Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Người đàn bà trong tiểu thuyết của mạc ngôn (qua đàn hương hình, báu vật của đời và rừng xanh lá đỏ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.53 KB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


NGUYỄN THÁI BÌNH

NGƯỜI ĐÀN BÀ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MẠC NGÔN
(QUA ĐÀN HƯƠNG HÌNH, BÁU VẬT CỦA ĐỜI
VÀ RỪNG XANH LÁ ĐỎ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THÁI BÌNH

NGƯỜI ĐÀN BÀ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MẠC NGÔN
(QUA ĐÀN HƯƠNG HÌNH, BÁU VẬT CỦA ĐỜI
VÀ RỪNG XANH LÁ ĐỎ)
Chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 60.22.01.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THANH NGA
NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 5


3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát 10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Cấu trúc của luận văn 11
Chương 1 TIỂU THUYẾT MẠC NGÔN TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYÊT TRUNG
QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI 12
1.1. Một số vấn đề của tiểu thuyết Trung Quốc đương đại 12
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết 12
1.1.2. Bối cảnh xã hội - thẩm mĩ của tiểu thuyết Trung Quốc đương đại 15
1.1.3. Một số thành tựu cơ bản của tiểu thuyết Trung Quốc đương đại 17
1.2 Mạc Ngôn, một tác giả xuất sắc của tiểu thuyết Trung Quốc đương đại 25
1.2.1. Mấy nét về cuộc đời Mạc Ngôn 25
1.2.2. Những nét chính trong văn nghiệp của Mạc Ngôn 27
1.2.3. Tiểu thuyết - một thể loại quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Mạc Ngôn
28
1.3. Người đàn bà, một nhân vật quan trọng trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn 33
1.3.1. Những cảm hứng cơ bản trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn 33
1.3.2. Nhìn chung về người đàn bà trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn (qua Đàn hương
hình, Báu vật của đời và Rừng xanh lá đỏ) 43
Chương 2 NỘI DUNG THẨM MĨ CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG TIỂU
THUYẾT MẠC NGÔN 47
2.1. Người đàn bà - một biểu tượng văn hoá 47
2.1.1. Biểu tượng của văn hoá phồn thực 47
2.1.2. Biểu tượng của thân phận bị áp bức 51
2.1.3. Biểu tượng của nguyên lí mẹ 55
2.2. Người đàn bà - hiện thân của những nỗi thống khổ ở đời 57
2.2.1. Bi kich giữa xã hội 57
2.2.2. Bi kịch trong gia đình 59
2.2.3. Bi kịch trong chính mình 62
2.3. Người đàn bà với những khát vọng mãnh liệt 68

2.3.1. Khát vọng hướng đến cái chân - thiện - mĩ 68
2.3.2. Khát vọng vượt thoát những định kiến và số phận 72
2.3.3. Khát vọng bản năng 77
Chương 3 NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG TIỂU
THUYẾT MẠC NGÔN 94
3.1. Nghệ thuật thể hiện hình tượng người đàn bà thể hiện trong tổ chức cốt truyện 94
3.1.1. Tổ chức cốt truyện theo sự kiện 94
3.1.2. Cốt truyện theo mạch vận động của tâm lí 98
3.1.3. Cốt truyện mang màu sắc huyền thoại 105
3.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống 107
3.2.1. Đặt nhân vật vào tình huống tự nhận thức 107
3.2.2. Đặt nhân vật vào tình huống bi đát 110
3.3. Nghệ thuật miêu tả chi tiết 112
3.3.1. Chi tiết gợi dục 112
3.3.2. Chi tiết huyền thoại 115
KẾT LUẬN 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Mạc ngôn là một tác giả lớn của văn học Trung Quốc, cũng như văn
học thế giới đương đại, và là một nhà văn quen thuộc với với bạn đọc Việt Nam
trong mấy thập kỉ nay. Tìm hiểu sáng tác của nhà văn này không chỉ có ý nghĩa
trong việc nhận diện giá trị các sáng tác của một tác giả cụ thể, mà còn góp phần
không nhỏ vào việc nghiên cứu văn học Trung Quốc ở Việt Nam - nền văn học
của một quốc gia có mối quan hệ sâu sắc.
1.2. Trong các tiểu thuyết của Mạc Ngôn, các nhân vật nữ nói chung và
nhân vật người đàn bà chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Có thể nói đây là
một loại nhân vật xuyên suốt, thể hiện một cách khá tập trung cái nhìn của Mạc
Ngôn về thế giới và góp phần không nhỏ tạo nên đặc sắc tiểu thuyết của nhà văn.

Nghiên cứu nhân vật người đàn bà trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn là góp phần nhận
diện một khía cạnh hết sức lí thú và đặc sắc trong tiểu thuyết của nhà văn.
1.3. Trong văn hoá - văn học Trung Quốc và văn hoá - văn học Việt
Nam, cách quan niệm, nhìn nhận người phụ nữ có nhiều điểm tương đồng do sự
giao thoa, ảnh hưởng của các vấn đề văn hoá, tư tưởng và cả văn học. Tìm hiểu
nhân vật người đàn bà trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn là góp phần hiểu thêm
nhân vật đàn bà trong văn học Việt Nam
2. Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết Mạc Ngôn là những tiểu thuyết đương đại đang tạo được sức
hút mạnh mẽ đối với độc giả và giới nghiên cứu bởi tính hiện thực và những nét
đặc sắc nghệ thuật của nó. Là những tác phẩm đương đại nhưng số lượng những
bài nghiên cứu về Mạc Ngôn và tác phẩm của ông không phải là ít, đặc biệt là
mấy năm gần đây, khi Mạc Ngôn trở thành một hiện tượng văn học đáng quan
tâm cùng với Giải Nobel danh giá. Tuy nhiên những bài nghiên cứu ấy cũng chỉ
tiếp cận tiểu thuyết Mạc Ngôn, đặc biệt là 3 tác phẩm Đàn hương hình, Báu vật
5
của đời và Rừng xanh lá đỏ dưới góc độ xã hội hoặc xoay quanh các yếu tố lịch
sử, chính trị…mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về việc xây dựng
hình tượng nhân vật ở 3 tác phẩm này một cách cụ thể và cặn kẽ.
2.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc, Nhật và Đức đã đứng dưới góc độ xã
hội hoặc dựa trên các yếu tố lịch sử… để đánh giá về nội dung và hình tượng
nghệ thuật của tiểu thuyết Mạc Ngôn, đặc biệt là 3 tác phẩm trên. Từ quan điểm
xuất phát đó, họ chỉ ra những điểm tiến bộ và hạn chế của nhà văn.
Có thể chia làm 2 nhóm như sau:
Thứ nhất: Nhóm các nhà nghiên cứu Trung Quốc đứng trên phương diện
chính trị đã lên tiếng bài trừ 3 tác phẩm ngay từ khi 3 tác phẩm này được xuất
bản tại Trung Quốc (Tác gia Xuất bản xã (9/1995) với lí do tác phẩm đã đi vào
“vùng cấm” của văn học (Mạc Ngôn và những lời tự bạch, 2004). Nhà phê bình
Vương Cán phê phán Mạc Ngôn có tư tưởng chống lại quy phạm truyền thống. Hạ

Thiệu Tuấn, Phan Khải Hùng thừa nhận sức mạnh tưởng tượng của Mạc Ngôn rất
phong phú, kì lạ nhưng ngòi bút của ông nhiều khi không giữ được mực thước.
Thứ hai: Nhóm các nhà văn nghiên cứu dưới góc độ xã hội để tìm ra
những nét độc đáo trong 3 tác phẩm này. Trong các bài viết này, họ đã chỉ ra
những sự sáng tạo trong việc tìm ra một thủ pháp lạ hoá độc đáo, sáng tạo
những huyền thoại mới bên cạnh những huyền thoại cổ xưa. Có người lại tìm sự
ảnh hưởng của văn học Phương tây và Mĩ la tinh đối với Mạc Ngôn. Từ đây, họ
khẳng định “sự trở về và vượt lên” dân gian, dân tộc, và vượt lên đẳng cấp thế
giới của tiểu thuyết Mạc Ngôn. Tiêu biểu cho quan điểm này là ý kiến của Chu
Ân, Trương Thành. Bản thân tác giả Mạc Ngôn cũng đã giãi bày về việc viết
văn trong cuốn “Tự bạch” của mình.
2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Nhà văn Mạc Ngôn đươc độc giả Việt Nam biết nhiều khi Báu vật của
đời được dịch giả Trần Đình Hiến dịch và xuất bản tháng 2 năm 2001. các nhà
6
nghiên cứu Việt Nam cũng dựa trên nhiều góc độ để đưa ra những quan điểm,
những nhận xét riêng của mình về 3 tiểu thuyết này.
Với Báu vật của đời, Nguyễn Khắc Phê đào sâu vào thủ pháp lạ hoá của
Mạc Ngôn bằng cái nhìn tổng quát toàn bộ những tác phẩm đã được dich sang
tiếng Việt (Tài phù phép của Mạc Ngôn, báo Tiền Phong, online). Trong bài “sự
sinh, sự chết, sự sống”: Đọc Báu vật của đời của Mạc Ngôn đăng trên trang
Tanviet.net (4/8/2005), Phạm Xuân Nguyên đã tóm lược những điểm chính trong
Báu vật của đời và đưa ra những nhận định về tác giả và tác phẩm. Có người lại
dựa vào Báu vật của đời để tìm ra sự sáng tạo của Mạc Ngôn trong việc đưa hơi
thở hiện đại vào đề tài lịch sử (Vương Trí Nhàn, Lê Huy Tiêu, Trần Trung Hỷ).
Trong tiểu luận “Một số vấn đề văn học Trung Quốc đương đại”( 2007), PGS Hồ
Sĩ Hiệp cũng đã điểm qua những nét đặc sắc của Mạc Ngôn thông qua những tác
phẩm đã được dịch. Bài viết đã chỉ ra sự sáng tạo của Mạc Ngôn trong tiểu
thuyết từ những tác phẩm đầu tiên. Năm 2012, Nguyễn Thị Tinh Thy - Giảng
viên Đại học Huế đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài: Nghệ thuật tự

sự trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. Trên Tạp chí sáng tác nghiên cứu phê bình văn
hoá, văn học nghệ thuật. Số 169, trên cơ sở khảo sát, thống kê một cách hệ
thống tiểu thuyết Mạc Ngôn, luận án đã đi vào ba phương diện cơ bản trong
tổ chức tự sự của Mạc Ngôn trong tiểu thuyết: người kể chuyện và điểm nhìn
tự sự; nghệ thuật tổ chức thời gian và kết cấu tự sự; nghệ thuật kiến tạo ngôn
ngữ và giọng điệu tự sự. Từ đó, tác giả luận án đã chỉ ra những thành tựu và
hạn chế của nghệ thuật tiểu thuyết cũng như vị trí tiên phong của Mạc Ngôn
trong dòng tiểu thuyết đương đại Trung Quốc, đồng thời xác định phong cách
“tự sự kiểu Mạc Ngôn”. Theo tác giả, đó là phong cách “có sự kết hợp giữa
đặc trưng tự sự cực hạn và đặc trưng tự sự hậu hiện đại của văn học Trung
Quốc”. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu của đề tài, tác giả luận án cũng
chưa chỉ ra được một cách hệ thống sự kết hợp ấy là như thế nào, cũng giảng
viên này đã nói về yếu tố kì ảo hoá ngôn ngữ miêu tả cảm giác trong Báu vật của
đời, Đàn hương hình và Rừng xanh lá đỏ của Mạc Ngôn.
7
Đã có nhiều bài viêt, nhiều bài nghiên cứu về Mạc Ngôn và tiểu thuyết
của ông:
Lê Huy Tiêu trong bài viết: Mạc Ngôn và Đàn hương hình ( Văn nghệ số
27/2003) đã đánh giá cuốn tiểu thuyết này ở góc nhìn tự thuật. Tác giả cho rằng:
“Cái độc đáo của Đàn hương hình thể hiện ở ngôn ngữ tự thuật. Ngôn ngữ của
người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật thường xen lẫn, đổi chỗ cho nhau làm
cho trang viết sinh động” [80]. Bài viết đưa ra cái nhìn khá đầy đủ những yếu tố
làm nên nghệ thuât, tuy nhiên nó chỉ ở mức độ khái quát.
Nhà nghiên cứu Lí Kiến Quân cho rằng: Báu vật của đời là “Phiến diện,
hẹp hòi, tình cảm uỷ mị, tiêu trầm, không lấy quan điểm duy vật để nhìn lịch
sử”. Còn Đàn hương hình bị cho là “Chịu ảnh hưởng bởi khuynh hướng thưởng
thức hành vi tàn ác của truyền thống” [64].
Hồ Sĩ Hiệp lại có những nhận xét tỏ ra lạc quan hơn với bài viết Tiểu
thuyết Mạc Ngôn với độc giả Việt Nam: “Ngòi bút miêu tả của Mạc Ngôn trong
Báu vật của đời tỉnh táo và lạnh lùng. Mặc dù có một số đoạn rơi vào yếu tố tự

nhiên sắc dục nhưng toát lên trong toàn bộ tác phẩm vẫn là cái nhìn hiện thực và
thái độ xây dựng của tác giả”.
Gần đây, đã có nhiều khoá luận, luận văn tốt nghiệp từ bậc Cử nhân đến
Thạc sĩ ở một số trường Đại học nghiên cứu về Mạc Ngôn. Ở Trường Đại học
Vinh có Lương Thị Vân Anh với đề tài: Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết Mạc
Ngôn. Tác giả đã nói được một số nét về hình ảnh người phụ nữ, đặc biệt là tình
thương con vô bờ bến, cùng với nó là tấm lòng của Mạc Ngôn đối với đất mẹ
quê hương. Cũng qua đó, nhà văn thể hiện những trăn trở của mình về thời kì
cải cách mở cửa, những day dứt về bản sắc văn hoá dân tộc. Đề tài cũng đã khai
thác được một số bình diện về hình thức như cốt truyện lồng ghép, cốt truyện đa
tuyến; nghệ thuật miêu tả tâm lí…, tuy nhiên đang mang tính khái quát mà chưa
đi sâu phân tích cụ thể qua những tác phẩm cụ thể; Hoàng Thị Thanh Lê với đề
tài: Tìm hiểu 41 chuyện tầm phào của Mạc Ngôn khi bàn về tiểu thuyết Rừng
8
xanh lá đỏ đã nói một khía cạnh của dục vọng con người là chạy theo lối sống
hưởng lạc qua nhân vật Lâm Lan; Lê Thị Hương Thuỷ với đề tài: Con người
bản năng trong Báu vật của đời đã nói được quan niệm nghệ thuật về con người
nhưng cũng chỉ mới chú tâm khai thác con người chủ yếu ở khía cạnh bản năng,
con người với những dục vọng thấp hèn ; Và Nguyễn Thi Hoài với đề tài:
Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiên đại trong tiểu thuyết Mạc Ngôn chủ
yếu đi từ lí thuyết hậu hiện đại để nghiên cứu về tiểu thuyết Mạc Ngôn; Trường
ĐHSP.TPHCM có Trần Văn Tuân với đề tài: Văn hoá dân gian trong tiểu
thuyết Đàn hương hình của Mạc Ngôn đi vào khai thác tiểu thuyết Đàn hương
hình dưới góc nhìn văn hoá với điệu Miêu Xoang.
Trên nhiều trang mạng cũng như các báo đài cũng đã nói nhiều về Mạc
Ngôn và tác phẩm của ông như:
Trần Đình Sử.worlpress.com: Báu vật của đời của Mạc Ngôn - lên bờ
xuống ruộng trước khi nhận giải Nobel.
Dântri.com.vn: Những tác phẩm đáng đọc nhất của Mạc Ngôn: Với độc
giả Việt Nam, Mạc Ngôn đã từng làm nên cơn sốt sách với hàng loạt tác phẩm

có sức ám ảnh như Đàn hương hình, Báu vật của đời, Rừng xanh lá đỏ….
www.baothuathienhue.vn: 6/10/2013 cũng đã đưa ra nhận xét: Tiểu
thuyết Mạc Ngôn, hình ảnh thu nhỏ của Trung Quốc.
Nobel văn học 2009 HerthaMuller chỉ trích quyết định của Viện Hàn
lâm Thuỵ Điển khi trao giải cho Mạc Ngôn - người bà gọi là kẻ “tán dương sự
kiểm duyệt”.
Dântri.com.vn đăng bài của dịch giả Trần Đinh Hiến: Đọc văn Mạc Ngôn
thấy đau lắm: Để hiểu, tôi chỉ nên đọc Báu vật của đời, chỉ tác phẩm đó mới
đúng là Mạc Ngôn thật đến mức chẳng còn gì hoa mỹ.
Vhnt.org.vn 15/12/2001 đăng bài: Kiểu nhân vật trẻ thơ - người lớn trong
tiểu thuyết Mạc ngôn bàn về hai hân vật Giáp con và Kim Đồng trong hai tiểu
thuyết Đàn hương hình và Báu vật của đời của Mạc Ngôn.
9
Trên trang Laodong.com.vn tác giả Trần Trung Hỷ mở đầu cuộc trao đổi
với báo Lao động Bắc Miền Trung cho rằng nhiều người nói Mạc ngôn ác tâm
cay độc…nhưng theo tôi những gì ông viết, cho dù viết có ác đến mấy, mục tiêu
của ông cũng hướng con người vào điều thiện.
Trên đây là sơ lược một số công trình nghiên cứu về Mạc Ngôn và tiểu
thuyết Báu vật của đời và Đàn hương hình của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Riêng tiểu thuyết Rừng xanh lá đỏ chúng tôi hiện chưa phát hiện ra
công trình nghiên cứu nào thực sự.
Chúng tôi chưa đọc thấy công trình nào đi sâu nghiên cứu phương diện
hình tượng nhân vật ở 3 tác phẩm này trên bình diện so sánh, tổng hợp để từ đó
làm nổi rõ hình tượng người đàn bà trên trong 3 tiểu thuyết này nói riêng và
trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn nói chung.
Chúng tôi kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu,
những ý kiến bổ ích của người đi trước trong quá trình hoàn thành luận văn này.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật người đàn bà trong tiểu thuyết Mạc Ngôn.

3.2. Phạm vi khảo sát
Phạm vi khảo sát chính của luận văn là ba tác phẩm Đàn hương hình,
Báu vật của đời và Rừng xanh lá đỏ, ngoài ra, chúng tôi khảo sát thêm một số
tiểu thuyết, truyện ngắn của Mạc Ngôn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Tìm hiểu vị trí của Mạc Ngôn trong tiểu thuyết Trung Quốc đương đại.
4.2. Tìm hiểu nhân vật đàn bà trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn qua Đàn
hương hình, Báu vật của đời, Rừng xanh lá đỏ trên phương diện nội dung.
4.3. Tìm hiểu nhân vật đàn bà trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn qua
Đàn hương hình, Báu vật của đời, Rừng xanh lá đỏ trên phương diện hình
thức thể hiện.
10
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp khảo sát thống kê
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
6. Cấu trúc của luận văn
Tương tự với mục đích, nhiệm vụ đề ra, ngoài Mở đầu, Kết thúc và Tài
liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1. Tiểu thuyết của Mạc Ngôn trong bối cảnh tiểu thuyết Trung
Quốc đương đại
Chương 2. Nhân vật người đàn bà trong tiểu thuyết Đàn hương hình,
Báu vật của đời, Rừng xanh lá đỏ nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3. Nhân vật người đàn bà trong các tiểu thuyết của Mạc Ngôn
nhìn từ phương diện hình thức

11
Chương 1
TIỂU THUYẾT MẠC NGÔN TRONG BỐI CẢNH

TIỂU THUYÊT TRUNG QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Một số vấn đề của tiểu thuyết Trung Quốc đương đại
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi thì “Tiểu thuyết là loại hình tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến
trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần
thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh
phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng. Không phải ngẫu nhiên mà thể loại tiểu thuyết
chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống thể loại văn học cận đại, hiện đại.
Theo Bêlinxki, tiểu thuyết bắt đầu phát sinh từ lúc “vận mệnh con người,
mọi mối liên hệ của nó với đời sống nhân dân được ý thức. Vì vậy đới sống cá
nhân bất luận thế nào cũng không thể là nội dung của anh hùng ca Hi Lạp
nhưng có thể là nội dung của tiểu thuyết.” Ở Châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện
dưới dạng hiệp sĩ phiêu lưu vào thời kì xã hội cổ đại tan rã cũng như văn học cổ
suy tàn. Đến thời kì Phục Hưng, khi xảy ra quá trình giải phóng con người khỏi
thần quyền của nhà thờ, khi con người bắt đầu ý thức như một thực thể xã hội
thì tiểu thuyết mới bắt đầu khởi sắc. Mãi đến thế kỉ XIX, tiểu thuyết mới đạt đến
sự nảy nở trọn vẹn với những tên tuổi lớn như Bandắc, Gôgon, Đônxtôiépki,
Tuốcghenhép Ở Trung Quốc, tiểu thuyết xuất hiện rất sớm, từ thời Ngụy Tấn
(thế kỉ III-IV) dưới dạng ‘chí quái’, “chí nhân”. Nhưng mãi đến thời Minh,
Thanh, tiểu thuyết Trung Quốc mới khẳng định được vị trí của mình trên trường
Quốc tế. Ở Việt Nam, tiểu thuyết xuất hiện khá muộn. Có thể nói, từ khi Hoàng
Lê nhất thống chí ra đời (đầu thế kỉ XIX), Việt Nam mới có tiểu thuyết.
Có nhiều khái niệm khác nhau về tiểu thuyết.
12
Theo từ điển bách khoa toàn thư thì “tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi
có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội
rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường
thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định”.

Trong một cách hiểu khác, nhận định của Bêlinski: "tiểu thuyết là sử thi
của đời tư" chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật
tập trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển
của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ
thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách.
Theo từ điển bách khoa Hoa Kì xuất bản 1963 trang 127 thì “tiểu thuyết
là một thể tản văn thuật lại một truyện tưởng tượng trong đó nhân vật và hoàn
cảnh lấy ngay ở cuộc sống thực tại dựng thành cốt truyện”.
Trong từ điển thuật ngữ văn học, tiểu thuyết là “tác phẩm tự sự cỡ lớn có
khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian.
Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong
tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính
cách đa dạng.” [24; 134].
Thật khó để đưa ra một khái niệm tiểu thuyết hoàn chỉnh. Vì bản chất của
tiểu thuyết là thể loại sống, thể loại đang và sẽ vận động, luôn tự đổi mới và
cách tân. Nhưng chúng ta có thể thấy các khái niệm đều chỉ ra được những đặc
trưng cơ bản sau của tiểu thuyết.
Thứ nhất, tiểu thuyết nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Mức độ đời tư có thể
đậm nhạt khác nhau tùy theo từng thời kì. Yếu tố đời tư càng phát triển, chất tiểu
thuyết càng tăng, yếu tố lịch sử càng tăng, chất sử thi càng đậm đà. Đặc trưng này
giúp ta phân biệt tiểu thuyết với sử thi. Tuy nhiên vẫn tồn tại một loại tiểu thuyết có
sự kết hợp giữa yếu tố sử thi và yếu tố tiểu thuyết: tiểu thuyết sử thi.
Thứ hai, đó là chất văn xuôi. Chính đặc trưng này giúp ta phân biệt thể
loại này với thơ, trường ca, chuyện thơ. Nếu như chất thơ là cụm từ chỉ những
13
cái tồn tại cao hơn đời sống, gắn liền với cảm xúc, cái đẹp, cái dễ làm cho con
người ta rung động thì chất văn xuôi lại là toàn bộ đời sống thực như vốn dĩ nó tồn
tại, có buồn vui đẹp xấu đầy đủ sắc thái thẩm mĩ. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống
như bản chất cuộc sống vốn có. Bao gồm mọi yếu tố ngổn ngang của cuộc đời; cái
cao cả và cả cái thấp hèn; cái nghiêm túc và cái đùa cợt; cái bi và cả cái hài…

Thứ ba, nhân vật trong tiểu thuyết là “nhân vật nếm trải”. Nhân vật kịch
là nhân vật của hành động. Hứng thú của nhân vật kịch nằm ở hành động của
nhân vật ấy. Nhưng do hạn chế về mặt thời gian sân khấu và thiếu lời trần thuật
nên nhìn chung kịch không tái hiện trọn vẹn quá trình nếm trải của nhân vật.
Nhân vật trong tiểu thuyết cũng hành động, hành động trong hoàn cảnh, chịu tác
động của hoàn cảnh, tốt hơn hay trở nên xấu hơn vì hoàn cảnh. Tiểu thuyết miêu
tả nhân vật như một con người đang trưởng thành và biến đổi, do đời dạy bảo.
Trong khi hành động, nhân vật hứng chịu đủ mọi tác động của đời. Chính vì
vậy, miêu tả thế giới bên trong, phân tích tâm lí là một phương diện rất đặc
trưng cho tiểu thuyết, mặc dù nói chung, thể loại văn học nào cũng không thể
bỏ qua được khía cạnh tâm lí.
Thứ tư, tiểu thuyết chứa đựng nhiều cái “thừa” so với những thể loại tự
sự khác. Tiểu thuyết linh hoạt trong cấu trúc. Ở những truyện vừa, truyện ngắn
trung cổ, các yếu tố tác phẩm được tổ chức sát với sự vận động trong các liên
hệ nhân quả. Lời nói nhân vật cũng chỉ là một khâu thúc đẩy cốt truyện phát
triển, hoặc mở nút. Yếu tố “thừa” chính là đặc trưng của tiểu thuyết. Bởi vậy,
tiểu thuyết thường có những đoạn trữ tình ngoại đề. Có những tiểu thuyết chỉ
dài khoảng một trăm trang, nhưng cũng có tiểu thuyết dài vài trăm trang, thậm
chí hơn một ngàn trang như Sông Đông êm đềm của Sôlôkhôp. Có khi một trăm
năm được thâu gọn trong vài dòng, nhưng cũng khó khi một vài ngày kéo dài cả
trăm trang sách.
Thứ năm, tiểu thuyết miêu tả cuộc sống ở thì hiện tại chưa hoàn thành.
Nếu như thơ là tiếng nói của tâm trạng hoài niệm thì tiểu thuyết dù viết về đề tài
14
cách nay cả nghìn năm nhưng người đọc vẫn có cảm giác nhà văn lôi sự kiện từ
quá khứ về hiện tại để người đọc xem xét, đánh giá, nhận thức lại. Nhìn quá khứ
bằng nhãn quan của hiện tại. Mọi việc của quá khứ như đang diễn ra trước mắt.
Nhà văn không còn ngồi trên cao để truyền đạo mà xuống ngang bằng với độc
giả. Độc giả cùng phán xét với nhà văn.
1.1.2. Bối cảnh xã hội - thẩm mĩ của tiểu thuyết Trung Quốc đương đại

Mạc Ngôn từng viết: “Trong vũ trụ bao la, vị trí của con người là vô cùng
bé nhỏ” và “lịch sử của quá khứ và thế giới hiện đại liên quan mật thiết với
nhau, máu của lịch sử lại chảy trong mạch máu của người đương đại”. Mỗi nhà
văn, không riêng gì Mạc Ngôn đều sống, hít thở bầu khí quyển của thời đại
mình. Từ đó họ đưa hết khả năng của mình để thi triển giữa cuộc đời. Mỗi nghệ
sĩ là một thế giới tâm hồn riêng, lại được sinh ra trong một thời kỳ lịch sử nhất
định cho nên cách biểu hiện tư tưởng nghệ thuật trong tác phẩm cũng mang dấu
ấn cá nhân.
Mạc Ngôn sinh ra trong một thời đại đầy những biến động mang tính bi
kịch. Đó là sự trói buộc chính trị, là cuộc Đại cách mạng văn hóa vô sản, và còn
là vấn đề nhận thức lại cuộc sống. Tất cả những điều này ảnh hưởng mạnh mẽ,
sâu sắc đến sáng tác của ông. Ta bắt gặp trong tiểu thuyết Mạc Ngôn mọi vấn đề
của cuộc sống, của lịch sử, của quá khứ, của hiện tại và có khi đó còn là cả
chiều dài lịch sử vĩ đại nhưng cũng không kém phần đau thương của đất nước
Trung Hoa. Cải cách ruộng đất nông thôn, đấu tố địa chủ đã mắc sai lầm nghiêm
trọng như thời cổ đại. Tiếp đó công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những
mô hình ấu trĩ duy ý chí như “công xã nhân dân”, phong trào “đại nhảy vọt”.
Tình trạng quan liêu cửa quyền, tham nhũng triền miên, kinh tế suy đốn, xã hội
điêu tàn, chính trị khủng hoảng, văn nghệ khô cứng. Tình trạng đó tất yếu phải
dẫn đến một sự đổ vỡ nào đó. Vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Mao Trạch Đông
suy yếu, cặp Lâm Bưu - Giang Thanh rồi đến “bè lũ bốn tên” chụp lấy cơ hội
thao túng chính trường, đặc biệt là “10 năm Đại cách mạng văn hóa vô sản”.
15
Thực chất cách mạng văn hóa chỉ diễn ra trong ba năm (1966-1969) nhưng hậu
quả của nó kéo dài đến 1979 và những di chứng lâu dài hơn. Lịch sử gọi đó là “10
năm động loạn”, làm cho văn học nghệ thuật chân chính bị tê liệt. Trong thời kỳ
xây dựng hòa bình mà có tới hàng triệu người, trong đó có hàng trăm văn nghệ sĩ
cách mạng bị bức hại đến chết, tất cả trường đại học, học viện đóng cửa… Từ sau
1976 đến 1982, những người Đảng viên cộng sản chân chính với sự ủng hộ của
quần chúng cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống lại “bè lũ bốn tên” đã giành lại

quyền lãnh đạo cách mạng. Đất nước Trung Quốc tìm ra đường lối mở cửa, phong
trào “bốn hiện đại hóa” theo đường lối tư tưởng của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình.
Cuộc sống xã hội đã có nhiều thay đổi, từ sự bưng bít, trói buộc đến sự tự
do, mở rộng cánh cửa giao lưu. Như một tất yếu, trong hoàn cảnh đó, con người
phải nhận thức lại các giá trị. Văn nghệ sĩ luôn là những người nhạy cảm trước
nhất, nhanh nhất trước sự biến động của thời cuộc. Với tâm thế tiếp nhận mới,
văn học cuộn mình trỗi dậy. Dòng văn học “vết thương”, dòng văn học “sám
hối” với những tác phẩm sục sôi đòi thanh toán nỗi uất ức “10 năm khủng
khiếp”, triệt để phê phán giai đoạn sai lầm ấu trĩ đã ra đời, mở ra thời kỳ phục
hưng văn học nghệ thuật. Văn chương phải giữ vai trò tiên phong trong lĩnh vực
văn hóa nghệ thuật và đời sống tinh thần của công chúng Trung Quốc.
Kể từ năm 1982 về sau, văn học “trăm hoa đua nở”. Những cây bút trẻ
hăm hở tìm tòi phương pháp mới đồng thời kế thừa những phương pháp truyền
thống của Trung Quốc và nhân loại. Nhiều phong cách mới, nhiều tác giả mới
xuất hiện, mau chóng tạo ra sức hút mạnh mẽ trong đời sống văn học nghệ thuật
nảy sinh. Có thể nói, cuộc “lột xác” để phục hưng của văn học Trung Quốc thật
đớn đau, phải trả bằng những giá chưa từng có trong lịch sử. Trong không khí
đó, Mạc Ngôn cùng Trương Hiền Lượng, Vương Mông, Giả Bình Ao, Vệ Tuệ,
Cao Hiểu Thanh… nổi bật lên như những cây bút tiêu biểu với hàng trăm tác
phẩm xuất sắc. Những cây bút trẻ này với sự thông minh, sáng tạo đã bắt kịp tư
tưởng, phương pháp nghệ thuật Tây Âu - Nga - Mỹ
16
Bước vào xã hội hiện đại, cuộc sống con người không còn nguyên vẹn
như trước, các giá trị truyền thống có nhiều thay đổi. Một điều dễ nhận thấy
trong tác phẩm của các nhà văn đương đại đó là vấn đề “trọng nam khinh nữ”.
Đây từng được xem là chuẩn mực, là thước đo “vĩnh cửu” trong xã hội phong
kiến. Mạc Ngôn cũng chẳng hề xa lạ về điều đó, vì thế mà ông đã thể hiện một
cách chân thực điều đó trong tiểu thuyết của mình.
Vượt qua chiến tranh, nội chiến, sai sót về chính trị… Trung Quốc bước
vào thời kỳ của khoa học kĩ thuật, nhưng vẫn còn đâu đó, nếu không nói là nặng

nề những biến thiên, đảo lộn của cuộc sống con người. Nhà văn, hơn ai hết, là
người đứng giữa “tâm bão” của cuộc đời phải dũng cảm dấn mình vào cuộc đấu
tranh chống lại những ngang trái bất công, phi nhân tính, góp phần bảo vệ quyền
sống làm người cho mỗi cá nhân, cá thể, hướng tới những giá trị nhân văn cao
cả. Đó là sứ mệnh cao cả của một nhà văn chân chính mà lịch sử Trung Hoa
hiện đại đã đặt lên ngòi bút của thế hệ các nhà văn như Mạc Ngôn.
Xu thế toàn cầu hóa tạo nên một luồng gió mới lạ thổi vào đất nước
Trung Hoa rộng lớn vốn tự xem mình là trung tâm của nhân loại, dị ứng với
những yếu tố ngoại lai. Xu thế toàn cầu hóa tác động sâu sắc đến mọi mặt đời
sống xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, trong đó có văn học.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế và đồng nhất hoá về văn hoá như
hiện nay, nhà văn phải dấn mình vào cuộc đấu tranh chống lại những biến động
chính trị, kinh tế, xã hội không phải với tư cách một chiến binh chuyên nghiệp,
mà là với tư cách một con người biết động lòng trắc ẩn vì chân, thiện, mỹ.
Chiến đấu bằng ngòi bút là cách tốt nhất mà một nhà văn có thể làm. Phần lớn
người dân còn chưa ý thức về những gì đang diễn ra. Vì vậy, chính những người
nghệ sĩ phải là chiếc cầu nối người dân với các vấn đề xã hội nóng bỏng.
1.1.3. Một số thành tựu cơ bản của tiểu thuyết Trung Quốc đương đại
Theo sự thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính riêng năm 1978 ở Trung Quốc đã
xuất bản được 55 bộ tiểu thuyết, năm 1979 tăng lên 61 bộ và năm 1980 lại tăng
17
lên 90 bộ. Từ năm 1980 đến 1982 bình quân mỗi năm có hơn 200 bộ tiểu thuyết
được xuất bản. Mười bảy năm trước cách mạng văn hoá đỉnh cao của sáng tác
tiểu thuyết là năm 1959, năm thứ 10 của nước Trung Hoa mới ra đời (1949)
cũng chỉ có 32 bộ. Điều này chứng tỏ tiểu thuyết của thời kì mới gặt hái nhiều
kết quả rực rỡ. Không chỉ trên số lượng mà chất lượng tiểu thuyết của thời kì
này phát triển chưa từng thấy ở cả hai bình diện nghệ thuật và tư tưởng.
Tiểu thuyết của sáu năm sau cách mạng văn hoá mà nội dung chủ yếu là
vạch trần tội ác của bè lũ bốn tên, chỉ ra cho người đọc thấy được sư ác độc, tàn
bạo và nguy hiểm của cuộc cách mạng văn hoá. Chỉ hai, ba năm sau khi đập tan

tập đoàn “Bè lũ bốn tên” hàng loạt tác phẩm ưu tú đã ra đời, báo hiệu một mùa
xuân mới của thời đại tiểu thuyết. Đội ngũ tác giả tiểu thuyết của thời kì trước
cách mạng văn hoá chủ yếu là các nhà văn lão thành nổi tiếng. Trong thời kì
mới, ngoài các nhà văn có tên tuổi như Ngụy Nguy, Chu Nhi Phục, Âu Dương
Sơn, Ý Chuẩn, Lục Địa, Phùng Đức Anh, Khúc Ba, Lương Bân, Ngô Cường,
Trần Đăng Khoa, Lý Anh Nho, Đoan Mộc, Củng Lương, Tuấn Thanh, Trần Học
Chiêu, Bích Dã, còn có hàng loạt nhà văn mới xuất hiện với nhiều tài năng hứa
hẹn, như: Chu Khắc Cần, Mạc Ứng Dụng, Lý Quốc Văn, Cổ Hoa, Mạc Vĩnh
Tái, Trịnh Quốc Bồi, Từ Hưng Nghiệp, Lăng Lực, Tưởng Hoà Lâm, Nhiệm
Quang Trung, Bảo Xương, Phùng Dực Tài, Dương Bội Cẩn, Tiêu Tổ Nghiên,
Phùng Phần Thực, Diệp Tấn, Trúc Lâm, Đức Lan v.v…
Mười bảy năm trước khi xảy ra cuộc cách mạng văn hoá tiểu thuyết viết
về đề tài lịch sử cách mạng từ sau phong trào Ngũ tứ (1919) số lượng tương đối
nhiều, làm cho người đọc yêu thích. Đó là tác phẩm văn học ưu tú mà một thời
ai nấy đều không quên như Dưới ngọn cờ hồng, Đá đỏ, Bài ca tuổi trẻ, Mặt trời
đỏ, Ngõ ba nhà, Mùa xuân mùa thu của thành nhỏ…
Tiểu thuyết Trung Quốc đương đại đạt nhiều thành tựu, thể hiện trên
nhiều bình diện. Về mặt đề tài, tiểu thuyết của mười bảy năm viết về lịch sử
cách mạng, chủ yếu tập trung miêu tả phong trào cách mạng quần chúng trong
18
cuộc chiến tranh chống Nhật, cuộc đấu tranh giải phóng và cuộc đấu tranh phản
đế, phản phong của nhân dân Trung Quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tiểu
thuyết của thời kì mới cũng đề cập đến đề tài này nhưng lại không hạn chế về
thời gian. Dưới ngòi bút của nhà văn, phong trào cách mạng sau cách mạng Tân
Hợi (1911) kéo dài đến khi thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc (1921) đều
được miêu tả chân thực, sống động và đầy kịch tính. Các tác phẩm như Đất đai
(gồm 3 tập là Hoa lửa, Tự do và Ánh bình minh) của Diệp Quân Kiện và Thác
nước ( tập 1 là đêm dài) của Lục Địa phản ánh cuộc sống của thời đại rộng lớn
của miền nam Trung Quốc từ sau cách mạng Tân Hợi đến trước cuộc chiến
tranh Bắc phạt. Đó là sự phản kháng anh dũng và sự đàn áp tàn bạo, cuộc kình

chống kịch liệt giữa các lực lượng chính phủ và các giai cấp; sự tranh giành
quyền lực của chủ thể Trung Quốc; một số nhân sĩ trí thức trong con đường cứu
dân cứu quốc. Tác phẩm Bất tận Trường Giang cổn cổn lai của Bành Tuệ, Gió
xoáy của Dương Bội Cẩn biểu hiện phong trào nông dân và công nhân trước và
sau cách mạng, miêu tả cuộc đấu tranh phức tạp, biểu thị sự trưởng thành của
lực lượng công nông trong cuộc đấu tranh cách mạng; ghi chép lại những trang
lịch sử cực kì quan trọng trong lịch sử cách mạng Trung Quốc. Tác phẩm Bắt
tay lần thứ hai của Trương Dương và Yêu và thù của Chu San từ trên các bình
diện khác nhau biểu hiện con đường trưởng thành của phần tử trí thức tiến bộ
phản kháng lại sự gian ác xấu xa để đi tìm chân lí và ánh sáng. Tác phẩm Dòng
xoáy của Yên Quốc Bồi kết hợp giữa đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị,
biểu hiện đời sống xã hội muôn màu, muôn vẻ của hai bên bờ Xuyên Giang
trong những năm 30. Tác phẩm Bắc quốc phong vân lục của Mã Như và Cáp
Nhĩ Tân dưới màn đêm của Trần Kỳ miêu tả chân thực âm mưu và hành động bỉ
ổi của quân đội Nhật trước và sau sự kiện “ngày 18 tháng 9”, miêu tả sự quật
khởi của nghĩa quân chống Nhật và cả phong trào cứu vong kháng Nhật ở thành
thị, nông thôn, công xưởng, trường học. Tác phẩm Bảo nương của Vương Bảo
miêu tả quá trình của một thanh niên đi theo cách mạng, lột tả một cách hình
19
tượng vận mệnh bi thảm của người phụ nữ trong xã hội cũ và con đường sống
mới của họ. Tác phẩm Lê Viên Phận của Ngọc Nhân Dịch dựa theo vở Xuyên
kinh Ngọc đĩnh ban miêu tả cuộc sống phiêu bạt vô định, lưu lạc trôi nổi của
những nghệ nhân trong xã hội cũ.
Tiểu thuyết miêu tả lịch sử cách mạng trong mười bảy năm coi trọng ở
việc theo đuổi tình tiết câu chuyện và sắc thái truyền kì, còn rất nhiều tiểu
thuyết thời kì mới viết về lịch sử cách mạng thì coi trọng việc bộc lộ hoàn cảnh,
phản ánh sự thay đổi, cuộc sống rộng lớn, đặc trưng bản chất của thời đại và sự
phát triển của lịch sử. Tác phẩm Phương đông của Ngụy Nguy được coi là bức
tranh tráng lệ của cuộc kháng Mỹ viện Triều gần 3 năm, biểu thị tiến trình hoàn
chỉnh của sự phát sinh, phát triển và kết thúc của cuộc chiến tranh. Tác phẩm

không những miêu tả cuộc chiến đấu to lớn của mặt trận Triều Tiên, sự diễn
biến của cục diện chiến trường, sự thay đổi của phương châm chiến lược mà còn
tỏ rõ cuộc đấu tranh trong phong trào hợp tác hoá toàn quốc của thời kì đầu xây
dựng một cách toàn diện, sâu sắc, làm cho người đọc cảm nhận tốt. Tác phẩm
Thác nước được coi là ‘đỉnh cao nhất của văn học dân tộc Choang”, thể hiện sự
phát triển và bộ mặt thời đại của thời kì cách mạng dân chủ cũ Trung Quốc từ
cuộc cách mạng Tân Hợi đến cuộc chiến tranh Bắc phạt, miêu tả sinh hoạt rộng
lớn của thời đại đó: sự thất bại của phong trào học sinh, sinh viên và sự vùng lên
của phong trào nông dân, phong trào yêu nước chính nghĩa; cuộc chiến tranh
quân phiệt gay gắt; hoạt động của cách mạng Tôn Trung Sơn; sự truyền bá chủ
nghĩa Mác ở Trung Quốc; sự gian khổ của phần tử nhân sĩ trí thức cùng với sự
chìm nổi của thân phận bé nhỏ
Tiểu thuyết có tính sử truyện là một thành tựu quan trọng của sáng tác
tiểu thuyết thời cổ đại. Trong tiểu thuyết của thời kì mười bảy năm loại tác
phẩm này rất ít. Trong thời kì mới, sự đứt đoạn của dòng chảy này lại được tiếp
tục và càng chảy mạnh hơn. Chỉ mấy năm ngắn ngủi, tác phẩm mang tính sử
truyện xuất hiện không ít. Có thể kể ra một số tác phẩm tiêu biểu như: Hận
20
Trường thành của Trần Lập Đức, miêu tả cuộc đời của Cát Hồng Xương và tác
phẩm Cát Hồng Xương của Chu Dực Lương. Ngoài ra còn có các tác phẩm khác
như Lưu Chí Đan của Lí Kiến Sam, Tẩy Tinh Hải truyện của Mã Khang,
Trương Ngọc Lương truyện của Thạch Nôm v.v Những tác phẩm này không
những tái hiện lại bộ mặt tinh thần của một số nhân vật mà còn lưu lại rất nhiều
sử liệu có liên quan đến các mặt chính trị, quân sự và văn hoá của thời đại đó.
Sự đột phá của tiểu thuyết lịch sử đã giành được sự thu hoạch to lớn và
một khái niệm đẹp đẽ mà văn học thời kì mới đã mang lại cho độc giả.
Trong tiểu thuyết của thời kì ‘mười bảy năm’ ngay cả thời ngũ tứ đến
nay, tiểu thuyết lịch sử của Trung Quốc là vùng trống vắng trong sáng tác văn
học Trung Quốc. Nguyên nhân này chủ yếu là do sự can thiệp của tư trào tả làm
cho đề tài lịch sử trở thành vùng cấm không có ai đám vi phạm. Trong văn học

thời kì mới tình hình này có sự đổi khác.Vùng cấm được xoá bỏ không còn ranh
giới, không còn cấm kị, phân biệt. Tiểu thuyết lich sử đã giám đột phá vào thể
loại này, viết nên những tác phẩm mang nhiều tính sử thi, sử truyện được độc
giả đón nhận nồng nhiệt.
Đề tài lịch sử trong tiểu thuyết mười bảy năm chủ nghĩa xã hội không
nhiều, chủ yếu là tập trung miêu tả cuộc khởi nghĩa nông dân. Tiểu thuyết lịch
sử của thời kì mới về phương diện đề tài có một sự đột phá và mở rộng hơn
trước rất nhiều. Một loạt tác phẩm lấy hiền thần lương tướng của xã hội phong
kiến làm nhân vật chính, mở ra một lĩnh vực đề tài mới. Đó là các tác phẩm
như: Kim âu khuyết, Mậu Tuất điệp huyêt kí, 103 ngày v.v…
Tiểu thuyết của thời kì mới còn xuất hiện các tác phẩm phản ánh cuộc
sống của nước Trung Hoa mới. Trong đó tác phẩm miêu tả cuộc sống của nhà
trường chiếm một vị trí chưa từng có. Ví dụ tác phẩm Thời đại đại học của
Trình Thụ Thung miêu tả đời sống của sinh viên đại học. Tuổi trẻ muôn năm
của Vương Mông miêu tả đời sống của học sinh phổ thông trung học và ngay cả
tác phẩm Mã lan thảo của Cang Sam Bình miêu tả đời sống của thầy cô giáo đại
21
học mà văn học từ khi thành lập nước đến nay rất ít thấy. Những tác phẩm này
phản ánh bộ mặt tinh thần của các trí thức thanh niên Trung Quốc trong những
năm 50. Tác phẩm miêu tả cuộc sống của nông thôn cũng có nhiều. Trước đây
về đề tài này độc giả rất quen thuộc với tác phẩm Sáng ngiệp sử của nhà văn Liễu
Thanh (2 tập). Giờ đây độc giả lại được thưởng thức các tác phẩm mang hơi thở
của cuộc sống ở nông thôn, như Phù Dung trấn của Cổ Hoa, một tiểu thuyết được
coi là “ngụ ý thời tiết chính trị nhưng ở bức tranh phong tục dân tình”.
Ngoài các đề tài trên đây, Tiểu thuyết thời kì mới còn phản ánh đời sống
của các dân tộc ít người. Đáng chú ý nhất là tác phẩm Cơ lộc nhai của Bành
Kình Phong lần đầu tiên đem cuộc sống của người khổ thông trong rừng sâu
nguyên thuỷ ở núi An Lão bày ra trước mắt làm cho ai nấy đều ngạc nhiên, cảm
nhận. Tác phẩm Đoá mai cách Tang của Giáng Biên Gia Tích miêu tả giải
phóng quân tiến quân vào Tây Tạng là một bộ tiểu thuyết đầu tiên của một nhà

văn Tây Tạng đương đại.
Tóm lại, về mặt phản ánh đời sộng hiện thực từ khi thành lập nước đến
nay thì tác phẩm Phù Dung Trấn của Cổ Hoa là xuất sắc, nổi bật nhất. Nhưng
tác phẩm của loại đề tài này so với thời kì trước cách mạng văn hoá thì chưa
nhiều. Các tác phẩm miêu tả “cuộc đại cách mạng văn hoá” là một lĩnh vực
hoàn toàn mới. Trong đó, tác phẩm Ngày lễ điên cuồng của hai tác giả Dương
Cơ Vĩ và Hồ Nguyệt Hâm, tác phẩm Tướng quân ngâm của Mạc Ứng Phong
miêu tả chính diện quá trình của cuộc cách mạng văn hoá, trong đó biểu hiện sự
hi vọng không thể dập tắt trong đầu óc mọi người trong những năm động loạn.
Tác phẩm Con đường của cuộc sống của Trúc Lâm, Người trẻ đời này của
chúng ta và Năm tháng sa đà của Diệp Tân miêu tả cuộc sống của thanh niên
trí thức mà cuộc sống ngày nay chúng ta gọi là đề tài văn học trí thức. Các tác
phẩm như Hứa Mậu và con gái ông ta của Chu Khắc Cần, Tình sông núi của
Hạo Nhiên và Mùa thu không được thu hoạch của Mộc Thanh, đột phá con
đường mòn miêu tả cuộc sống ở nông thôn trong thời kì “mười bảy năm” mà lấy
22
bút pháp của chủ nghĩa hiện thực nghiêm ngặt, miêu tả vận mệnh của bộ mặt
nông dân, nông thôn ( bao gồm trí thức và thanh niên ) trong “mười năm động
loạn” và biểu hiện tinh thần cởi trói của mọi người trong gian khổ. Tác phẩm
Mùa xuân trong mùa đông của Lí Quốc Văn và Ghi chép phá bức tường của
Trần Đăng Khoa và Tiêu Mã lấy cán bộ làm nhân vật chính, không chỉ viết về
“cách mạng văn hoá” mà đối với lịch sử cũng có sự tìm tòi, suy nghĩ làm cho
độc giả tiếp nhận một cách tích cực.
Ngoài ra, các tác phẩm khác như Thay giá của Trần Quốc Khải và Cái
chết của nhà thơ của Đới Hậu Anh miêu tả sự gian khổ của tầng lớp trí thức tận
cùng của xã hội, biểu hiện tình cảm cao thượng, trong sáng và đẹp đẽ của họ.
Những tác phẩm này có đề tài mới, chủ đề mới và quan trọng hơn là sự lí giải,
nắm vững, đề xuất và biểu hiện của tác giả đối với cuộc sống cũng là mới. Tác
phẩm loại đề tài này mang đến giòng máu mới để mọi người đi vào thời kì mới .
Trong tiểu thuyết thời kì mới, tác phẩm của đời sống hiện thực sau khi

đập tan tập đoàn Giang Thanh có số lượng không nhiều và chưa có tác phẩm
nào thật vượt trội về nội dung và nghệ thuật. Số lượng tuy ít và chất lượng chưa
cao nhưng nó được người đọc chú ý. Trong đó, tác phẩm Đôi cánh nặng nề của
Trương Khiết và Người cải cách của Dương Khiết lấy việc cải cách thể chế ở
thành thị trước đây làm chủ đề. Từ trong cuộc sống hiện thực trước kia, nhanh
chóng tạo thành một tấm gương lich sử, phê phán một cách sâu sắc tập quán cũ
và tư tưởng cũ nhằm cản trở công cuộc cải cách, ca ngợi một cách mạnh mẽ
những con người vì sự chấn hưng của một nước Trung Hoa mới mà hiến dâng
bản thân mình. Những tác phẩm này trong việc phản ánh đời sống đã có tính sâu
sắc và mẫn tiệp. Nhưng do chu kì ngắn, sự am hiểu của nhà văn đối với cuộc
sống chưa nhiều, nên biểu hiện ở mặt nghệ thuật chưa công phu. Hai tác phẩm
Đôi cánh nặng nề và Người cải cách có thể coi là đại diện cho trào lưu sáng tác
mới trong tiểu thuyết thời kì mới.
Qua sự trình bày có thể rút ra những thành tích đáng chú ý của tiểu thuyết
thời kì mới:
23
Trước hêt, nhiều tác phẩm đã duy trì, ủng hộ và phát huy một số truyền
thống ưu tú của sáng tác tiểu thuyết trong thời kì “mười bảy năm”. Đó là sự
quan tâm to lớn đến đời sống, chú ý đến vận mệnh của nhân dân, đất nước. Từ
trong dòng chảy mạnh mẽ của đời sống, các tác giả đã chọn lựa chủ đề và đề tài
có liên quan mật thiết đến vân mệnh của nhân dân và tình hình đất nước. Các tác
phẩm đã chú ý đến yếu tố thẩm mỹ của nhân dân Trung Quốc, cổ vũ mạnh mẽ
niềm lạc quan phấn khởi của nhân dân trong phong trào cách mạng mới.
Về mặt nghệ thuật, nhiều tác giả đã thể hiện hình thức biểu hiện mới, tỏ
rõ phong cách, phong thái của người sáng tác văn học, làm cho mọi người phấn
khởi sáng tạo ra cái mới, nhất là việc sáng tạo ra hình thức nghệ thuật mới. Nhân
vật anh hùng mới được xây dựng đẹp đẽ, sáng tạo và có sức thuyết phục cao.
Đề tài của tiểu thuyết thời kì mới tương đối rộng lớn, bao quát, có tính
khái quát cao. Trong sáng tác tiểu thuyết của thời kì “mười bảy năm”, tầm nhìn
của nhà văn hẹp, giản đơn, nói chung chỉ chú trọng biểu hiện cuộc sống đấu

tranh của cách mạng dân chủ mới và thời kì cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong
thời kì mới, tầm nhìn của nhà văn được mở rộng và được giải phóng. Họ một
mặt vẫn không từ bỏ việc miêu tả cuộc đấu tranh của giai đoạn cách mạng, mặt
khác họ đem tầm nhìn đó đặt vào đời sống với giá trị thẩm mĩ mới. Vì vậy, các
loại cuộc sống của xã hội phong kiến kéo dài từ thời đại Xuân thu đến cách
mạng Tân Hợi, đời sống của các thời đại dân chủ cũ và mới ở Trung Quốc từ
sau khi nước Trung Hoa mới ra đời, đặc biệt là sau “cách mạng văn hoá” đều
được phản ánh chân thưc, sâu sắc vừa có bề rộng, vừa có bề sâu. Trong đó có rất
nhiều tác phẩm chỉ viết về đề tài bình thường trong cuộc sống muôn màu muôn
vẻ của nhân dân.
Tiểu thuyết của thời kì mới về mặt phương pháp nghệ thuật cũng dần dần
có sự cách tân, sáng tạo. Tiết tấu trần thuât, kể chuyện được tăng nhanh; phê
phán, trần thuật cũng dần dần được đa giạng hoá. Về mặt kết cấu, các nhà văn
sử dụng phương pháp “từ đầu, nối đầu, nối tới”, đồng thời phương pháp kết cấu
24
nhiều kiểu, nhiều dạng độc đáo. Về mặt khắc hoạ tính cách nhân vật, các tác giả
đã sử dụng đặc trưng tính cách từ hành động miêu tả đơn nhất dần dần đi sâu
vào miêu tả thế giới nhân vật, làm cho thủ pháp miêu tả phong phú, mới mẻ, gây
sự hấp dẫn cho người đọc.
1.2 Mạc Ngôn, một tác giả xuất sắc của tiểu thuyết Trung Quốc
đương đại
1.2.1. Mấy nét về cuộc đời Mạc Ngôn
Mạc Ngôn là bút danh. Tên thật của nhà văn là Quản Mạc Nghiệp. Sinh
ngày 17/2/1955, xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo tại huyện Cao
Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
Ngay từ nhỏ Mạc Ngôn đã là một cậu bé thông minh, ham học và tỏ ra có
năng khiếu văn chương. Khi còn là một đứa trẻ nghịch ngợm ngày ngày chăn
trâu trên đồng cỏ quê hương, Mạc Ngôn đã thích đọc sách, ông đã phải lao động
không công một cách cật lức cho nhà giàu để được mượn sách đọc. Có được
sách ông đọc rất say sưa và thường xuyên khóc, cười với nhân vật, thậm chí yêu

các nhân vật nữ trong sách. Lên lớp 4 Mạc Ngôn viết một bài về ngày Quốc tế
lao động 1-5 khi trường tổ chức đại hội Thể dục thể thao. Bài viết được thầy
giáo Trương khen ngợi hết lời. Sau đó Mạc Ngôn còn viết rất nhiều bài luận, tất
cả các bài viết đều được thầy giáo đọc trước lớp, được dán lên cả bảng tin nhà
trường, thậm chí có bài còn được các trường trung học lân cận lấy làm bài văn
mẫu. Nhưng năm 11 tuổi cách mạng văn hoá nổ ra, Mạc Ngôn phải nghỉ học khi
chưa học hết bậc tiểu học, phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn.
Trong khoảng 10 năm kể từ ngày đó, tuổi thơ ông suốt ngày chăn dê ở ngoài
đồng “đói khát và cô đơn luôn là người bạn đồng hành”. Mạc Ngôn trong một
bài phỏng vấn đã tâm sự: “Cuộc sống nghèo khổ đã bám tôi suốt hai mươi năm.
Nỗi sợ hãi đói khát luôn ám ảnh cuộc sống và tác phẩm của tôi sau này. Nếu
được chọn lại tôi muốn chọn lấy tuổi thơ có cơm no áo ấm”.
Do thành phần xuất thân của gia đình nên việc đi học trở lại của Mạc
Ngôn chấm dứt, tấm bằng trung học không thể lấy được, ngay cả đến đi bộ đội
25

×