Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc việt nam trong xây dựng nông thôn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.6 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
……… ***………
HOÀNG THỊ THU HOÀI


PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TỈNH NGHỆ AN TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
……… ***………


HOÀNG THỊ THU HOÀI


PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TỈNH NGHỆ AN TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI



CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ: 06310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Lan
2
NGHỆ AN - 2014
3
MỤC LỤC
Trang
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các huyện, thị xã, thành phố chủ động phối
hợp kiểm tra việc triển khai cuộc vận động lồng ghép thực hiện các nội dung “4
giảm”, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, các Nghị quyết liên tịch, chương
trình phối hợp nhằm đánh giá hiệu quả cuộc vận động, các chương trình phối hợp
tại cơ sở. Tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình điểm tại khu vực dân cư
nhằm góp phần nâng cao chất lượng ấp, khu phố văn hóa 75
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Là một nước nông nghiệp, dân
số sống ở khu vực nông thôn chiếm gần 70% dân số cả nước, vì vậy phát triển
nông nghiệp, nông thôn đối với Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được vấn đề đó, ngày 5/8/2008 Hội
nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết
số 26 - NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Để triển khai nghị quyết, với chủ trương đưa nông thôn tiến kịp với thành
thị, xây dựng mục tiêu hiện đại hoá nông thôn Việt Nam vào cuối năm 2020,

ngày 14 tháng 6 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 491/QĐ-
TTg về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Bộ tiêu
chí này là cơ sở để các địa phương làm căn cứ để xây dựng, phát triển nông
thôn. Ngày 2 tháng 2 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 193/QĐ-
TTg phê duyệt chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Ngày 4
tháng 6 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 800/QĐ-TTg về phê
duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 -
2020, với mục tiêu đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới,
2
đến năm 2015 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn cũng ban hành Thông tư số 54/2009/BNNPTNT ngày 21
tháng 8 năm 2009 về việc hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng
nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới được tích cực triển khai và “cả nước chung tay
xây dựng nông thôn mới” đã trở thành phong trào rộng khắp.
Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới;
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An ban hành Nghị quyết 03-NQ/TU về đẩy mạnh
thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới và Quyết định số 3875/QĐ-
UBND ngày 31/8/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về kế hoạch thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2020. Căn cứ
hướng dẫn của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc tỉnh đã kịp thời xây dựng chương trình, kế hoạch, hướng dẫn
Mặt trận Tổ quốc các huyện, thành, thị quán triệt triển khai Nghị quyết một cách
đầy đủ, kịp thời.
Ngày 10/2/1011 Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An
đã ban hành kế hoạch số 67KH/MT.NA và ngày 25/2/2011 đã tổ chức lễ phát
động phong trào thi đua để thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2011-2020. Sau hơn 2 năm thực hiện, Mặt trận và các
đoàn thể trong tỉnh đã chủ động phối hợp với Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn
mới và các tổ chức trong hệ thống chính trị đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận

động nhân dân tích cực hưởng ứng thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với phong trào xây
dựng nông thôn mới. Đến nay cơ bản các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã nhận
thức đầy đủ, đúng đắn nội dung, ý nghĩa chương trình xây dựng nông thôn mới
đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt trận và các đoàn
thể nhiều địa phương đã có những cánh làm hay, sáng tạo trong thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới. Hệ thống chính trị ở các cấp được củng
3
cố và tăng cường, vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc các cấp được thể hiện rõ
trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại. Việc
triển khai thực hiện các nội dung trọng tâm về xây dựng nông thôn mới của Mặt
trận ở nhiều địa phương còn hạn chế; một số mục tiêu, kế hoạch xây dựng nông
thôn mới đề ra nhưng chưa đảm bảo về nguồn lực, chưa có nhiều giải pháp hay,
sáng tạo trong tổ chức thực hiện. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân phát
triển sản xuất, nâng cao thu nhập ở nhiều địa phương chưa được quan tâm đúng
mức, kết quả chưa cao. Một số mô hình chưa thực sự có hiệu quả, việc nhân
rộng mô hình còn hạn chế. Việc thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án
trong xây dựng nông thôn mới còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Công tác tham mưu, phối hợp hướng dẫn, chỉ đạo của Mặt trận một số huyện và
cơ sở trong việc thực hiện các nội dung, tiêu chí thuộc lĩnh vực được phân công,
phụ trách chưa quyết liệt, chưa được quan tâm đúng mức, việc thực hiện chế độ
báo cáo chưa nghiêm túc
Để phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An trong xây
dựng nông thôn mới, cần có sự nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này để từ đó tìm
ra những giải pháp có tính khả thi. Đáp ứng yêu cầu đó, tôi đã chọn vấn đề “Phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An trong xây dựng nông
thôn mới” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển nông nghiệp, nông thôn là vấn đề không mới. Trong mỗi giai

đoạn khác nhau của cách mạng, vấn đề này lại được đặt ra một cách khác nhau,
mặc dù chúng đều có những mục tiêu chung là làm thay đổi diện mạo nông thôn,
thúc đẩy nông nghiệp phát triển, đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh
cho người nông dân. Vì thế đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nông
thôn và vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong xây dựng nông thôn mới:
4
- Trên thế giới, trước hết phải kể đến công trình khoa học: “Chính sách
nông nghiệp trong các nước đang phát triển” của tác giả Frans Ellits do Nhà
xuất bản Nông nghiệp xuất bản năm 1994. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu
lên những vấn đề cơ bản của chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển
thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu thực tiễn ở nhiều nước châu Á,
châu Phi và châu Mỹ La Tinh. Cuốn sách đã đề cập những vấn đề chính sách
phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp,
chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh trong quá trình đô thị
hoá. Điều đặc biệt cần lưu ý là công trình này đã xem xét nền nông nghiệp của
các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá gắn liền
với thương mại nông sản trên thế giới, đồng thời cũng nêu lên những mô hình
thành công và thất bại trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết
vấn đề nông dân.
Công trình khoa học: “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân ở các nước
và Việt Nam” của các tác giả Benedict J.tria kerrkvliet, Jamesscott, Nguyễn Ngọc
và Đỗ Đức Định sưu tầm và giới thiệu, Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 2000.
Các tác giả đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm của nông dân, thiết chế nông thôn ở
một số nước trên thế giới và những kết quả bước đầu trong nghiên cứu làng nghề
truyền thống ở Việt Nam. Công trình này có giá trị tham khảo cho việc giải quyết
những vấn đề của chính sách phát triển nông thôn nước ta hiện nay như tương lai
của các trang trại nhà, nông dân với khoa học.
- Nhóm những công trình nghiên cứu trong nước:
+ Nhóm các văn bản của Trung ương và của các Bộ, ngành liên quan đến
vấn đề xây dựng nông thôn mới:

Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
5
Quyết định số 135/2009/QĐ-TTg ngày 4/11/2009 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu
quốc gia.
Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Chính phủ về việc ban
hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới và Quyết định số 342/QĐ-TTg
ngày 20/2/2013 của Thủ tướng chính phủ về việc sửa đổi một số tiêu chí Quốc
gia về nông thôn mới.
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
+ Nhóm các văn bản, chỉ thị của Tỉnh uỷ, Uỷ bân nhân dân Tỉnh Nghệ An
và Mặt trận Tổ quốc tỉnh về xây dựng nông thôn mới: Nghị quyết 03-NQ/TU về
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới của Ban thường vụ
Tỉnh uỷ và Quyết định số 3875/QDUBND ngày 31 tháng 8 năm 2010 của Uỷ
ban nhân dân tỉnh về “Phê duyệt kế hoạch thực hiện chương trình Mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới Tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010 - 2020”. Ban
thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 70/HD-MTTW-BTV ngày
20/8/2012 hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng nông thôn
mới. Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An số 132/HD-
MTNA-BTV ngày 17/9/2012 hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc các cấp trong tỉnh
Nghệ An tham gia xây dựng nông thôn mới.
+ Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn
nói chung.
Những nghiên cứu chuyên sâu về chính sách phát triển kinh tế xã hội nói
chung và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng được rất nhiều
người quan tâm. Công trình nghiên cứu: Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời
kỳ đổi mới của PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nhà xuất bản Thống kê, năm 2003.
Công trình này nghiên cứu về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần

6
20 năm. Công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp,
nông thôn nước ta như một niên giám thu nhỏ. Tác giả này đã luận giả rõ quá
trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong
những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình
phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở về những vấn đề
cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta được tác giả lý giải
với nhiều luận cứ có tính thuyết phục.
Công trình nghiên cứu: Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị
quyết X của Bộ chính trị do PGS.TSKH Lê Đình Thắng chủ biên, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1998 đã đề cập nhiều nội dung quan trọng liên
quan đến quá trình phát triển nông nghiệp của Việt Nam dưới sự tác động của hệ
thống chính sách, đi sâu phân tích một số chính sách cụ thể như chính sách đất
đai, chính sách phân phối trong phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Đề tài khoa học cấp nhà nước do GS.TS Hoàng Chí Bảo (chủ nhiệm đề
tài): Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp
nhà nước, Hà Nội, 1992.
Vũ Oanh: Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1998.
Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc: Quản lý xã hội nông thôn nước
ta hiện nay - Một số vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2001.
+ Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc
thực hiện các nhiệm vụ khác như Tác giả Phan Xuân Sơn (chủ biên), Vai trò của
các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002. Cuốn sách là một công trình góp phần trình bày
tương đối hệ thống quá trình hình thành, phát triển, nội dung, phương thức hoạt
động của các đoàn thể nhân dân nhằm thực hiện chức năng chính trị là cầu nối
7

giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; bảo vệ lợi ích và thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân, đặc biệt là việc bảo đảm dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tác giả Nguyễn Thị Lan đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai
trò của Mặt trận trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam xây dựng sự đồng thuận xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012. Tăng cường hoạt động giám sát
của Mặt trận Tổ quốc với việc thực thi quyền lực chính trị, Tạp chí Dân vận số 5,
năm 2012; Tăng cường hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, Tạp chí Lý luận chính trị số 12, năm 2011…
+ Sau khi Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 800/ QĐ - TTg, đã
có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong
xây dựng nông thôn mới như: Bùi Văn Nho (2010), “Cuộc vận động “toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” góp phần xây dựng nông
thôn mới ở Hưng Yên”, Tạp chí Mặt trận số 83; Hoàng Thị Làng (2010), “Cuộc
vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” góp
phần xây dựng nông thôn mới ở Yên Bái, Tạp chí Mặt trận số 84; Vũ Trọng Kim
(2011), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với phong trào thi đua “cả nước chung tay
xây dựng nông thôn mới””, Tạp chí Mặt trận số 93.
Nguyễn Hồng Chương (2012), "Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc
tham gia xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình", Tạp chí Mặt trận, số 107. Bùi
Nhân Sâm và Lê Thanh Nghị (2012), "Mặt trận các cấp ở Hà Tĩnh với việc xây
dựng nông thôn mới”, Tạp chí Mặt trận số 106, “Vai trò Mặt trận và các đoàn
thể trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Vũ Quang”, số 109; Nguyễn Thu
Hương (2013), “Xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư gắn với chương trình
xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Phú Thọ”, Tạp chí Mặt trận số 111; Xuân Huy,
Phương Thúc (2013), “Xây dựng nông thôn mới cần bổ sung những quan điểm
phát triển cộng đồng”, Tạp chí Mặt trận số 112, 113; Nguyễn Văn Hùng (2013),
8
“Góp phần xây dựng nông thôn mới trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh”,

Tạp chí Mặt trận số 115; Hồng Chương (2013), Lồng ghép phong trào xây dựng
nông thôn mới với cuộc vận động "toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư", Tạp chí Mặt trận, số 117, 118; Trần Vương Việt (2013), “Mặt trận và
các đoàn thể phối hợp xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Mặt trận số 121,122;
Nguyễn Thị Lan (2014), “Sự đồng thuận của nhân dân - bài học từ quá trình xây
dựng nông thôn mới ở xã Sơn Thành”, Tạp chí Mặt trận số 129, 130 v.v…
Những công trình đó cung cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ liệu
rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
và giải quyết vấn đề nông dân trong thời kỳ mới ở nước ta. Cho đến nay chưa có
công trình nghiên cứu khoa học nào trực tiếp nghiên cứu về vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An trong xây dựng nông thôn mới. Những công
trình khoa học nói trên là tài liệu tham khảo quý báu cho bản thân khi thực hiện
luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở đánh giá vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An
trong xây dựng nông thôn mới thời gian từ 2011 - 2013, từ đó đề xuất một số
phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tỉnh Nghệ An trong xây dựng nông thôn mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong xây dựng nông thôn mới.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
Nghệ An trong xây dựng nông thôn mới từ 2011 - 2013.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An trong xây dựng nông thôn mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
9
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh

Nghệ An trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 2011 - 2013, bao gồm Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội (Hội Cựu chiến binh, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) (gọi
chung là Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An). Còn những tổ chức khác là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An như: Liên đoàn lao động tỉnh, Hội
Người cao tuổi… ít liên quan đến thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới nên không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đánh
giá, so sánh, phương pháp phân tích điều tra, khảo sát, phương pháp thu thập số
liệu, xử lý thông tin…
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đánh giá thực
trạng và đề ra được các giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh Nghệ An trong xây dựng nông thôn mới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng vào việc phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An trong xây dựng nông thôn mới ở
Nghệ An và các địa phương khác, làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch định
các chính sách liên quan đến xây dựng nông thôn mới, làm tài liệu tham khảo
cho những người làm công tác học tập, nghiên cứu Chính trị học hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
10
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương; 7 tiết.
B. NỘI DUNG
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong hệ thống chính trị
1.1.1. Vị trí, vai trò
Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định rõ trong
Hiến pháp và các văn bản luật khác.
Điều 9 của Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền
thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước
11
chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực
hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát
hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức, nhà
nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có
hiệu quả”, điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận
không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, ngày 12/6/1999 Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất
hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”
(Khoản 2, Điều 1) [41; 9].
Như vậy, vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do chính nhân

dân, chính lịch sử xác định và thừa nhận.
Thực tiễn của cách mạng Việt Nam càng khẳng định vị trí, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta từ trước đến nay.
Thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt
trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp
cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội phản đế đồng minh (1930 -1936)
và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939).
Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.
12
Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời (1955) đã
đoàn kết tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đã cùng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và liên minh các lực
lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam đoàn kết nhân dân cả nước làm tròn
sứ mệnh lịch sử vẻ vang, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc XHCN, hoàn
thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan
trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ cách mạng mới.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong
quá trình đó còn có sự khác nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã
hội, các tôn giáo… Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã hội đang
đặt ra cho công tác vận động quần chúng nói chung và công tác Mặt trận nói
riêng những vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc tập hợp các lực lượng
yêu nước đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các thế lực thù địch đang thực
hiện chiến lược diễn biến hoà bình và nhiều âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một
sự nghiệp đầy khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy vai trò của Mặt trận
và các đoàn thể càng quan trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong
hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
13
Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định
trong Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [41;10].
Chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tập hợp, đoàn kết rộng rãi
các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường đồng
thuận trong xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
nhân dân.
Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định trong Điều 2 Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là:
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân;
- Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp
và pháp luật.
- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công
chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với
Đảng và Nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
- Cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân
dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc nêu trên, Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc từng cấp căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ và tình
hình cụ thể của mỗi địa phương để đề ra chương trình hành động cho Mặt trận cấp
mình trong mỗi kỳ đại hội, hay chương trình phối hợp thống nhất hành động từng
năm một cách phù hợp và có tính khả thi.
Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong những năm tới là: Tiếp tục
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố mở rộng tổ chức và hoạt động,
14
đồng thời đổi mới và nâng cao chất lượng mọi hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tích cực, chủ động, sáng tạo, tập hợp ngày càng rộng rãi mọi tầng lớp
nhân dân, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và quyền làm chủ
của nhân dân, giữ vững kỷ cương và ổn định xã hội, huy động tối đa các nguồn
lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm tốt vai trò là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân, cầu nối vững chắc giữa nhân dân với Đảng
và Nhà nước [31;9].
1.2. Một số vấn đề cơ bản về chương trình xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Một số khái niệm
- Nông nghiệp:
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên
liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều
chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao
gồm cả lâm nghiệp, thủy sản.
Ở Việt Nam, nông nghiệp là ngành kinh tế có tầm quan trọng sống còn, có
vị trí trọng yếu trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an ninh lương thực
cho quốc gia, cung cấp cho xã hội nguồn lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất công
nghiệp, đồng thời là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ.
- Nông dân:

Theo Bách khoa tri thức toàn thư Việt Nam: Nông dân là những người lao
động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu
bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất
đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu
khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò
nhất định trong xã hội.
15
Ở Việt Nam, nông dân là lực lượng xã hội đông đảo, trực tiếp thực hiện vai
trò quan trọng của nông nghiệp. Lao động nông thôn không chỉ là nguồn nhân lực
chủ yếu và quyết định trong phát triển sản xuất và kinh tế nông thôn mà còn có
đóng góp quan trọng trong hoạt động kinh tế - xã hội khác của cả nước.
Là một lực lượng xã hội đông đảo, giai cấp nông dân Việt Nam cùng với
giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa là những lực lượng cơ bản
của cách mạng. Giai cấp nông dân như Nghị quyết Trung ương 7 khoá X xác định
là chủ thể của quá trình phát triển. Do vậy một trong những vấn đề cần đặc biệt
quan tâm trong quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới là thực sự tôn trọng, phát huy tối đa vai trò vị thế chủ thể của nông
dân về chính trị, kinh tế và văn hóa Đây là nhóm dân số đông nhất ở nước ta hiện
nay, là giai cấp cách mạng, đồng hành cùng với giai cấp công nhân trong suốt chiều
dài lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng lại gặp nhiều khó khăn
trong đời sống và ít được hưởng lợi nhất của thành quả cách mạng. Nhìn chung,
trình độ học vấn của nông dân nước ta hiện nay còn thấp, nặng về kinh nghiệm, nên
cần kiên trì, lâu dài hỗ trợ nông dân về khoa học kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào nông nghiệp, nông thôn.
Giai cấp nông dân là một bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu xã hội,
trong khối liên minh giai cấp, dân tộc và xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, thúc đẩy và thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới.
- Nông thôn:
Nông thôn được coi là khu vực địa lý nơi đó sinh kế cộng đồng gắn bó, có
quan hệ trực tiếp đến khai thác, sử dụng, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên

nhiên cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay vẫn chưa có khái niệm chuẩn xác về nông thôn và còn có nhiều
quan điểm khác nhau.
Khi bàn về khái niệm về nông thôn mới người ta thường so sánh nông
thôn với đô thị. Có ý kiến cho rằng, khi xem xét nông thôn dùng chỉ tiêu mật độ
16
dân số, số lượng dân cư ở nông thôn thấp hơn so với thành thị. Có quan điểm lại
cho rằng dựa vào tiêu chí trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, có nghĩa là vùng
nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng thành thị.
Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào tiêu chí trình độ tiếp cận thị
trường, phát triển hàng hoá để xác định vùng nông thôn vì cho rằng vùng nông
thôn có trình độ sản xuất hàng hoá và khả năng tiếp cận thị trường thấp hơn so
với đô thị.
Một quan điểm khác lại cho rằng, vùng nông thôn là vùng có dân cư làm
nông nghiệp là chủ yếu, tức là nguồn sinh kế chính của cư dân nông thôn trong
vùng là từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng trong
từng khía cạnh cụ thể và từng nước nhất định, phụ thuộc vào trình độ phát triển,
cơ cấu kinh tế, cơ chế áp dụng cho từng nền kinh tế. Như vậy, khái niệm nông
thôn mới chỉ có tính chất tương đối, nó có thể thay đổi theo thời gian và theo
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Trong điều
kiện hiện nay ở Việt Nam chúng ta có thể hiểu:
“Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều
nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá - xã
hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của
các tổ chức khác” [18; 11].
Như vậy, nông thôn được hiểu là một hệ thống xã hội, một cộng đồng xã
hội có những đặc trưng riêng biệt như một xã hội nhỏ, trong đó có đầy đủ các
yếu tố, các vấn đề xã hội và các thiết chế xã hội. Nông thôn được xem xét như
một cơ cấu xã hội, trong đó có hàng loạt các yếu tố, các lĩnh vực nằm trong mối
quan hệ chặt chẽ với nhau.

Nông thôn nước ta là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về
thành phần tộc người, về văn hóa là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập
quán của cộng đồng.
Hệ thống xã hội nông thôn được xác định theo ba đặc trưng cơ bản sau:
17
+ Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội: Ở nông thôn, đặc trưng chủ yếu
ở đây là nông dân, ngoài ra ở từng xã hội còn có các nhóm thợ thủ công nghiệp,
buôn bán nhỏ, v.v
+ Về lĩnh vực sản xuất: Đặc trưng rõ nét nhất của nông thôn là sản xuất
nông nghiệp; ngoài ra, còn có thể kể đến cấu trúc phi nông nghiệp bao gồm:
dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp mà có vai trò rất lớn đối với lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp.
+ Về lối sống, văn hóa của từng loại cộng đồng: Nông thôn thường rất đặc
trưng với lối sống văn hóa của cộng đồng làng xã. Đặc trưng này bao gồm rất
nhiều khía cạnh như từ hệ thống dịch vụ, sự giao tiếp, đời sống tinh thần, phong
tục, tập quán, hệ giá trị, chuẩn mực cho hành vi, đến khía cạnh dân số, lối sống
gia đình, sinh hoạt kinh tế, ngay cả đến hệ thống đường xá, năng lượng, nhà ở
Đó là những đặc trưng cơ bản nhất về mặt xã hội học để nhận diện nông
thôn. Chính đặc trưng thứ ba đã tạo ra bản sắc riêng, diện mạo riêng cho hệ
thống xã hội nông thôn.
- Nông thôn mới:
Đã có một số diễn giải và phân tích về khái niệm thế nào là nông thôn
mới. Thông tư số 54/TT- NNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quy định: “Vùng/khu vực nông thôn mới Việt Nam
XHCN là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,
thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã”. Như
vậy, nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn chứ không phải là thị tứ; đó là
nông thôn mới chứ không phải là nông thôn truyền thống. Nếu so sánh giữa
nông thôn mới và nông thôn truyền thống phải bao hàm cơ cấu và chức năng
mới. Nông thôn mới bao hàm chức năng lịch sử vốn có của nông thôn là vùng

nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông nghiệp, vừa có
thuộc tính khác với nông thôn truyền thống.
Hiện nay có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm
Nông thôn mới. Theo tinh thần Nghị quyết 26 - NQ/T.Ư ngày 5/8/2008 của
18
Trung ương Đảng, nông thôn mới là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát
triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định,
giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự
được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được
nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đó, nông thôn mới có năm nội dung cơ bản. Thứ nhất là nông
thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại. Hai là sản xuất bền vững,
theo hướng hàng hóa. Ba là đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng
được nâng cao. Bốn là bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển. Năm là
xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.
Nông thôn mới còn thực hiện chức năng rất quan trọng - chức năng sinh
thái. Nếu sản xuất công nghiệp phát triển phá vỡ mối quan hệ tự nhiên vốn có
giữa con người và thiên nhiên, thì sản xuất nông nghiệp lại có chức năng phục
vụ hệ thống sinh thái, luôn luôn làm cho con người gần gũi, gắn chặt với thiên
nhiên và dung dưỡng thiên nhiên. Vì vậy, xây dựng nông thôn cần hạn chế việc
gạch hóa, bê tông hóa, phố hóa các làng quê truyền thống.
Để xây dựng nông thôn với năm nội dung nông thôn mới, Thủ tướng
Chính phủ cũng đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí
quốc gia về nông thôn mới bao gồm 19 tiêu chí.
Mô hình tiêu biểu trong xây dựng nông thôn mới hiện nay là nông thôn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, Hội nghị TW5 (khoá IX) của Đảng đề ra
mục tiêu, nội dung tổng quát và những giải pháp để đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết khẳng định: Công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xây dựng nông thôn mới:
19
Có thể nói, xây dựng nông thôn cũng đã có từ lâu tại Việt Nam. Trước đây,
có thời điểm chúng ta xây dựng mô hình nông thôn ở cấp huyện, cấp thôn, nay
chúng ta xây dựng nông thôn mới ở cấp xã. Sự khác biệt giữa xây dựng nông thôn
trước đây với xây dựng nông thôn mới chính là ở những điểm sau:
- Thứ nhất, xây dựng nông thôn mới là xây dựng nông thôn theo tiêu chí
chung cả nước được định trước.
- Thứ hai, xây dựng nông thôn địa bàn cấp xã và trong phạm vi cả nước,
không thí điểm, nơi làm nơi không, 9111 xã cùng làm.
- Thứ ba, cộng đồng dân cư là chủ thể của xây dựng nông thôn mới,
không phải ai làm hộ, người nông dân tự xây dựng.
- Thứ tư, đây là một chương trình khung, bao gồm 11 chương trình mục
tiêu quốc gia và 13 chương trình có tính chất mục tiêu đang diễn ra tại nông thôn.
1.2.2. Tiêu chí nông thôn mới
Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/04/2009
về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, bao gồm 19 tiêu chí và
được chia thành 5 nhóm cụ thể
- Nhóm I: Quy hoạch (có 1 tiêu chí).
- Nhóm II: Hạ tầng kinh tế - xã hội (có 08 tiêu chí).
- Nhóm III: Kinh tế và tổ chức sản xuất (có 04 tiêu chí).
- Nhóm IV: Văn hóa - xã hội - môi trường (có 04 tiêu chí).
- Nhóm V: Hệ thống chính trị (có 02 tiêu chí).
Theo đó Bộ tiêu chí đưa ra chỉ tiêu chung cả nước và các chỉ tiêu cụ thể theo
từng vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ,
Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long, phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi vùng.
19 tiêu chí để xây dựng mô hình nông thôn mới bao gồm: Quy hoạch và

thực hiện quy hoạch; giao thông; thủy lợi; điện; trường học; cơ sở vật chất văn
hóa; chợ nông thôn; bưu điện; nhà ở dân cư; thu nhập bình quân đầu người/ năm;
20
tỷ lệ hộ nghèo; cơ cấu lao động; hình thức tổ chức sản xuất; giáo dục; y tế; văn
hóa; môi trường; hệ thống chính trị vững mạnh; an ninh, trật tự xã hội.
Mỗi tiêu chí đều được quy định mức chỉ tiêu cụ thể đối với từng xã để
được công nhận đạt xã nông thôn mới. Cụ thể, về tiêu chí giao thông, 1 xã thuộc
Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ phải đạt 100% đường trục thôn, xóm
được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ giao thông vận tải, tiêu chí
này đối với xã vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là
70% còn đối với xã vùng Trung du miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Cửu
Long chỉ là 50%.
Bộ tiêu chí cũng quy định, tất cả các xã nông thôn mới đều phải có hệ
thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh, có nhà văn hóa và
khu thể thao đạt chuẩn của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch; có điểm phục vụ
bưu chính viễn thông, có Internet đến thôn, có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt
động có hiệu quả và không có nhà tạm, đột nát
Để công nhận là huyện nông thôn mới, phải có 75% số xã trong huyện đạt
nông thôn mới; với tỉnh, phải có 80% số huyện nông thôn mới thì sẽ đạt tỉnh
nông thôn mới.
1.2.3. Nội dung chủ yếu của chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới
- Về quy hoạch nông thôn mới: Đây là nội dung phải được triển khai thực
hiện trước một bước để làm căn cứ thực hiện các nội dung khác. Khi triển khai
quy hoạch phải rà soát, kế thừa, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch đã có, xây
dựng các quy hoạch theo yêu cầu của Chương trình xây dựng nông thôn mới
(quy hoạch chung, quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, quy hoạch các khu dân
cư, quy hoạch sản xuất ).
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đây là nội dung quan trọng để thúc đẩy sản
xuất, cải thiện điều kiện sống của nhân dân. Để chuẩn bị thực hiện nội dung này,

trước hết phải khảo sát, đánh giá thực trạng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có và
21
dựa trên các tiêu chí về cơ sở hạ tầng của xã nông thôn mới để xác định những
việc cần làm, những công trình cần xây dựng, đưa ra nhân dân thảo luận, lựa
chọn cách làm và thứ tự ưu tiên làm trước, làm sau theo hướng với những công
trình đã có thì tập trung cải tạo, nâng cấp để đạt chuẩn, chỉ xây dựng mới những
công trình chưa có; chỉ những công trình có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, vốn lớn,
mới lập dự án đầu tư và đấu thầu thi công, còn chủ yếu chỉ lập báo cáo kinh tế
kỹ thuật rồi tổ chức để nhân dân trong xã tự làm, có sự giám sát của cộng đồng.
Việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn lớn, theo quan
điểm phát huy nội lực, vì vậy, cần tuyên truyền vận động, huy động sự tham gia
đóng góp của nhân dân với nhiều hình thức đa dạng, như đóng góp bằng tiền,
bằng công sức, vật liệu và hiến đất cho xây dựng các công trình (mở rộng
đường, làm kênh mương, làm trường học, trạm xá ), kêu gọi sự hỗ trợ của các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, sự đóng góp xây dựng quê hương của con em
trong xã công tác ở các vùng trong cả nước Đồng thời, sự hỗ trợ ban đầu của
ngân sách Nhà nước Trung ương và địa phương có ý nghĩa rất quan trọng để tạo
lòng tin và tạo đà cho việc thực hiện Chương trình.
- Về phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Đây là
một trong những nội dung chủ yếu, quan trọng nhất của Chương trình, yếu tố
quyết định sự phát triển bền vững, lâu dài của mô hình, nhưng cũng là nội dung
khó nhất nên đòi hỏi các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo.
Cùng với phát triển sản xuất, các tổ chức kinh tế tập thể được củng cố và
phát triển thêm, gắn liền với mô hình sản xuất mới, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, là
cầu nối giữa hộ nông dân với các đơn vị khoa học, doanh nghiệp và thị trường.
- Về văn hóa, xã hội, môi trường: Quan tâm hơn đến phát triển giáo dục, y
tế, nước sạch và vệ sinh môi trường; cải tạo nhà ở (xóa nhà tạm), xây dựng ba
công trình vệ sinh ở hộ gia đình, phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao, khôi phục các lễ hội văn hóa truyền thống, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống và làm phong phú thêm đời sống tinh thần ở nông thôn.

22
- Về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh vừa là mục tiêu, vừa là cơ sở
bảo đảm việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Chương
trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới trước hết đòi hỏi phải nâng cao
vai trò làm chủ và sự tham gia chủ động, tích cực của mọi người dân, của tất cả
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở; đồng thời, thông qua đó củng cố,
xây dựng được hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.
1.3. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020
1.3.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với chính quyền tuyên
truyền, vận động nhân dân tích cực xây dựng nông thôn mới
Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định số
491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, Chương
trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai trên địa bàn
các xã trong phạm vi cả nước, nhằm phát triển nông thôn toàn diện, với nhiều
nội dung liên quan đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường,
hệ thống chính trị cơ sở.
Xây dựng nông thôn mới là một chương trình mới, với nhiều mục tiêu đề
ra, gây khó khăn cho các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện chương
trình. Do vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xác định công tác tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức của người dân về chương trình giữ một vị trí quan trọng.
Tuyên truyền xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của Mặt trận các cấp. Vì vậy,
cần phải thống nhất xây dựng nội dung tuyên truyền và tập trung tuyên truyền
sâu rộng, thường xuyên, liên tục trên cơ sở bám sát mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên
tắc, nội dung xây dựng nông thôn mới.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần quan tâm, chú trọng làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục một cách thường xuyên để các tầng lớp nhân dân nhận
23

×