù Lon - Pù Huống -
Pù mát cũng chính là dải núi phân cách các huyện Con Cuông, Kỳ Sơn, Tương
Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp.
Trong vùng cũng thường gặp một số dãy núi đá vôi nằm rải rác thuộc các
huyện Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tân Kỳ là khu
vực chuyển tiếp giữa vùng núi cao với các vùng đồi có độ cao 200 - 300m. Khu vực
đồi núi thấp kéo dài từ các huyện miền núi Anh Sơn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Nghĩa
Đàn xuống các huyện đồng bằng với độ cao trên dưới 200m.
1.2.2. Đặc điểm thuỷ văn.
Sông ngòi: Mạng lưới sông ngòi ở đây phần lớn chảy theo hướng Tây Bắc -
Đông Nam phù hợp với độ dốc và sự chia cắt địa hình. Sông suối ngắn và dốc. Địa
hình chia cắt mạnh và sâu trong khu vực đã tạo nên nhiều dòng suối dốc và hiểm
trở. Mạng suối dày đặc này chính là đầu nguồn của sông Cả và sông Hiếu.
Sông suối trong vùng chủ yếu thuộc hệ thống sông Cả; sông Hiếu là phù lưu
lớn nhất của sông Cả, bắt nguồn từ vùng núi Pù Hoạt ở biên giới Việt - Lào, chảy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, sau đó đổi theo hướng Đông Bắc - Tây Nam từ
khu vực Quỳ Châu và nhập vào sông Cả ở phần nam của tỉnh Nghệ An tạo nên lưu
vực chính sông Cả. Diện tích lưu vực sông Hiếu khoảng 5.340km2, chiếm gần 20%
diện tích lưu vực của hệ thống sông Cả, độ rộng bình quân lưu vực khoảng 32,5 km,
độ cao bình quân lưu vực 300m. Mạng lưới sông suối phát triển không đều do điều




13
kiện địa hình thấp và mưa tương đối ít. Mật độ bình quân toàn lưu vực là
0,71km/km2, một số nơi có mật độ tương đối dày, lên đến 1km/km2, đặc biệt là ở
phần Bắc của lưu vực, do mưa nhiều và địa hình núi cao nên mật độ sông suối đạt
tới 1,02 - 1,28km/km2.
1.2.3. Đặc điểm khí hậu.
Khí hậu Tây Nghệ An mang đặc điểm chung của miền khí hậu Bắc Trung
Bộ, nhưng có tính đặc thù riêng. Khí hậu ở đây không những phân hoá theo độ cao
mà còn phân hoá do ảnh hưởng yếu dần của gió mùa đông bắc ở phía sườn Bắc của
dải núi Pù Mát, Pù Lon - Pù Huống, còn sườn Nam lại chịu ảnh hưởng của vùng
khô hạn điển hình Mường Xén - Kỳ Sơn. Sự mạnh lên của gió mùa Tây nam và sự
suy yếu của gió mùa Đông bắc khi đến đây đã tạo nên những nét riêng khí hậu riêng
cho vùng. Chính các nhân tố này đã tạo nên sự khác biệt: Ở hai triền núi cao trên
1.000m thường xuyên có mây mù bao phủ và độ ẩm cao hơn tại vùng ranh giới chân
núi, điều này ảnh hưởng rõ lên sự phân bố và thành phần các loài sinh vật.
Bảng 1.1. Các chỉ số khí hậu tại khu vực nghiên cứu
Tháng
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
T.B

Nhiệt
độ
16.8
17.8
20.4
24.2
27.3
28.4
28.6
27.6
26.2
23.7
20.6
17.7
23.3
Lượng
mưa
21.2
23.7
30.1
65.1
152.7
170.
4
169.
1
258
355.5
295.
4

63.0
22.0
162.
6
Độ ẩm
87
89
88
86
81
82
80
85
85
87
87
86
86
Số giờ
nắng
2.7
1.7
2.1
4.0
6.6
5.9
6.0
5.1
4.9
4.8

3.6
3.4
4.3
(Theo Nguyễn Khánh Vân và nnk, 2000)
Lưu vực sông Cả có khí hậu nóng và ẩm, cũng chịu ảnh hưởng mạnh của gió
Tây khô nóng và yếu đối với gió mùa Đông bắc. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng
23
0
C, nhiệt độ trung bình tháng I tại Tây Hiếu khoảng 16,2
0
C và tháng VI là 28
0
C.
1.2.4. Dân cư và sự phân bố dân cư.
Nghệ An là địa bàn cư trú của một số dân tộc, trong đó người Kinh chiếm tới
90% số dân cả tỉnh. Ngoài ra còn có một số dân tộc thiểu số cùng sinh sống như
Thái, Thổ, Hmông, Khơ mú tập trung chủ yếu ở các huyện miền núi.



14
Trong khu vực Tây Nghệ An có các huyện Con Cuông, Tương Dương, Kỳ
Sơn, Anh Sơn, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong.
Bảng 1.2: Số liệu dân số các huyện Tây Nghệ An
TT
Tên đơn vị
Diện tích tự
nhiên (km
2
)

Dân số
(Năm2013)
Số phường,
xã, thị trấn
Mật độ
(Người/km
2)

1
Anh Sơn
603,28
101.549
21
168
2
Nghĩa Đàn
617,85
122.990
24
199
3
Quỳ Châu
1.057,35
53.360
12
50
4
Quỳ Hợp
942,21
117.540

21
124
5
Quế Phong
1.890,86
62.727
14
33
6
Con Cuông
1.738,31
64.916
13
37
7
Tương Dương
2.811,29
71.688
18
25
8
Kỳ Sơn
2.094,84
70.061
21
34

Mật độ dân cư cao nhất là huyện Nghĩa Đàn 199 người/km2, Quỳ Hợp là 124
người/km2 tiếp đến là Quỳ Châu 50 người/km2 ở Quế Phong 33 người/km2,
người Thái là cư dân có số lượng lớn nhất trong cộng đồng các dân tộc thiểu số của

vùng, tập trung ở các huyện như Quế Phong (80% dân số của huyện), Quỳ Châu
(74% dân số của huyện) Người Thái ở Nghệ An còn có một số tên gọi khác như
Tày Chiềng, Tày Thanh. Kinh tế của người Thái gắn liền với làm ruộng nước, chăn
nuôi gia súc, gia cầm, làm nghề thủ công với nhiều sản phầm truyền thống mà đặc
trưng là vải thổ cẩm có hoa văn sinh động và nhiều sản phẩm đặc trưng khác.
Bên cạnh đó còn có một số dân tộc khác cùng sinh sống như người Thổ, cư
trú rải rác ở một số huyện như Quỳ Hợp (11% dân số của huyện), Nghĩa Đàn
(11%), Tân Kỳ (10%), Quỳ Châu Người Thổ ở Nghệ An cũng có những tên gọi
khác như Thổ Cát Mộng, Thổ Lâm La (Nghĩa Đàn) hay Thổ Quỳ Hợp (Quỳ Hợp).
Mật độ dân số của Nghệ An không cao, mật độ trung bình của cả tỉnh là 178
người/km2 (2013). Dân cư chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng phía Đông và Đông
nam của tỉnh, trong khi đó ở vùng đồi núi dân cư phân bố rất thưa thớt.




15
CHƯƠNG 2
ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa điểm và thời gian.
2.1.1. Thời gian.
+ Thực địa: Thời gian nghiên cứu từ tháng 11/2012 - 12/2013.
+ Sử dụng và lưu giữ mẫu vật từ tháng 1/2014 - 10/2014.
2.1.2. Địa điểm.
Các điểm khảo sát tiến hành nghiên cứu:
- Khu BTTN Pù Huống: 7/2013.
- Pù Xai Lai Leng.
- Pù Hoạt.



Hình 2.1: Bản đồ Nghệ An




16
Địa điểm nghiên cứu cụ thể:
- Khu vực Pù Huống (huyện Quỳ Hợp).
- Khu vực Pù Xai Lai Leng (huyện Kỳ Sơn).
+ Tuyến Ka Tuyến - biên giới Việt Lào.
+ Tuyến khe Cạn - Pù Xai Lai Leng Lai Leng.
Quá trình xử lý mẫu và tổng hợp tài liệu được thực hiện tại phòng thí nghiệm
từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2014.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Nghiên cứu thực địa.
- Mẫu thu bằng các phương pháp thông thường: bắt bằng tay.
- Thời gian thu mẫu lưỡng cư từ 19 - 24h. Chụp ảnh mẫu trên thực địa và xử lý
mẫu tại chỗ.
- Phỏng vấn người dân địa phương về những loài phổ biến, dễ nhận dạng: gồm
các thông tin về đặc trưng của loài (kích cỡ, màu sắc, đặc tính sinh học) và đặc điểm
nhận dạng có kèm theo phương tiện hỗ trợ (ảnh màu), lựa chọn thông tin đối với
những loài đáng tin cậy.
- Thu thập các dẫn liệu liên quan đến môi trường, sinh cảnh sống:
+ Diện tích vực nước, độ sâu vực nước, độ sâu trung bình của khe suối, vũng
nước nơi thu mẫu. Đặc điểm nền đáy: nền đá cuội, nền đất, nền cát, lá mục. Thành
phần thực vật, động vật thủy sinh khác.
+ Vị trí nơi thu mẫu: rừng, ven khe suối, giữa suối, trên cây, dưới đất, trong nước,
+ Ghi nhiệt độ, độ ẩm, độ cao nơi thu mẫu.
2.2.2. Phương pháp xử lý và bảo quản mẫu.

- Cố định mẫu bằng formalin 5 – 8% hoặc cồn 96
0
sau 24h đến 1 tuần sau
chuyển sang cồn 70
0
.
- Đối với mẫu còn nghi ngờ được lấy mẫu gan trước khi bảo quản mẫu.
- Mẫu được đánh số và bảo quản trong hộp nhựa.
2.2.3. Dụng cụ, hóa chất.
- Hóa chất: formalin 7 – 8%, cồn 96
0
, 70
0
.
- Dụng cụ đo nhiệt độ, độ ẩm, máy định vị GPS.



17
- Máy ảnh.
- Các dụng cụ đo mẫu gồm: thước đo, kẹp mẫu, kính lúp, kính hiển vi
2.2.4. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Sử dụng mẫu vật thu được ở thực địa và mẫu vật cùng số liệu của các tác giả
đi trước (đã xin phép và được quyền sử dụng) gồm: TS. Hoàng Văn Ngọc, NCS.
Đậu Quang Vinh, Th.s Nguyễn Thị Lương.
2.2.4.1. Phân tích hình thái
Phân tích các đặc điểm hình thái phân loại theo Bourret R., 1942[53];
Banikov A.G., 1977; Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Nguyễn Quảng Trường
(2009)[72]; Manthey U. Và Grossmann W., 1997; Đào Văn Tiến, 1977[47]. Các chỉ
tiêu hình thái được đo bằng thước kẹp điện tử có độ chính xác đến 0,01mm.

Các kí hiệu: SVL: Dài thân (từ mút mõm đến khe huyệt). SVW: Rộng thân.
HL: Dài đầu (từ mút mõm đến xương góc hàm). HW: Rộng đầu (bề rộng lớn nhất
của đầu, thường là khoảng cách hai góc sau của hàm). UEW: Rộng mí mắt trên.
IUE: Gian ổ mắt (khoảng cách nơi hẹp nhất giữa hai mí mắt trên). OrbD: Đường
kính ổ mắt (chiều dài lớn nhất của ổ mắt). IN: Gian mũi (khoảng cách bờ trong hai
lỗ mũi). TYD: Dài màng nhĩ (chiều dài nhất lớn của màng nhĩ). ESL: Khoảng cách
từ mõm - mắt. END: Khoảng cách từ mắt - mũi. TED: Khoảng cách từ màng nhĩ -
mắt. FLL: Dài chi trước. FFL: Chiều dài ngón tay I. TFL: Chiều dài ngón tay III.
MKT: Chiều dài củ bàn trong (chi trước). MKTe: Dài củ bàn ngoài (chi trước)FL:
Dài đùi (từ khe huyệt đến khớp gối). TL: Dài ống chân (từ khớp gối đến cuối khớp
ống - cổ chân). FOT: Dài bàn chân. FTL: Dài ngón I chi sau. FFTL: Dài ngón IV
chi sau. MTT: Chiều dài củ bàn trong.

×