1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ MINH LÝ
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HÀ TĨNH,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG
NGHỆ AN, 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả tình cảm chân thành của mình, Tôi xin được bày tỏ lòng biết
ơn đối với quý Thầy Cô Khoa Giáo dục chính trị, Phòng Sau đại học, Hội
đồng khoa học và Đào tạo chuyên ngành Chính trị học, Trường Đại học Vinh
đã giảng dạy, quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ Tôi trong quá trình học tập
cũng như hoàn thành luận văn. Đặc biệt, Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến PGS.TS Nguyễn Lương Bằng, người đã hết sức quan tâm, đã đầu tư
nhiều công sức, nhiệt tình hướng dẫn để bản thân Tôi hoàn thành Luận văn tốt
nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Thành phố Hà Tĩnh, Thành ủy Hà Tĩnh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp
đỡ Tôi thực hiện việc khảo sát và cung cấp số liệu để Tôi thực hiện công trình
nghiên cứu của mình. Cảm ơn sự quan tâm, động viên của bạn bè, gia đình
trong suốt quá trình học tập.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này, bản thân Tôi đã
rất tâm huyết và cố gắng, song chắc không thể tránh khỏi những thiếu sót. Với
tinh thần nghiêm túc và cầu thị, Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý
Thầy Cô, bàn bè và đồng nghiệp để việc nghiên cứu đề tài được hoàn thiện
hơn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Lý
3
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ
1.1. Lý luận chung về Dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sở trang 14
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam,
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở………………………………………………………………………trang 27
1.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trang 36
Kết luận chương 1 trang 50
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
2.1. Khái quát đặc điểm, tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Hà
Tĩnh trang 51
2.2. Đánh giá việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối
với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Hà Tĩnh trong
thời gian qua trang 57
Kết luận chương 2 trang 79
4
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
HIỆN NAY
3.1. Phương hướng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Hà Tĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh hiện
nay trang 81
3.2. Một số giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Hà Tĩnh,
Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay trang 84
Kết luận chương 3 trang 105
KẾT LUẬN trang 107
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI trang 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO trang 110
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Nội dung
1 GSĐTCĐ Giám sát đầu tư cộng đồng
2 HTCT Hệ thống chính trị
3 HĐND Hội đồng nhân dân
4 MTTQVN Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
5 QCDC Quy chế dân chủ
6 QLC Quyền làm chủ
7 TTND Thanh tra nhân dân
8 UBMTTQ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
9 UBND Ủy ban nhân dân
10 UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội
A. MỞ ĐẦU
6
1. Lý do chọn đề tài
Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ
kính yêu của dân tộc ta, người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta đã khẳng định rõ
quan điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam là:“ Nước ta
là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ do
dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Thấm nhuần quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã đưa ra phương châm: “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để phương châm đó trở thành hiện thực của đời
sống xã hội, ngày 18/02/1998 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII)
đã ban hành Chỉ thị số 30 – CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở và đã xác định: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho
thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới” [3,tr.1]. Ngay trong năm
1998, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 29/1998/NĐ – CP về việc ban
hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (sau đó được thay bằng
Nghị quyết số 79/2003/NĐ – CP và nay đã được nâng lên thành Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn). Trong chỉ thị số 30 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ đã quy
định trách nhiệm của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân bao gồm 3 việc: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tuyên
truyền. Giáo dục rộng rãi trong hội viên, đoàn viên và nhân dân Chỉ thị này và
các quy chế dân chủ ở cơ sở. Làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng các
quyền của mình đã quy định trong quy chế dân chủ cơ sở, đồng thời chấp
7
hành đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Mặt trận và các đoàn thể phối
hợp với chính quyền trong việc thực hiện và giám sát thực hiện các quy chế
dân chủ ở cơ sở” [3,tr.5-6]
Trên địa bàn thành phố Hà tĩnh trong thời gian qua, việc thực hiện các
nội dung trên đã có nhiều bước phát triển. Tuy vậy, còn có những hạn chế
như: Công tác chỉ đạo của Mặt trận Tổ quốc ở một số xã, phường trong thành
phố chưa đều, chưa phát huy hết quyền làm chủ của nhân dân; Còn bị động
lung túng trong việc đề ra biện pháp chỉ đạo phù hợp với tình hình, đặc điểm
của từng địa phương; Tính hình thức còn khá phổ biến trong nhiệm vụ triển
khai quy chế dân chủ của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc. Việc
kiện toàn củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc chưa được tập trung đúng mức: Một số cán bộ xã, phường, thành phố
chưa nắm được quy chế dân chủ và công tác Mặt trận tham gia thực hiện quy
chế dân chủ; hoạt động giám sát của Mặt trận và đoàn thể chính trị - xã hội ở
một số xã, phường còn rất yếu kém; công tác tuyên truyền vận động nhân dân
học tập nắm vững các quan điểm của Bộ chính trị, nội dung quyền làm chủ
trực tiếp trong quy chế còn làm lướt, hình thức; việc lồng ghép nội dung công
tác Mặt trận tham gia thực hiện quy chế dân chủ với 3 nội dung cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” chưa chặt
chẽ.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển đất nước. Đại
hội XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định và phát triển những chủ trương và
quan điểm lớn về đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ trong thời kỳ đổi
mới đã được đề ra tại các Đại hội VI, VII, VIII, IX, X. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai
trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đảng của các
8
tầng lớp nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên thực hiện dân
chủ”.
Như vậy, việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc thực hiện quy chế dân chủ trong tình hình mới nói chung và ở thành phố
Hà Tĩnh nói riêng ngày càng hết sức cần thiết và cấp bách. Với ý nghĩa trên,
Chúng tôi chọn vấn đề: “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Hà Tĩnh, Tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Vấn đề dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị đã được đề cập trong nhiều
nghị quyết của Đảng, văn bản, quyết định của Chính phủ và đã có khá nhiều
công trình nguyên cứu (luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí, các cuốn
sách…) bàn về đề tài này ở những góc độ, khía cạnh khác nhau và được chia
thành các nhóm vấn đề :
- Nhóm thứ nhất : Các công trình đã được nghiên cứu sâu về vấn đề dân
chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được đăng thành sách và những
bài viết trên các báo, các tạp chí:
Phan Xuân Sơn (Chủ biên, 2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo
đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS. Lương
Gia Ban (chủ biên,2003), Dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ nội vụ (năm 2001), Hướng dẫn triển khai quy
chế dân chủ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đồng chí Đỗ Mười (năm 1998) “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở”,Tạp chí cộng sản, số20. PGS.TS Dương Xuân Ngọc chủ biên học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở
cấp xã – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
Trương Quang Được (năm 2002) “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực
9
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí cộng sản, số 12. TS. Nguyễn Văn Sáu
– GS. Hồ Văn Thông (chủ biên,2002). Thực hiện quy chế dân chủ và xây
dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh
Tóm lại, nhóm vấn đề này các tác giả đã nghiên cứu một cách sâu sắc
và làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
- Nhóm thứ hai : Các cuốn sách,luận văn,bài báo, bài viết trên các tạp
chí viết về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc với việc thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở:
PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng (2012), “Giám sát, phản biện xã hội của
mặt trận và các đoàn thể trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Đại
học Sài Gòn, số 13 tháng 2/ 2013, tr.39-45. PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng
(2012), Bài viết “Vai trò giám sát, phản biện của mặt trận và các đoàn thể đối
với ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học, Đại học Vinh, tháng 4-2012, tr16-19. Với hai bài đó tác giả đã phân tích
sâu sắc những ưu, nhược điểm về vai trò của tổ chức mặt trận và các đoàn thể
trong hệ thống chính trị của Việt Nam hiện nay đồng thời đề xuất những giải
pháp để phát huy các tổ chức đó trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam.
Tác giả Lê Bá Lợi (2009), “Mặt trận tổ quốc Hồng Lĩnh với việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Mặt trận tổ quốc Việt Nam, số 71. Bài
viết này tập trung trình bày những kết quả đã đạt được và những mặt còn hạn
chế trong việc thực hiện quy chế dân chủ của Mặt trận Tổ quốc Thị xã Hồng
Lĩnh, và đề ra những giải pháp để thực hiện tốt việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác Mặt trận (2009), của
Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này tập trung nghiên cứu những
vấn đề về cơ sở lý luận, về nội dung, đặc điểm, vai trò, hoạt động của công
tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, quyển III(1974 – 2004 ), Nxb chính trị
10
quốc gia, Hà Nội. Tập trung nghiên cứu về lịch sử hình thành của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong lịch sử.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Sổ tay công tác
Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền (lưu hành nội bộ), Xưởng in Tổng
Cục công nghiệp quốc phòng. tập trung nêu lên những hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, cũng như việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, về Luật
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các nghị quyết, thông tư liên tịch, thông tri,
nghị định của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tóm lại, nhóm vấn đề này các tác giả trình bày về lý luận và thực tiễn
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, cũng như tình hình thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở tại địa phương
- Nhóm thứ ba : Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Chính
phủ trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở:
Đảng Cộng Sản Việt Nam (1997), Nghị quyết trung ương 3 khóa VIII,
nêu rõ yêu cầu tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của dân
qua các hình thức dân chủ đại nghị và dân chủ trực tiếp; Ban chấp hành Trung
ương Đảng (Ngày 18/2/1998), ra Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đã quy định Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị xã hội phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo
dục rộng rãi trong học viên, đoàn viên và nhân dân chỉ thị này và các quy chế
dân chủ ở cơ sở, sử dụng đúng quyền và nghĩa vụ công dân đã được quy định
trong quy chế dân chủ, phối hợp với chính quyền trong việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở.
Chính phủ (11/5/1998), ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP (Nay
là Nghị định số 79/2003/NĐ-CP). Ủy ban thường vụ Quốc hội (2007), Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban thường vụ Quốc
hội số 34/2007/PL – UBTVQH 11ngày 20 tháng 4 năm 2007. Pháp lệnh nêu
rõ những quy định chung, những nội dung công khai để nhân dân biết, những
11
nội dung nhân dân bàn và quy định, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến
trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, những nội dung nhân dân giám
sát, điều khoản thi hành trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường,
thị trấn.
Các công trình, bài viết mà Tôi được tiệp cận và tìm hiểu là vô cùng bổ
ích và quý giá đối với Tôi ,cung cấp những vấn đề về lý luận và thực tiễn về
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,về dân chủ,về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,
cũng như tình hình thực hiện dân chủ ở địa phương. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu về “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Hà Tĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” thì chưa
có công trình nào
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
3.1. Mục đích của đề tài:
Nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như làm rõ thực trạng hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị thành phố Hà Tĩnh về
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Đề ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò tích cực của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng
cường đoàn kết, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng thành phố
Hà tĩnh ngày càng giàu mạnh, dân chủ, văn minh trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
Làm rõ vị trí,vai trò,chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
vấn đề dân chủ, đoàn kết trong thời kỳ mới; trong việc tham gia thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở.
Thực trạng việc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà tĩnh tham gia thực
hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thành phố Hà tĩnh - thực trạng, nguyên
12
nhân và những kinh nghiệm thực tiễn. Đề ra một số giải pháp nhằm phát huy
vai trò tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Hà Tỉnh, tỉnh Hà tĩnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Đối tượng của đề tài:
Đề tài nghiên cứu vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung vào nghiên cứu vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là:
- Về không gian: trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh – Tỉnh Hà Tĩnh.
- Về thời gian: trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ vả
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận: quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
Phương pháp cụ thể: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài góp phần bổ sung những kinh nghiệm, giải pháp nhằm thực hiện
tốt việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Hà Tĩnh và những địa
phương khác có điều kiện, hoàn cảnh tương đồng. Từ đó, tạo điều kiện để
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.
13
Có thể làm tư liệu tham khảo cho sinh viên đang học ngành chính trị.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,các phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố Hà Tĩnh,
Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại thành phố
Hà Tĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
14
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ
1.1. Lý luận chung về dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Ở đây, “Dân chủ” là một từ ghép gồm 2 chữ:
“demos” (có nghĩa là người bình dân, dân chúng) và “kratia” (chữ gốc là
“kratos” – có nghĩa là quyền cai trị, là sức mạnh). Do vậy, từ “Demoskratia”
có nghĩa là quyền lực của nhân dân, chính quyền của nhân dân. Dân chủ là
một chính quyền “của dân, do dân và vì dân”. Như vậy dân chủ là một thể chế
do dân làm chủ và dân chủ trước hết là chế độ chính trị trong đó quyền lực tối
cao thuộc về nhân dân, do nhân dân thực thi, tự bản thân thực thi hoặc thông
qua các đại biểu mà mình bầu ra.
Đối với Nhà nước ta bản chất của nó được khẳng định trong Hiến pháp,
là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tuy vậy, trong thực tế, cán bộ, công
chức Nhà nước chưa thực sự là người công bộc của dân như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã mong muốn. Nếu không thực hiện dân chủ, Nhà nước sẽ trở nên độc
tài, chuyên chế, do đó dân phải học để làm chủ; Nhà nước phải bảo đảm cơ
chế để lắng nghe dân. Do vậy, nói tới dân chủ có nghĩa là nói đến mối quan
hệ giữa dân và chính quyền mà ở đó chính quyền phải lắng nghe dân, phải tạo
điều kiện để người dân được quyết định hoặc tham gia quyết định những vấn
đề liên quan đến cuốc sống và sự phát triển của mỗi người, của cả cộng đồng.
điều này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng ở cấp xã, phường, thị trấn.
Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động
như sản xuất, công tác,… của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ
15
phận lãnh đạo cấp trên. Như vậy, cấp cơ sở là cấp xã trong quan hệ với cấp
địa phương (gồm cấp tỉnh và cấp huyện) và với cấp Trung ương. Chính quyền
cơ sở là chính quyền cấp xã. Bởi vì, căn cứ vào việc phân bổ dân cư và lãnh
thổ thành đơn vị hành chính thì chính quyền cấp xã và cấp tương đương là
cấp chính quyền cơ sở. Vì đây là cấp chính quyền cuối cùng gần và sát dân
nhất. Còn thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương là theo đơn vị dân
cư – với tư cách là những cộng đồng người nhỏ nhất sinh sống cùng nhau. Ở
đây, đời sống dân cư diễn ra tự quản là chính.
Dân chủ ở cơ sở là dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn và thôn, làng, ấp,
bản, khóm, tổ dân phố (là các hình thức cộng đồng dân cư như đã nêu). Dân
chủ ở cơ sở chủ yếu là thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp (mặc dù có cả
dân chủ đại diện), và các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư.
Dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa vô cùng to lớn, vì cơ sở là nơi trực tiếp thực
hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi
cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp nhất và rộng rãi
nhất.
1.1.1.2. Khái niệm quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thành quả quan trọng. Đất nước đã
được độc lập, tự do, thống nhất và ngày nay toàn Đảng, toàn dân đang ra sức
phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết
điểm, tình hình tiêu cực, suy thoái phẩm chất vẫn có chiều hướng phát triển,
QLC của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan
liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân
vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy lùi
được.
16
Trước tình hình đó, Nghị quyết TW 3 khóa VIII (6/1997) nêu rõ yêu cầu:
Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của dân qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo trong sạch, vững mạnh và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà
nước.
Ngày 18/2/1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra chỉ thị 30/CT –
TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm: “giữ vững và
phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ
của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm
soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn
tham nhũng” [3,tr.1].
Thực hiện chỉ thị 30/CT – TW, UBTVQH (khóa X) ra Nghị quyết số 45 –
1998/ NQ - UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
ở xã. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của UBTVQH, ngày
11/5/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 29/1998/NĐ – CP (nay là
Nghị định số 79/ 2003/ NĐ – CP) về việc ban hành QCDC. Nghị quyết nêu
rõ: “Điều 1: Ban hành kèm theo Nghị định này bản Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã. Điều 2: Quy chế này áp dụng đối với cả phường và thị trấn. Ban Tổ
chức - Cán bộ Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Quy chế này đối với
Phường và thị trấn” [9,tr.1].
QCDC ở cơ sở còn bao gồm cả dân chủ trong cơ quan hành chính Nhà
nước và đơn vị doanh nghiệp Nhà nước với các văn bản quy định riêng.
Những văn bản trên đây từ chủ trương của Đảng đến việc thể chế hóa bằng
các văn bản pháp luật của Nhà nước thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước ta đối với việc xây dựng thể chế về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện phương
17
châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thể hiện bản chất Nhà nước
là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở gồm các văn bản quy phạm pháp luật
quy định những biện pháp làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở xã, phường,
cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị doanh nghiệp Nhà nước. Đó là những
điều nhân dân phải được biết, những việc nhân dân được làm để Nhà nước
quyết định hoặc nhân dân được quyết định và những việc nhân dân được giám
sát, kiểm tra, nhằm phát huy QLC, sức sáng tạo của nhân dân.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật quy định
cụ thể những việc HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai
để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham
gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước quyết định; Những việc dân giám sát,
kiểm tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã nhằm phát huy
QLC, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh
thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ,
Chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc
phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, Đảng
viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã, vì vậy thực chất là một định chế pháp lý bảo đảm
QLC của dân.
1.1.1.3. Khái niệm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sữa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt
18
Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu qủa” [17,tr.68-69].
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992, Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí,
nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành
viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” [41,tr.5]. Đây là
quan điểm, chủ trương chiến lược của Đảng ta về MTTQVN trong thời kỳ đổi
mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, được thể chế hóa và bảo đảm bằng pháp luật của Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm, nội dung và vai trò của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sở (xã, phường)
1.1.2.1. Đặc điểm của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Thứ nhất, khác với các quy chế thông thường, quy chế thực hiện dân chủ
là một văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể hóa và luật hóa phương châm:
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” bằng một Nghị định của Chính
phủ căn cứ vào Nghị quyết của UBTVQH (Nghị quyết số 45 – 1998/ NĐ –
19
UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn)
Thứ hai, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở cơ sở, phát huy QLC của nhân dân gắn liền với cơ chế “ Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
Thứ ba, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phát huy chế độ dân chủ đại
nghị, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương,
cơ sở, quy định những nghĩa vụ cụ thể của chính quyền trong việc bảo đảm
QLC của người dân ở cơ sở
Thứ tư, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thực hiện chế độ dân chủ trực
tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc
quan trọng, thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân
Thứ năm, Có sự tham gia của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở mọi
khâu trong thực hiện quy chế ở cơ sở để phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ
của nhân dân trong việc thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thứ sáu, Mục đích của việc ban hành QCDC ở xã là nhằm phát huy
QLC, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh
thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết xây dựng Đảng bộ,
chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc
phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, Đảng
viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ bảy, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thể hiện yêu cầu dân chủ
phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và Pháp luật, đi đôi với trật tự, kỷ cương,
quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ,
vi phạm Hiến pháp, Pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập
thể, quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân
20
1.1.2.2. Nội dung của quy chế thực hiện dân chủ cơ sở
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã do Chính phủ ban hành ngày
11/5/1998, nay là Nghị định số 79/2003/NĐ – CP, gồm Lời nói đầu, 7
chương và 25 điều
Về nội dung, Quy chế dân chủ quy định những quyền của nhân dân ở cơ
sở được biết và hình thức biết những thông tin liên quan đến pháp luật, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là những thông tin liên
quan trực tiếp đến đời sống dân sinh. Quy chế dân chủ cũng quy định những
việc để nhân dân bàn và quyết định cũng như những hình thức thực hiện; Quy
định những việc nhân dân ở cấp xã có quyền giám sát, kiểm tra và những
phương thức để thực hiện giám sát, kiểm tra; Việc xây dựng cộng đồng dân
cư thôn, làng, bản, ấp và những hình thức tổ chức. Đặc biệt, để thực hiện
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, quy chế dân chủ
quy định cơ chế thực hiện dưới hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện, trong đó ở cấp cơ sở, dân chủ trực tiếp là quan trọng. Quy chế dân chủ ở
cơ sở quy định cụ thể các loại công việc để: Dân biết, dân bàn, dân giám sát,
dân kiểm tra.
Điều 1 Quy chế quy định : “Quy chế này quy định cụ thể những việc
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã (sau đây gọi là chính quyền xã)
phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết; những việc dân bàn và quyết
định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước
quyết định; những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện quy
chế dân chủ ở xã” [11,tr.2].
Về dân biết, quy chế quy định quyền của mọi người dân được thông tin
về những chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, các vấn đề liên
quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân tại cơ sở … và nghĩa vụ
của chính quyền phải thông tin kịp thời và công khai cho người dân.
Về dân bàn, có 2 loại gồm:
21
- Loại thứ nhất là, những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
(điều 7, điều 8, điều 9).
- Loại thứ hai là, những việc nhân dân bàn,tham gia ý kiến, Chính
quyền xã quyết định. (điều 10, điều 11).
Các việc dân bàn và quyết định trực tiếp là các loại việc có huy động sự
đóng góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng hương ước, quy ước
nội bộ. Đây là quy định rất mới không những thực hiện QLC của nhân dân mà
còn chống được tệ nạn tham nhũng, lãng phí.
Về dân giám sát, kiểm tra, quy chế quy định dân giám sát, kiểm tra các
loại công việc từ hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân đến các
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kết quả quyết toán công trình
do dân đóng góp, việc quản lý sử dụng đất đai, thu chi các quỹ, việc thực hiện
chính sách đối với người có công với nước… Dân giám sát, kiểm tra tức là
thực hiện quyền lực của mình trong quá trình quản lý đất nước.
1.1.2.3. Vai trò của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Thứ nhất, Thực hiện quy chế dân chủ góp phần bảo đảm quyền lực chính
trị của nhân dân lao động, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của dân, do dân, vì dân ngay ở cấp chính quyền cơ sở ở nước ta
hiện nay.
Trong một thời gian dài trước đây, nhiều địa phương đã không thật sự
quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong việc giải quyết các vấn
đề của làng xã. Do vậy, khi QCDC được triển khai, người dân rất phấn khởi
và nhiệt tình hưởng ứng.Nơi nào làm tốt việc xây dựng và thực hiện quy chế,
nơi ấy sẽ tạo ra được một phong trào sinh hoạt chính trị rộng lớn, có tác dụng
đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Thông qua quá trình học tập, xây dựng và
thực hiện quy chế, cán bộ, nhân dân thấy rõ hơn quyền cũng như trách nhiệm
của mình trong việc xây dựng đời sống dân chủ ở cơ sở, ý thức làm chủ, ý
thức công dân của người dân đã có sự chuyển biến khá rõ. Ngay từ trong cộng
22
đồng dân cư nhỏ hẹp như xã, phường, người dân đã có thể trực tiếp bày tỏ
chính kiến của mình, trực tiếp quyết định và giám sát các công việc của cộng
đồng xã hội.
Với những thông tin về chính sách, pháp luật, về nội dung các hoạt động
của địa phương, của cơ sở được đưa ra kịp thời và công khai, với những điều
người dân được bàn bạc thảo luận và quyết định trực tiếp hoặc tham khảo cho
sự quyết định của cấp chính quyền cơ sở, người dân đã từng bước học làm
chủ, tập làm chủ và dần biết làm chủ.
Thứ hai, Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một giải pháp hạn chế sự tha hóa
của quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động được thể hiện tập trung thông
qua quyền lực Nhà nước. Với hình thức dân chủ đại diện, quyền lực Nhà nước
sẽ được giao cho một số người đảm nhận, chịu trách nhiệm quản lý, điều hành
công việc chung. Nhưng quy luật chung là khi tập trung quyền lực thì dễ dẫn
đến lạm quyền, lộng quyền. Những người đại diện cho quyền lực của nhân
dân rất dễ rơi vào sự tha hóa, độc đoán, quan liêu nếu không có một cơ chế
kiểm soát quyền lực. Trong thời gian qua ở nước ta, hiện tượng những người
có chức, có quyền đã lợi dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích riêng cho mình
không phải là ít. Họ dựa vào địa vị của mình, mặc dù địa vị mà họ có được là
do nhân dân bầu ra, để nhận hối lộ, tham nhũng, làm trái với mục tiêu của
Đảng. Họ trở nên những người xa lạ với dân, với Đảng, với Nhà nước. Bộ
máy chính quyền trở thành quan liêu, bảo thủ và trì trệ, nó không còn đại diện
được cho lợi ích của nhân dân, của toàn xã hội nữa mà chính nó lại vi phạm
đến lợi ích của nhân dân lao động, đến lợi ích mà nó đại diện. Để hạn chế sự
tha hóa của quyền lực Nhà nước, cần phải làm trong sạch bộ máy lãnh đạo
của Đảng và chính quyền ngay ở từng cơ sở. Từ khi triển khai thực hiện quy
chế, người dân đã biết sử dụng QLC của mình để đấu tranh với những hiện
tượng tiêu cực ấy. Từ những quy định rõ ràng các việc cần thông báo cho dân
23
biết, những việc dân được bàn, những việc dân được giám sát, kiểm tra, tài
chính được công khai, minh bạch đã làm hạn chế rất nhiều các biểu hiện tha
hóa của các cán bộ, đảng viên trong bộ máy quyền lực nhà nước.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ làm cho nhân dân lao động từng
bước thể hiện quyền làm chủ mà còn làm cho các cấp ủy đảng, chính quyền,
đảng viên nhận thức rõ hơn về quyền làm chủ của nhân dân cũng như ý thức
được trách nhiệm phục vụ nhân dân, phát huy dân chủ, giữ gìn ký cương,
phép nước. Ở những nơi làm tốt việc triển khai thực hiện quy chế, ý thức xây
dựng cộng đồng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được nâng lên. Nó
không chỉ góp phần nâng cao ý thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về
thực hiện và phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân mà còn làm
chuyển biến một bước về phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng, phương
thức điều hành và lề lối làm việc của các cấp chính quyền, nhất là ở cơ sở.
Nhân dân đã mạnh dạn thẳng thắn, cởi mở, chân thành phê bình cán bộ, đảng
viên, đóng góp xây dựng tổ chức Đảng, giúp tổ chức Đảng loại được nhiều
cán bộ, đảng viên kém phẩm chất, năng lực, thoái hóa, biến chất. Nhiều tổ
chức Đảng biết gắn với việc xây dựng chỉnh đốn Đảng (theo tinh thần Nghị
quyết TW 6 lần hai) làm cho mối quan hệ giữa đảng viên và dân gắn bố với
nhau hơn, Đảng và dân gần nhau hơn, tin nhau hơn, nhờ vậy tổ chức Đảng
thêm vững mạnh.
Bên cạnh đó nhiều cấp chính quyền địa phương đã rà soát, loại bỏ các
văn bản quy định không phù hợp với QCDC, cản trở QLC của dân và công
tác quản lý của cơ quan Nhà nước, công khai hóa các văn bản thủ tục hành
chính, phí, lệ phí, thời gian giải quyết công việc, lịch tiếp dân… tăng cường
xuống cơ sở để nghe trực tiếp ý kiến dân, đối thoại, tháo gỡ những vướng mắc
của dân một cách kịp thời. Làm cho mối quan hệ của dân với chính quyền
ngày một gắn bó, uy tín của chính quyền cơ sở được nâng lên và hoạt động
của bộ máy chính quyền có hiệu quả hơn trước.
24
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một cuộc cách mạng có tác dụng sâu sắc
đến ý thức và phong cách, phương thức lãnh đạo của cấp ủy, sự điều hành của
chính quyền cơ sở đối với sự tôn trọng QLC của người dân. Từ đó cán bộ sát
dân hơn, bớt đi thái độ hống hách, cửa quyền, nhũng nhiểu dân. Không những
thế cán bộ còn chăm lo giữ gìn phẩm chất đạo đức của mình, từ đó làm cho
mối quan hệ giữa dân với chính quyền cởi mở hơn, góp phần làm cho chính
quyền hoạt động có hiệu quả hơn.
Thứ ba, Thực hiện dân chủ ở cơ sở khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của
nhân dân lao động
Phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây
dựng Nhà nước và xã hội, giải quyết những về đề lớn từ quốc kế dân sinh đến
những việc của đời sống cộng đồng, đời sống dân cư. Thông qua hình thức
hoạt động dân chủ trực tiếp tại cơ sở, người dân có điều kiện tham gia ý kiến,
có điều kiện tập dượt, trưởng thành trong vai trò của người làm chủ đích thực.
Khi Đảng và Nhà nước quan tâm, biết lắng nghe và học hỏi dân, biết bồi
dưỡng và nâng cao đời sống của dân thì nhân dân không chỉ nói lên điều mình
mong muốn mà còn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng Đảng và Nhà nước cần
phải hành động như thế nào, bằng phương pháp công cụ nào để giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội. Chính những sáng kiến đầy tâm huyết của dân đã tạo
nên nguồn trí tuệ quý giá không gì thay thế được cho những chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo ra những bước phát triển
vững chắc của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập.
Thông qua những hoạt động dân cử ở cơ sở, Đảng và Nhà nước có thể
nhận được những thông tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các
chủ trương đã ban hành. Nhờ vậy, Đảng và Nhà nước sẽ kiểm nghiệm được
đường lối, chính sách có xa rời thực tế hay không từ đó mà khắc phục bệnh
quan liêu, duy ý chí, xa rời thực tế, nhằm tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng và dân. Ở địa bàn xã, quy chế đã được sự nhiệt tình hưởng ứng của
25
nhân dân và sự chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền nên đem lại nhiều kết
quả thiết thực trong lĩnh vực phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng. Khi
tài chính được công khai, dân được tham gia góp ý kiến về những công việc
cụ thể, người dân sẵn sàng đóng góp tiền của, công sức để xây dựng các công
trình phục vụ thiết thực cho cuộc sống. Ví như những căn nhà tình nghĩa,
trường học, đường liên thôn, liên xã… với giá trị hàng trăm triệu đến hàng
chục tỷ đồng đã được xây dựng. Nhiều công trình trước đây chờ xin ngân
sách cấp trên nhưng nay đưa ra dân bàn, dân quyết định thì lại triển khai
nhanh gọn. Các công trình hoàn thành nhanh gọn và đạt hiệu quả cao. Kể cả
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi hợp tác xã, quản lý đất đai được
nhân dân giám sát chặt chẽ nên góp phần vào ổn định nông thôn, kinh tế phát
triền theo chiều hướng tiến bộ.
Thứ tư, Thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn với phát triển văn hóa xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng
con người để phát triển văn hóa.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa
tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn
hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa
giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người
trong phát triển kinh tế. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn
dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và Chỉ thị 30 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng, các địa phương đã kết hợp chặt chẽ cả hai nội
dung: Triển khai quy chế dân chủ với “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng