Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp và đề xuất các giải pháp ứng phó tại huyện quỳnh lưu, nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 147 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ HỮU SƠN
TÊN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ ĐỀ
XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ TẠI
HUYỆN QUỲNH LƯU, NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
NGHỆ AN, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ HỮU SƠN
TÊN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ ĐỀ
XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ TẠI
HUYỆN QUỲNH LƯU, NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Kim Đường
NGHỆ AN, 2010

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu là của riêng cá nhân tác giả; các số
liệu là trung thực, không sử dụng số liệu của các tác giả khác chưa được công bố;
các kết quả nghiên cứu của tác giả chưa từng được công bố.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.


Vinh, ngày 20 tháng 09 năm 2014
Tác giả
Lê Hữu Sơn
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn Thạc sỹ với đề tài: “Nghiên cứu tác động của BĐKH đến sản
xuất nông nghiệp và đề xuất các giải pháp ứng phó tại huyện Quỳnh Lưu, Nghệ
An” đã được hoàn thành. Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản
nhân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn khoa
học, Thầy giáo PGS. TS Nguyễn Kim Đường là người đã nhiệt tình hướng dẫn,
góp ý, sữa chữa và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ Khoa Nông Lâm Ngư,
Khoa Sau Đại Học, trường Đại học Vinh đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức, tạo điều
kiện và hướng dẫn tôi hoàn thành chương trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ các phòng
ban trong Ủy ban nhân dân Huyện Quỳnh Lưu và bà con các xã Huyện Quỳnh
Lưu – những người đã cung cấp thông tin giúp tôi hoàn thiện luận văn này.
Và cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và
những người luôn động viên, khích lệ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Vinh, ngày 20 tháng 09 năm 2014
Tác giả
Lê Hữu Sơn
ii
MỤC LỤC
1.2.2.1. Các xu hướng của Biến đổi khí hậu tại Việt Nam 17
1.2.3. Chính sách và hành động của chính phủ về Biến đổi khí hậu 31
1.2.3.1. Các chính sách và chương trình chủ yếu về Biến đổi khí hậu 31
1.2.3.2. Các đàm phán quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu 34
a. Những thành tựu 34

b. Những thách thức và các hạn chế 36
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng Phát triển châu Á
BĐKH Biến đổi khí hậu
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐDSH Đa dạng sinh học
GEP Quỹ Môi trường Toàn cầu
HST Hệ sinh thái
LHQ Liên Hợp Quốc
NN và PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NTTS Nuôi trồng thủy sản
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
PRA Đánh giá nông thôn có sự tham gia
PTBV Phát triển bền vững
RNM Rừng ngập mặn
TNMT Tài nguyên môi trường
UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
UNEP Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc
UNFCCC Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu
WB Ngân hàng Thế giới
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
1.2.2.1. Các xu hướng của Biến đổi khí hậu tại Việt Nam 17
1.2.3. Chính sách và hành động của chính phủ về Biến đổi khí hậu 31
1.2.3.1. Các chính sách và chương trình chủ yếu về Biến đổi khí hậu 31
1.2.3.2. Các đàm phán quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu 34
a. Những thành tựu 34
b. Những thách thức và các hạn chế 36
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH

1.2.2.1. Các xu hướng của Biến đổi khí hậu tại Việt Nam 17
1.2.3. Chính sách và hành động của chính phủ về Biến đổi khí hậu 31
1.2.3.1. Các chính sách và chương trình chủ yếu về Biến đổi khí hậu 31
1.2.3.2. Các đàm phán quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu 34
a. Những thành tựu 34
b. Những thách thức và các hạn chế 36
v
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Biến đổi khí hậu (BĐKH) tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu và mực nước
biển dâng, các thiên tai hiện hữu và các hiện tượng khí hậu cực đoan gia tăng ở
nhiều nơi đã được khẳng định là rõ ràng và chưa từng có, đang là mối lo ngại của
các quốc gia trên thế giới. Theo đánh giá của ban liên chính phủ về biến đổi khí
hậu (IPCC – 2007; 3), nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu sẽ tiếp tục
tăng lên nhanh hơn trong thế kỷ 21. Trong đó, Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia bị
ảnh hưởng nặng nề nhất do BĐKH (Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam,
Indonesia); sau đó là Nhật Bản, Ai Cập, Hoa Kỳ, Thái Lan và Philippines.
Theo cảnh báo của WHO và UNEP, nếu mực nước biển dâng cao 1m, Việt
Nam sẽ mất hơn 12% diện tích đất canh tác và trên 65% diện tích rừng ngập mặn, đa
dạng sinh học bị suy giảm, nhiều loại động-thực vật sẽ bị tuyệt chủng hoặc có nguy
cơ bị tuyệt chủng, 25% dân số (ước chừng khoảng 30 triệu người vào thời điểm đó)
sẽ bị mất nơi cư trú, dịch bệnh lan tràn không thể kiểm soát do nhịp sinh học bị thay
đổi… Do vậy, tỷ lệ tử vong và số người nghèo đói sẽ tăng cao.
Quỳnh Lưu là huyện ven biển của Nghệ An - có chiều dài bờ biển và diện
tích đầm hồ khá lớn. Sinh kế của người dân phần lớn là trồng trọt, nuôi trồng và
đánh bắt thủy hải sản nên phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên. Nằm trong sự ảnh
hưởng chung của BĐKH đến các tỉnh – thành phố ven biển miền Trung, nên
Quỳnh Lưu cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt của các hiện tượng BĐKH như: Elnino,
nắng nóng, hạn hán, mưa bão và lũ.
Trong nhiều năm gần đây, sản suất nông-lâm-ngư do thiên tai, khí hậu thời

tiết thay đổi, lũ lụt triền miên nên năng suất và sản lượng không ổn định, cuộc
sống sản xuất thiếu an toàn và thiếu bền vững. Mặt khác, ngoại trừ Thị xã và Thị
trấn có điều kiện về cơ sở hạ tầng khá phát triển; cơ sở hạ tầng của các xã còn lại
kém phát triển, đê điều và rừng ngập mặn tại đây bị xuống cấp khá nghiêm trọng.
Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm đời sống người dân ở đây
còn bấp bênh và khó phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo, nhất là hộ nghèo ở các xã ven
6
biển còn khá cao, khả năng vượt nghèo thấp; đời sống sản xuất của các hộ nông
dân dễ bị ảnh hưởng, rủi ro và tổn thương lớn nhất khi có thiên tai, bão lũ.
Như vậy, Quỳnh Lưu là một huyện có mức độ tổn thương cao và nhạy cảm
đối với những tác động của BĐKH. Trước thực tế đó đòi hỏi phải có những
nghiên cứu, đánh giá các tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp
và trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường khả năng phòng ngừa,
giảm nhẹ, khắc phục và thích nghi với BĐKH cho huyện Quỳnh Lưu.
Cho đến nay đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về BĐKH ở Việt
Nam nói chung và Nghệ An nói riêng, nhưng hầu hết các giải pháp đưa ra đều
chưa được thực hiện đầy đủ hoặc rất khó để thực thi và vì thế các vấn đề về kinh
tế, xã hội, tài nguyên, môi trường càng trở nên bức xúc hơn. Mặt khác, BĐKH là
một vấn đề mới, các phương pháp luận về nghiên cứu đánh giá tác động do ảnh
hưởng của BĐKH ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam đang trong giai đoạn
nghiên cứu. Do vậy, việc tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tác động của
BĐKH đến sản xuất nông nghiệp và đề xuất các giải pháp ứng phó tại huyện
Quỳnh Lưu, Nghệ An” để thực hiện luận văn tốt nghiệp là hết sức cần thiết.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tác động của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp ứng phó với BĐKH tại địa phương.
1.3. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Các biểu hiện và tác động của BĐKH; các hoạt động sản xuất nông nghiệp
của người dân Huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An.

b. Phạm vi nghiên cứu
Các số liệu nghiên cứu được thu thập với mốc thời gian cách 15 năm.
c. Nội dung nghiên cứu
1. Nghiên cứu BĐKH đã, đang và sẽ xảy ra tại địa phương
2. Tìm hiểu các biểu hiện của sự tác động của BĐKH tới sản xuất nông
nghiệp tại địa phương.
7
3. Tìm hiểu các hoạt động thích ứng với BĐKH trong sản xuất nông nghiệp
của địa phương hiện nay
4. Đánh giá các khả năng của địa phương trong ứng phó với BĐKH trong
sản xuất nông nghiệp. (con người, nhận thức, cơ sở vật chất, tài chính,…).
5. Tìm hiểu những hỗ trợ cho địa phương trong ứng phó với BĐKH (Chính
sách, tài chính và kỹ thuật).
6. Đề xuất các biện pháp để ứng phó với BĐKH trong điều kiện của địa
phương
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa các tư liệu về BĐKH, các tác động của
BĐKH đến sản xuất nông nghiệp và khả năng thích ứng của cộng đồng. Cung
cấp các tư liệu khoa học và thực tiễn về tác động của BĐKH đến sản xuất nông
nghiệp và khả năng thích ứng của người dân tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
giúp cho các cơ quan chức năng cũng như người dân có những kế hoạch, biện
pháp thích ứng với BĐKH kịp thời, phù hợp và hiệu quả hơn.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Biến đổi khí hậu
8
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam: “BĐKH là sự thay đổi của
hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại
và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo” [2].

Theo quan điểm của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), BĐKH là sự vận
động bên trong hệ thống khí hậu, do những thay đổi kết cấu hệ thống hoặc trong
mối quan hệ tương tác giữa các thành phần dưới tác động của ngoại lực hoặc do
hoạt động của con người.
Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc
dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập
kỷ hoặc dài hơn. Ví dụ, ấm lên hay lạnh đi. Sự biến đổi về trạng thái khí hậu đó
xảy ra do các quá trình tự nhiên hoặc do con người gây ra đối với các thành phần
khí quyển.
Biến đổi khí hậu mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng
hiện nay, là thách thức nghiêm trọng nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI.
BĐKH đã thực sự tác động đến mọi lĩnh vực, bao gồm tài nguyên thiên nhiên,
môi trường, kinh tế-xã hội và sức khỏe con người. Thiên tai, các hiện tượng thời
tiết cực đoan và các hiện tượng khí hậu cực đoan như là hệ quả của BĐKH hiện
đang hoành hành ngày càng nhiều và khốc liệt ở khắp mọi nơi trên thế giới.
BĐKH tác động trực tiếp tới các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và được coi là
thách thức lớn cho phát triển bền vững.
Thời tiết là trạng thái khí quyển tại một thời điểm và một địa điểm nhất định
được xác định bằng tổ hợp các yếu tố: nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, tốc độ gió, mưa,
mây, . Khí hậu: Đã được Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) định nghĩa là trung
bình theo thời gian của thời tiết (thường là 30 năm)
Khả năng bị tổn thương do tác động của BĐKH là mức độ mà một hệ thống
(tự nhiên, xã hội, kinh tế) có thể bị tổn thương do BĐKH, hoặc không có khả năng
thích ứng với những tác động bất lợi của BĐKH.
Ứng phó với BĐKH là các hoạt động của con người nhằm thích ứng và giảm
nhẹ ảnh hưởng của BĐKH.
9
Thích ứng với BĐKH là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người
đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả năng bị
tổn thương do dao động và biến đối khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng

các cơ hội do nó mang lại.
Giảm nhẹ BĐKH là các hoạt động nhằm giảm mức độ hoặc cường độ phát thải
khí nhà kính.
Nguyên nhân của BĐKH
Biến đổi khí hậu có thể do hai nguyên nhân: các quá trình tự nhiên và sự tác
động của con người. BĐKH xảy ra trong quá khứ là do các nguyên nhân tự nhiên
nhưng BĐKH hiện nay là do con người.
Hình 1.1. Sự gia tăng phát thải khí nhà kính trong thời gian gần đây
(Al Gore, 2006)
Sau cuộc tranh luận kéo dài hơn 30 năm, cho đến nay, các nhà khoa học đã
có sự nhất trí cao và cho rằng trong những thập kỷ gần đây, những hoạt động
phát triển kinh tế-xã hội với nhịp điệu ngày một cao trong nhiều lĩnh vực như
năng lượng, công nghiệp, giao thông, nông-lâm nghiệp và sinh hoạt đã làm tăng
nồng độ các khí gây hiệu ứng nhà kính (N
2
O, CH
4
, H
2
S và nhất là CO
2
) trong khí
quyển, làm Trái đất nóng lên, làm biến đổi hệ thống khí hậu và ảnh hưởng tới
môi trường toàn cầu (Al Gore, 2006)[22].
Tóm lại, nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia
tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác
quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái
biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự BĐKH, Nghị định thư Kyoto
10
nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO

2
, CH
4
,
N
2
O, HFCs, PFCs và SF
6
.
- CO
2
phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là
nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO
2
cũng sinh
ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH
4
sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ
thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N
2
O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là
sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF
6
sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
1.1.2. Biểu hiện chính của BĐKH

Biểu hiện của BĐKH rất phức tạp, bao gồm các biểu hiệu chính như sau:
- Nhiệt độ trung bình, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng lên;
- Lượng mưa thay đổi
- Mực nước biển dâng lên do sự tan băng ở các Cực và các đỉnh núi cao;
- Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng nóng, giá rét, bão,
lũ lụt, hạn hán, . . .) xảy ra với tần suất, độ bất thường và có thể cả cường độ
tăng lên[9].
1.1.3. Tác động của BĐKH
1.1.3.1. Đánh giá chung
BĐKH tác động lên tất cả các thành phần môi trường bao gồm cả các lĩnh
vực của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và sức khỏe con người trên phạm
vi toàn cầu. Tuy nhiên, mức độ tác động của BĐKH có khác nhau: nghiêm trọng ở
các vùng có vĩ độ cao và ít hơn tại các vùng khác, sẽ lớn hơn ở các nước nhiệt đới,
nhất là các nước đang phát triển công nghiệp nhanh ở châu Á. Trong đó, những
người nghèo, những người ít góp phần gây ra BĐKH nhất thì lại phải chịu những
thiệt hại sớm nhất và nghiêm trọng nhất về phát triển con người do BĐKH gây ra
(Crutzen, 2005).
11
Hình 1.2. Dự đoán ảnh hưởng của BĐKH tới các lĩnh vực
theo sự gia tăng của nhiệt độ (Stern, 2007)
Theo dự đoán, nhiều thành phố của các quốc gia ven biển đang đứng trước
nguy cơ bị nước biển nhấn chìm do mực nước biển dâng - hậu quả trực tiếp của sự
tan băng ở Bắc và Nam Cực. Trong số 33 thành phố có quy mô dân số 8 triệu người
vào năm 2015, ít nhất 21 thành phố có nguy cơ cao bị nước biển nhấn chìm toàn bộ
hoặc một phần và khoảng 332 triệu người sống ở vùng ven biển và đất trũng sẽ bị
mất nhà cửa vì ngập lụt.Mức độ rủi ro cao về lãnh thổ bị thu hẹp do nước biển
dâng theo thứ tự là Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam, Indonesia, Nhật
Bản, Ai Cập, Hoa Kỳ, Thái Lan và Philippin.
Nước biển dâng lên còn kèm theo hiện tượng xâm nhập mặn vào sâu hơn
trong nội địa và sự nhiễm mặn của nước ngầm, tác động xấu tới sản xuất nông

nghiệp và tài nguyên nước ngọt.
Tài nguyên nước và sản xuất nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Theo dự đoán, đến năm 2080, sẽ có thêm khoảng 1,8 tỷ người phải đối mặt với
sự khan hiếm nước, khoảng 600 triệu người sẽ phải đối mặt với nạn suy dinh
dưỡng do nguy cơ năng suất trong sản xuất nông nghiệp giảm.
Bên cạnh đó còn có khuynh hướng làm giảm chất lượng nước, sản lượng
sinh học và số lượng các loài động, thực vật trong các hệ sinh thái nước ngọt,
làm gia tăng bệnh tật, nhất là các bệnh mùa hè do vectơ truyền (IPCC, 1998).
Trong thời gian 20÷25 năm trở lại đây, có thêm khoảng 30 bệnh mới xuất hiện.
Tỷ lệ bệnh nhân, tỷ lệ tử vong của nhiều bệnh truyền nhiễm gia tăng, trong đó sẽ
12
có thêm khoảng 400 triệu người phải đối mặt với nguy cơ bị bệnh sốt rét (Al
Gore, 2006, Stern, 2007)[22].
Số lượng và tổn thất do thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra tăng
liên tục trong những thập kỷ vừa qua. Theo số liệu thống kê, thiệt hại về kinh tế do
thay đổi thời tiết và lũ lụt đã tăng gấp 10 lần trong vòng 50 năm qua. Số nạn nhân của
lũ lụt do ảnh hưởng của BĐKH trong 5 năm 1983-1987 là 31 triệu người, tăng lên đến
130 triệu người trong 5 năm của thập kỷ sau 1993-1997 (WWC, 2003; Hotz, 2006).
Riêng cơn bão Mitch (1999) đã làm chết 11.000 ở Trung Mỹ; cơn bão Katrina (2005)
đã làm chết hơn 1.800 người ở hai bang ven biển phía Nam của Hoa Kỳ và gây tổn
thất lên tới 300 tỷ USD.
Bão Katrina ở miền nam nước Mỹ năm 2005 gây thiệt hại 108 tỷ USD và
giết chết khoảng 1.200 người. Cơn bão có tên đầu tiên của năm 2008 tại khu
vực Bắc Ấn Độ Dương, bão Nargis tại đồng bằng châu thổ Irrawaddy,
Myanma đã làm hơn 60.000 người chết (dự đoán có thể lên tới 100.000
người), 1.400 người bị thương và 37.000 người mất tích. Gần đây, Siêu bão
Sandy đã quét qua bờ Đông nước Mỹ đem theo mưa lớn, gió to và nước biển
dâng cao có nơi tới 4 mét, tràn vào hệ thống tàu điện ngầm tại thành phố New
York, làm một trạm điện bị phát nổ, hỏa hoạn cũng đã thiêu rụi 50 căn ngôi
nhà. Từ 50 đến 60 triệu người dân Mỹ bị ảnh hưởng của bão, trong đó hơn 1

triệu người ở các vùng đất thấp hoặc ven biển đã phải sơ tán. Giao thông công
cộng đã bị tê liệt ở nhiều bang. Theo phân tích của công ty IHS Global
Insight, với mức thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 20 tỷ USD cộng với 10
đến 30 tỷ USD thiệt hại về kinh doanh làm ăn, bão Sandy có thể đi vào lịch sử
là cơn bão gây thiệt hại nhất cho nước Mỹ.
Theo Nicolas Stern (2007)-nguyên chuyên gia kinh tế hàng đầu của Ngân
hàng Thế giới, thì trong vòng 10 năm tới, chi phí thiệt hại do BĐKH gây ra
cho toàn thế giới ước tính khoảng 7.000 tỷ USD; nếu chúng ta không làm gì
để ứng phó thì thiệt hại mỗi năm sẽ chiếm khoảng 5÷20% GDP, còn nếu
chúng ta có những ứng phó tích cực để ổn định khí nhà kính ở mức 550 ppm
tới năm 2030 thì chi phí chỉ còn khoảng 1% GDP.
13
Hình 1.3. Sự gia tăng số lượng và thiệt hại do thiên tai, các hiện tượng
thời tiết cực đoan trong 4 thập kỷ vừa qua (Nicolas Stern (2007)
1.1.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu
a) Tác động đến hệ vật lý
Từ 1970 đến nay, có thể do tác động của biến đổi về nhiệt độ toàn cầu đã
gây nên biến đổi sau đây đến hệ vật lý:
- Gia tăng và mở rộng các hồ băng.
- Gia tăng phần đất nện trên các khu vực băng vĩnh cửu và - tuyết lở ở các
vùng núi
- Gia tăng dòng chảy và dòng chảy sớm đạt đỉnh trên các dòng sông băng
vào mùa xuân
- Các sông, hồ nóng lên và do đó thay đổi cơ chế nhiệt và cả chất lượng nước
b) Tác động đến hệ sinh thái
Do tác động của biến đổi khí hậu hệ sinh thái có những biến đổi sau đây:
Chỉ thị vật hậu mùa xuân đến sớm hơn.
Lục hóa trong mùa xuân đến sớm hơn.
Gia tăng các quần cư động vật trôi nổi trên các biển vĩ độ cao và các hồ trên cao.
Các loài cá di trú sớm hơn trên các sông.

Với mức tăng nhiệt độ 1,5÷2,5
0
C dự kiến có những biến đổi phổ biến về cấu
trúc và chức năng của các loài di trú sinh thái các đới địa lý cùng với những hậu
quả tiêu cực khác.
Quá trình a xít hóa đại dương chắc chắn tác động tiêu cực đến tổ chức và
cấu trúc của các rặng san hô.
c) Một số tác động khác
14
- Nồng độ CO
2
trong khí quyển tăng lên dẫn đến độ a xít hóa của đại dương
tăng lên. Độ pH trung bình của nước biển gần mặt giảm đi 0,1 đơn vị kể từ thời
kỳ tiền công nghiệp.
- Nhiệt độ tăng ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nông-lâm nghiệp ở các vĩ
độ cao và các vấn đề chăm sóc y tế châu Âu.
- Nước biển dâng tác động đến vùng đất ngập nước, rừng ngập mặn và gây
ra ngập lụt bờ biển trên một số khu vực.
1.1.3.3. Tác động của biến đổi khí hậu đến các lĩnh vực
a) Tác động đến sản xuất lương thực
- Năng suất một số cây lương thực dự kiến tăng nhẹ trên các vĩ độ cao, vĩ độ
trung bình với nhiệt độ tăng 1÷3
0
C
- Trên các vĩ độ thấp, đặc biệt các khu vực nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ
tăng 1÷2
0
C, năng suất lương thực dự kiến giảm đi.
b) Tác động đến đới bờ biển
- Đới bờ biển chịu nhiều rủi ro hơn các đới khác do nạn xói lở. Hiệu ứng

này được khuếch trương khi gia tăng các áp lực nhân sinh khác.
- Hàng năm, nhiều triệu dân chịu ngập lụt do nước biển dâng, nhất là những
vùng thấp đông dân trên các châu thổ của châu Á, châu Phi và các đảo nhỏ.
c) Tác động đến công nghiệp và cư dân
- Nhiều khu công nghiệp, khu cư dân ven biển trên châu thổ các sông đặc
biệt nhạy cảm với sự gia tăng thời tiết cực đoan do BĐKH.
- Nhiều cộng đồng nghèo, đặc biệt ở những vùng nhiều thiên tai, các hiện
tượng thời tiết cực đoan, có thể gặp nhiều rủi ro và tổn thất nghiêm trọng.
d) Tác động đến sức khỏe
Tình trạng sức khỏe của hàng triệu dân sa sút, thậm chí sa sút nghiêm trọng.
Biến đổi khí hậu tuy mang lại một vài lợi ích cho một số vùng ôn đới, chẳng hạn
giảm bớt tử vong do lạnh, song phổ biến vẫn là ảnh hưởng tiêu cực, do nhiệt độ tăng lên.
e) Tác động đến nguồn nước
- Tác động của biến đổi khí hậu đến nguồn nước là nghiêm trọng nhất, xét
theo từng khu vực cũng như từng lưu vực.
15
- Trên qui mô toàn cầu, biến đổi khí hậu khuếch đại nguy cơ thiếu nước.
Trên qui mô khu vực, BĐKH dẫn đến tổn thất nước do băng tan và giảm lớp
tuyết phủ.
- Biến đổi nhiệt độ và lượng mưa dẫn tới những biến đổi dòng chảy.
Dòng chảy giảm 10÷40 % vào giữa thế kỷ ở các vùng vĩ độ cao và nhiệt đới
ẩm ướt, bao gồm những vùng đông dân ở Đông Á, Đông Nam Á và giảm
10÷30 % ở các khu vực khô ráo vĩ độ trung bình và nhiệt đới do lượng mưa
giảm và cường độ bốc thoát hơi tăng. Diện tích các vùng hạn hán tăng lên, tác
động đến nhiều lĩnh vực liên quan: Nông nghiệp, cung cấp nước, sản xuất và
sức khỏe.
- Sẽ có sự gia tăng đáng kể trong tương lai về các tai biến do mưa nhiều
trên một số khu vực, kể cả những khu vực được dự kiến là lượng mưa trung
bình giảm. Nguy cơ lụt lội gia tăng chắc chắn là thách thức đối với các vấn đề
xã hội, hạ tầng cơ sở và chất lượng nước. Có đến 20 % dân cư phải sống ở

những vùng lụt lội gia tăng vào thập kỷ 2080. Chắc chắn sự gia tăng về tần số
và mức độ nghiêm trọng của lũ lụt cũng như hạn hán sẽ tác động tiêu cực đến
sự phát triển bền vững.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình trạng Biến đổi khí hậu toàn cầu, xu hướng trong thời gian
qua và tình hình hiện nay
Nhiệt độ trung bình của Trái đất hiện nay đã tăng 0,74
o
C, mực nước biển tăng
khoảng 20 cm so với năm 1850, cao nhất trong khoảng 10.000 năm qua. Thiên tai,
các hiện tượng thời tiết cực đoan và các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ,
hạn hán… đang xảy ra với cường độ, tần suất, độ bất thường và độ khốc liệt ngày
càng gia tăng[9].
16
Hình 1.4. BĐKH tác động tới mọi vùng, miền trên phạm vi toàn cầu
(Nguồn: Trương Quang Học (chủ biên), 2012. Việt nam, thiên nhiên,
môi trường và phát triển bền vững)
1.2.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
1.2.2.1. Các xu hướng của Biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Các số liệu khoa học đã cho thấy rằng Việt Nam là quốc gia đặc biệt dễ bị tổn
thương bởi các ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH (UN Vietnam, 2009). Để ứng phó
một cách phù hợp với những ảnh hưởng đó, điều quan trọng là phải hiểu được tình
hình BĐKH tại Việt Nam trong một quãng thời gian dài, từ quá khứ đến hiện tại và
tương lai.
BĐKH ngày càng hiện hữu rõ nét tại Việt Nam. Biến đổi khí hậu, mà
biểu hiện của nó là sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng, là một trong những
thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21. Sự tăng lên của nhiệt độ trung
bình, lượng mưa, mực nước biển và các hiện tượng khí hậu cực đoan khác đang
ngày càng rõ rệt tại Việt Nam.
Nhiệt độ đã liên tục tăng lên. Trong quãng thời gian 1900÷2000, mỗi thập

kỷ nhiệt độ trung bình năm lại tăng 0,1
0
C. Mùa hè đang trở nên nóng hơn với
nhiệt độ trung bình tăng khoảng 0.1÷0.3
0
C mỗi thập kỷ (UNDP, 2007). Nhiệt độ
17
trung bình sẽ tăng nhanh hơn ở miền Bắc so với ở miền Nam; mùa đông thì nhiệt
độ trung bình sẽ tăng nhanh hơn và tăng nhiều hơn so với mùa hè (MONRE,
2009). Số liệu trên cho thấy xu hướng ấm nóng lên của Việt Nam. Trong vòng 70
năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0.5
o
C[4],[25].
Lượng mưa trung bình năm trong mùa mưa đã tăng lên, và sẽ tiếp tục
tăng, trong khi lượng mưa mùa khô được dự đoán là sẽ giảm xuống. Theo
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), những thay đổi về lượng mưa là khá phức
tạp và đặc thù theo mùa và theo khu vực. Lượng mưa trung bình tháng đã giảm
xuống trên khắp phạm vi cả nước trong tháng 7 và tháng 8 (tương ứng mùa khô)
và tăng lên trong khoảng từ tháng 9 đến tháng 11 (mùa mưa). Sự biến đổi về
lượng mưa cũng không giống nhau tại các vùng: lượng mưa trung bình năm đã
giảm ở miền Bắc trong khi lại tăng lên ở miền Nam[4].
Số lượng các đợt không khí lạnh đã giảm đáng kể trong vòng 2 thập kỷ
qua. Trong thời kỳ 1994÷2007, mỗi năm có khoảng 15÷16 đợt không khí lạnh,
tương đương 56% giá trị trung bình của nhiều năm trước đây. Sự bất thường của
không khí lạnh hiện nay còn dẫn đến những đợt rét đậm rét hại khủng khiếp như
đợt lạnh kéo dài đến 38 ngày liên tiếp trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008. Điều
này đã gây thiệt hại đáng kể đến sản xuất nông nghiệp[26].
Trạm đo Hà Nội
18
Trạm đo Đà Nẵng

Trạm đo Tân Sơn Nhất
Hình 1.5. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm giai đoạn 1930÷2000
(Viện CLCSMT, 2009)
Hình 1.6. Mực nước biển tăng khoảng 20 cm trong vòng 50 năm qua
(Bộ TNMT, 2009)
19
Hình thái bão đang thay đổi và bão với cường độ lớn đang xuất hiện ngày
càng nhiều ở Việt Nam. Số lượng các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam đã tăng lên
trong khoảng những năm 1950 và những năm 1980 song lại giảm đáng kể trong các
năm thập niên 90 của thế kỷ trước (UNDP, 2007). Tháng có nhiều bão nhất đã
chuyển dịch từ tháng 8 vào những năm 1950 đến tháng 11 vào những năm 1990.
Đường đi của bão đã dịch chuyển dần xuống phía nam và rất nhiều cơn bão có
đường đi bất thường (Bộ TNMT, 2003)[2],[25].
Áp thấp nhiệt đới đã, đang và sẽ xuất hiện thường xuyên hơn, với cường
độ mạnh hơn tại Việt Nam. Người ta dự toán rằng bão và áp thấp nhiệt đới với tốc
độ gió lớn sẽ xuất hiện nhiều hơn và kéo dài thời gian lâu hơn. Các cơn bão tần suất
30 năm mới xảy ra một lần thì nay có thể sẽ xuất hiện với tần suất nhanh hơn,
khoảng 10 năm một lần (Văn phòng Chính phủ và Bộ TNMT, 2009).
Một số nghiên cứu đã chứng minh mực nước biển dâng lên tại Việt
Nam. Mực nước biển đã dâng lên khoảng 20cm trong giai đoạn 1958÷2007 (Bộ
TNMT, 2009) và đang đang lên với tốc độ khoảng 3mm mỗi năm trong giai đoạn
1993÷2008. Điều này phù hợp với xu hướng chung trên toàn cầu. Xói lở bờ biển
cũng đã xảy ra, ví dụ như tại Huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau đã bị xói lở 600 ha
đất, có nơi lở mất dải đất dài tới 200m (UNDP, 2007)[25].
Kịch bản biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Năm 2011, kịch bản BĐKH và nước biển dâng tại Việt Nam được ban hành
lần thứ 2 ( Bộ TN & MT, 2011)[5].
Nhiệt độ trung bình năm (dT vào 2100 so với 1980÷1999)
Kịch bản phát thải trung bình: Nhiệt độ tăng từ 1,9÷3,1
0

C ở hầu khắp diện
tích cả nước, nơi có mức tăng cao nhất là khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị với
mức tăng trên 3,1
0
C. Một phần diện tích Tây Nguyên và Tây Nam Bộ có mức
tăng thấp nhất, từ 1,6÷1,9
0
C.
Nhiệt độ cực trị năm (dT vào 2100 so với 1980÷1999)
Kịch bản trung bình: Tm trung bình tăng 2,2÷3,0
0
C, trong khi đó T
0
C trung
bình tăng 2,2÷3,5
0
C. Khu vực Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Tây
Nguyên là những nơi có nhiệt độ cực trị tăng nhanh hơn so với những nơi khác
của nước ta. Số ngày nắng nóng tăng 10÷20 ngày trên phần lớn diện tích cả
nước, khu vực núi phía Bắc và Tây Nguyên có mức tăng ít hơn 5÷10 ngày.
20
Lượng mưa mùa (dR vào 2100 so với 1980÷1999)
Kịch bản phát thải trung bình:
- Mùa đông: Lượng mưa tăng ở phía Bắc và giảm ở phía Nam.
- Mùa xuân: Lượng mưa giảm trên phạm vi cả nước
- Mùa hè: Lượng mưa tăng nhiều ở phía Bắc, tăng ít ở phía Nam
- Mùa thu: Lượng mưa tăng ít ở Bắc Bộ và tăng nhiều hơn từu Nghệ An
trửo vào, đặc biệt là ở khu vực Nam Trung Bộ
Mức tăng phổ biến của lượng mưa năm trên lãnh thổ Việt Nam từ từ 2÷7%.
Tây Nguyên là khu vực có mức tăng thấp hơn so với các khu vực khác trên cả

nước, với mức tăng khoảng từ dưới 1 đến gần 3%. Ở một vài nơi thuộc ven biển
Trung Bộ có lượng mưa năm tăng gần 10%.
Lượng mưa ngày lớn nhất ở Bắc Bộ có thể tăng khoảng 50% so với thời kỳ
1980-1999 và khoảng 20% ở Bắc Trung Bộ. Ngược lại, lượng mưa ngày lớn nhất
giảm ở khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, với mức giảm vào
khoảng 10÷30%. Tuy nhiên, ở các khu vực khác nhau lại có thể xuất hiện lượng
mưa ngày dị thường với lượng mưa gấp đôi so với kỷ lục hiện nay.
Mực nước biển dâng (dR vào 2100 so với 1980÷1999)
Kịch bản phát thải thấp: Mực nước biển dâng cao nhất ở khu vực từ Cà
Mau đến Kiên Giang (54÷72 cm); Thấp nhất ở khu vực Móng Cái (42÷57 cm).
Trung bình toàn Việt Nam: 49÷64 cm.
Kịch bản phát thải trung bình: Mực nước biển dâng cao nhất ở khu vực từ
Cà Mau đến Kiên Giang (62÷82 cm); Thấp nhất ở khu vực Móng Cái (49÷64
cm). Trung bình toàn Việt Nam: 57÷73 cm.
Kịch bản phát thải cao: Mực nước biển dâng cao nhất ở khu vực từ Cà Mau
đến Kiên Giang (85-105 cm); Thấp nhất ở khu vực Móng Cái (66÷85 cm). Trung
bình toàn Việt Nam: 78÷95 cm.
1.2.2.2. Tác động và hậu quả của BĐKH tại Việt Nam
Cũng giống như bức tranh chung trên toàn cầu, ở Việt Nam, trong khoảng
50 năm qua, nhiệt độ trung bình hàng năm tăng khoảng 0,5
o
C, mực nước biển đã
dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng El-Nino, La-Nina ngày càng tác động mạnh mẽ
đến Việt Nam. BĐKH thực sự đã làm cho các thiên tai, các hiện tượng thời tiết
cực đoan, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt (Bộ TNMT, 2003)[2].
21
a. Đánh giá chung
Việt Nam, theo dự đoán, là một trong số ít nước sẽ phải chịu hậu quả tác
động nặng nề nhất của BĐKH.
Mực nước biển dâng (dR vào 2100 so với 1980÷1999)

Bảng 1: Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải thấp (cm)
Bảng 2: Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải trung bình (cm)
Bảng 3: Mức nước biển dâng theo kịch bản phát thải cao (cm)
(Nguồn: Bộ TN & MT, 2011)
Đối với nước ta, mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp
rộng lớn-các hệ sinh thái đất ngập nước của các đồng bằng lớn nhất cả nước–
nơi ở của các cộng đồng dân cư lâu đời, cái nôi của nền văn minh lúa nuớc,
vùng có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất và các sinh cảnh tự nhiên
của nhiều loài bản địa bao gồm cả các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,
khu dự trữ sinh quyển.
22

×