BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ HỒNG THỦY
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU GƯƠNG TRONG
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 6 Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN – 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ HỒNG THỦY
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU GƯƠNG TRONG
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 6 Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH
Chuyên ngành: Lý luận & phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Trung Thành
NGHỆ AN – 2014
4
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều thầy, cô giáo trong và ngoài
trường.
Trước hết, xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy, cô trong khoa
Giáo dục chính trị trường Đại học Vinh đã tham gia quản lý, giảng dạy, cung
cấp tài liệu, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập nghiên cứu.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy TS. Đinh
Trung Thành - Người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, động viên và giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Với tình cảm chân thành xin được gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các
thầy giáo, cô giáo dạy môn GDCD và các em học sinh ở ba trường THCS Tân –
Hoa, THCS Kỳ Tây, THCS Kỳ Thịnh, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã tạo điều
kiện, động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng song luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của quý
thầy, cô giáo và đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Lê Thị Hồng Thủy
MỤC LỤC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 3
CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐC : Đối chứng
GDCD : Giáo dục công dân
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
PP : Phương pháp
PPDH : Phương pháp dạy học
PPNG : Phương pháp nêu gương
QTDH : Quá trình dạy học
THCS : Trung học cơ sở
TN : Thực nghiệm
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
A . MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Chất
lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn
nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu
cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với
nâng cao chất lượng giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học còn lạc hậu, đổi mới chậm… chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [9; 168]. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy
học là một trong những yêu cầu cấp thiết của giáo dục, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai nhiều chủ trương
nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và bộ môn GDCD ở bậc Trung học
cơ sở nói riêng như: cải tiến nội dung chương trình, sách giáo khoa; đào tạo bồi
dưỡng giáo viên để nâng cao chất lượng đội ngũ; khuyến khích giáo viên bộ môn
tích cực đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Thực tế cho thấy, vấn đề sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định
nhưng trong quá trình sử dụng vẫn còn thiếu sự nhuần nhuyễn và linh hoạt.
Đối với các trường Trung học cơ sở ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh trong
những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học trở thành xu hướng diễn ra
mạnh mẽ. Việc đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục được các trường hết
sức quan tâm. Kết quả khảo sát cho thấy muốn đạt kết quả trong dạy và học môn
GDCD thì không chỉ chú trọng đổi mới nội dung mà còn phải chú trọng đổi mới
phương pháp. Cùng với xu hướng chung, để nâng cao chất lượng dạy và học môn
GDCD ở các trường Trung học cơ sở ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, phần lớn
giáo viên đã có sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực trong đó có
7
sử dụng phương pháp nêu gương. Kết quả cho thấy, chất lượng dạy và học môn
GDCD ở trường Trung học cơ sở trên địa bàn huyện đã có những chuyển biến
tích cực.
Tuy nhiên cũng cần thẳng thắn chỉ ra rằng, để có một giờ dạy tốt, lôi cuốn
được các em học sinh, người giáo viên cần sử dụng linh hoạt và kết hợp các
phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục, đặc biệt chú trọng khâu thực
hành, gắn lý thuyết với thực tiễn, coi trọng và nêu gương đạo đức tốt cho học sinh
noi theo. Phấn đấu giờ GDCD thực sự là giờ học đầy ý nghĩa về đạo đức lối sống,
phẩm hạnh với không khí tiết học làm sao thoải mái cởi mở, thân tình, gần gũi.
Dạy học bằng kiến thức và dạy cả bằng tấm gương sống của chính mình.
Vì vậy, lựa chọn phương pháp dạy học cho học sinh THCS thông qua môn
GDCD như thế nào cho phù hợp là vấn đề cần được nghiên cứu một cách nghiêm
túc, thấu đáo. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Sử dụng phương pháp
nêu gương trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 6 ở các trường Trung học
cơ sở trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa
học giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử giáo dục phương Đông, Khổng Tử là người đầu tiên xây dựng
nội dung và phương pháp dạy học tương đối hệ thống, có nhiều điểm tiến bộ,
đến nay vẫn còn giá trị. Tư tưởng của Khổng Tử là nền tảng cho các thế hệ học
trò của ông kế thừa, phát triển để tạo nên một nền Nho giáo đồ sộ chi phối gần
như toàn bộ nền giáo dục phương Đông. Nổi bật là phương pháp nêu gương.
Khổng Tử quan niệm: Phải lấy bản thân mình làm gương sáng để cảm hóa học
sinh. Để thực hiện nó, trong cuộc sống hằng ngày Khổng Tử rất chú trọng từ
hành xử đến việc nghiên cứu học tập của bản thân nhằm tác động đến môn đệ.
Ông được coi là “Vạn thế sư biểu”. Ngày nay, gạt bỏ những yếu tố duy tâm và
tư tưởng phong kiến trong quan điểm của Khổng Tử, nhiều nhà giáo dục trên thế
giới đã nghiên cứu và đánh giá cao những giá trị trường tồn trong quan điểm của
8
ông. Những giá trị đó được vận dụng rộng rãi trong các lĩnh vực giáo dục. Như
vậy, phương pháp nêu gương đã được biết đến từ lâu trong lịch sử như một yêu
cầu, một phương thức giáo dục. Tuy nhiên, Nho giáo chỉ đặt trọng tâm nêu
gương vào những người quản lý xã hội hay bậc “quân tử”, mà không chú trọng
đến giáo dục cho tầng lớp khác.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới sự nghiệp giáo dục
con người, sự nghiệp trồng người. Người đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo
phương thức của người xưa: “Dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” (nghĩa là trước
hết phải giáo dục bằng tấm gương sống của chính mình, sau đó mới giáo dục
bằng lời nói). Người quan niệm, giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
Vì vậy, ai cũng có thể và cần phải luôn luôn nêu tấm gương về đạo đức. Trong
đó, việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ càng cần phải chú trọng đến việc nêu
gương “người tốt, việc tốt”, cha mẹ, thầy cô giáo và những gương điển hình
luôn là những tấm gương sáng có tác dụng giáo dục rất lớn. Người nói: một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Tư tưởng đó
vẫn giữ nguyên giá trị và càng trở nên cần thiết trong tình hình hiện nay, khi
toàn Đảng và toàn dân ta đang tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Có thể khẳng định rằng, trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, phương pháp nêu gương được Người
đánh giá cao và khuyến khích sử dụng trong công tác giáo dục cho thế hệ trẻ.
Việc nghiên cứu các phương pháp dạy học cho học sinh nói chung và học
sinh THCS nói riêng cũng đã dược đề cập đến từ rất lâu trong các giáo trình giáo
dục học dùng trong các trường sư phạm ở cả nước ngoài và trong nước. Có thể
lấy ví dụ như:
Giáo dục học của Giáo sư Hà Nhật Thăng và Giáo sư Đặng Vũ Hoạt;
Lý luận dạy học bộ môn GDCD của Vương Tất Đạt, Phùng Văn Bộ…
Các tác giả đều nêu các phương pháp dạy học. Có những công trình đề cập
tới phương pháp nêu gương nhưng chưa phải là giải pháp và chưa cấu
9
thành giải pháp cụ thể phục vụ cho công tác dạy và học môn GDCD.
Vấn đề dạy học và phương pháp dạy học là vấn đề đã được nhiều nhà giáo
dục, hoạt động xã hội quan tâm nghiên cứu. Tuy khai thác ở nhiều khía cạnh
khác nhau, nhưng nhìn chung các tác giả luôn hướng đến việc phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Nhóm nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực nói chung:
Nhà giáo Phan Trọng Ngọ (2005) đã có công trình, “Dạy học và phương
pháp dạy học trong nhà trường”, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
PGS. TS Vũ Hồng Tiến: Một số phương pháp dạy học tích cực - Tài liệu
bồi dưỡng giáo viên dạy chương trình môn Giáo dục công dân (Chuyên đề 2),
2007. Tác giả đã chỉ rõ phương pháp truyền thống chỉ diễn giảng, truyền thụ
kiến thức một chiều, còn phương pháp dạy học tích cực buộc người học phải
nghiên cứu tìm tòi, phát hiện và giải quyết vấn đề, tạo nên sự tác động qua lại
giữa thầy và trò, giữa trò và trò.
Công trình “Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở
trường Trung học phổ thông” của các tác giả Nguyễn Văn Cường – Bernd
Meier, Berlin/ Hà Nội 2010, thuộc Dự án phát triển giáo dục Trung học phổ
thông, chủ yếu nói về cơ sở lí luận và thực tiễn đổi mới phương pháp dạy học,
một số quan điểm, kỹ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo.
Phạm Văn Đồng: Phương pháp dạy học tích cực một phương pháp vô cùng
quý báu, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 271/1994. Tác giả đã chỉ ra phương
pháp dạy học tích cực là phương pháp người dạy phải đưa ra các câu hỏi có tính
khêu gợi đòi hỏi người nghe phải suy nghĩ, tìm tòi để người học tự học và ham
học.
Tác giả Nguyễn Kỳ: Phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm
trung tâm, Nxb Giáo dục, Hà Nội (1995). Ở công trình của mình, tác giả đã đưa
ra các đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực như: trò tự tìm ra kiến thức
bằng hoạt động của chính mình, tự đánh giá, tự sửa sai, tự điều chỉnh; trong bài
10
viết Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, Tạp chí nghiên cứu giáo dục,
số 3/1996, tác giả đã nêu lên thực chất của giảng dạy tích cực lấy người học làm
trung tâm quá trình dạy tự học và quy trình dạy tự học.
Tác giả Trần Bá Hoành, trong cuốn sách “Đổi mới phương pháp dạy học,
chương trình và sách giáo khoa” (2007) gồm tập hợp 26 bài viết đề cập đến
những vấn đề phục vụ công cuộc đổi mới PPDH đang diễn ra sôi nổi tại các
trường học đó là dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát triển các phương pháp
dạy học tích cực, tăng cường phương pháp học tập, tự học. Ngoài ra còn có
nhiều công trình nghiên cứu khác nhằm hướng đến đổi mới phương pháp dạy
học.
Nhóm các tác giả khai thác về phương pháp nêu gương:
Tác giả Nguyễn Thị Thọ với bài viết “Đạo đức thầy giáo xưa và nay”, trên
Tạp chí Giáo dục số 150 (11/2006), có đề cập đến sự “mô phạm” của nhà giáo
không những phải bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên mà còn phải có phương
pháp dạy học tích cực, người thầy phải là một tấm gương sáng, có tác phong
mẫu mực thì mới đạt được mục tiêu “dạy chữ, dạy nghề, dạy người”.
Tác giả Ngô Nhật Đoàn với đề tài nghiên cứu khoa học (2012)“Thực trạng
và giải pháp nâng cao chất lượng môn giáo dục công dân ở trường THCS”. Có
đề cập đến sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy học môn GDCD sẽ nâng
cao chất lượng dạy và học bộ môn.
Ngày 1 tháng 11 năm 2007, Công đoàn Giáo dục đã thông qua Nghị quyết
số 442/NQ-CĐN, về việc phát động cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một
tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý về rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo
đức nghề nghiệp, góp phần đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Tại Hội nghị lần thứ 8, BCHTW khóa XI thông qua Nghị quyết số 29-
NQ/TW, đã cụ thể hóa những nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào
11
tạo trong đó nhấn mạnh đổi mới phương pháp dạy và học trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tuy các tác giả có đề cập đến phương pháp nêu gương nhưng chưa làm rõ
phương pháp nêu gương được sử dụng như thế nào để có hiệu quả trong dạy học
môn GDCD ở các trường THCS.
Như vậy, tổng quan vấn đề nghiên cứu nêu trên cho thấy, chưa có một đề
tài nào nghiên cứu hệ thống các giải pháp sử dụng phương pháp nêu gương
trong dạy học môn GDCD ở các trường Trung học cơ sở. Trong tình hình hiện
nay, lĩnh vực nghiên cứu đề tài đặt ra là hợp lý và cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng, đề xuất giải pháp sử
dụng phương pháp nêu gương trong dạy học môn GDCD lớp 6 ở các trường
THCS trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp nêu
gương trong dạy học môn GDCD.
- Thực nghiệm sư phạm việc sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy học
môn GDCD lớp 6 ở các trường THCS trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất quy trình và giải pháp sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy
học môn GDCD.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy học môn
GDCD lớp 6.
12
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề về lý luận của PPDH nêu gương, luận
văn tập trung nghiên cứu thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy học môn GDCD lớp 6 ở các
trường THCS trên địa bàn huyện Kỳ Anh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới giáo dục đào
tạo.
Để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn vận dụng các
phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp như:
- Phương pháp điều tra xã hội
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp…
6. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và triển khai đồng bộ các giải pháp sử dụng phương pháp
nêu gương trong dạy học môn GDCD lớp thì 6 sẽ góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học bộ môn trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp
nêu gương trong dạy học môn GDCD ở trường THCS.
- Đề xuất một số quy trình và giải pháp về dạy học sử dụng phương pháp
nêu gương trong dạy học môn GDCD lớp 6 ở trường THCS.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng để làm tài liệu tham
khảo cho giáo viên dạy môn GDCD.
13
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề
tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp nêu
gương trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở.
Chương 2. Thực nghiệm sư phạm sử dụng phương pháp nêu gương trong
dạy học môn Giáo dục công dân lớp 6 ở các trường Trung học cơ sở trên địa bàn
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3. Quy trình và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
phương pháp nêu gương trong dạy học môn Giáo dục công dân ở các trường
Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
14
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP NÊU GƯƠNG TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Cở sở lý luận của việc sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy
học môn Giáo dục công dân lớp 6
1.1.1. Phương pháp nêu gương
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp nêu gương
Phương pháp nêu gương vừa là phương pháp dạy học, vừa là phương pháp
giáo dục. Trong lịch sử nghiên cứu khoa học, có nhiều tác giả đưa ra những
quan điểm về phương pháp nêu gương. Có thể kể đến những quan điểm nổi bật
như sau:
- Khái niệm nêu gương trong giáo dục
Theo tác giả Phạm Viết Vượng trong cuốn Giáo dục học quan niệm: Nêu
gương là phương pháp thuyết phục người khác bằng sự gương mẫu của bản thân
nhà giáo dục, của người lãnh đạo tập thể, trong cuộc sống và trong lao động.
Bản thân nhà giáo dục phải là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo [35;
144].
Tác giả Hà Nhật Thăng – Nguyễn Phương Lan trong cuốn Đạo đức và
phương pháp giáo dục đạo đức ở tiểu học đã nêu: Nêu gương là phương pháp
dùng những tấm gương mẫu mực, cụ thể, sống động trong cuộc sống để kích
thích học sinh bắt chước.
Tác giả Chu Trọng Tuấn – Hoàng Trung Chiến trong cuốn Giáo dục học (III)
cho rằng: Nêu gương là phương pháp giáo dục, trong đó nhà giáo dục đưa ra những
tấm gương sáng, những việc tốt, những giá trị xã hội chuẩn mực của cá nhân hay
tập thể, để người được giáo dục học tập và noi theo [33; 44].
15
- Khái niệm phương pháp nêu gương trong dạy học
Phương pháp nêu gương là cách thức tổ chức, điều khiển của giáo viên
nhằm truyền thụ kiến thức thông qua những tấm gương sáng, người tốt, việc tốt,
những giá trị chuẩn mực để học sinh lĩnh hội, noi theo dựa trên cơ chế bắt chước
của tâm lý người.
Sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy học có nghĩa là dùng những
tấm gương người tốt, việc tốt – gương chính diện – để truyền đạt kiến thức. Tuy
nhiên, khi cần thiết, giáo viên còn dùng những “gương xấu” – gương phản diện
– để học sinh nắm vững nội dung bài học và lên án, phê phán những cái xấu góp
phần tạo hiệu quả cho quá trình dạy học.
Trong dạy học môn GDCD, việc nêu gương sẽ làm cho các chuẩn mực đạo
đức xã hội trở nên sinh động hơn, trực quan hơn, và cụ thể hơn, có sức thuyết
phục thực sự đối với học sinh.
1.1.1.2. Phương thức thực hiện phương pháp nêu gương
Bước 1. Chuẩn bị nêu gương
Công tác chuẩn bị nêu gương là việc rất quan trọng để thực hiện tốt phương
pháp nêu gương. Điều này đòi hỏi phải căn cứ vào từng mục tiêu, yêu cầu nội
dung dạy học, căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi học sinh mà giáo viên lựa chọn
những tấm gương cho phù hợp. Đó phải là những tấm gương điển hình, gần gũi
với học sinh. Tránh lạm dụng các tấm gương phản diện vì dễ gây kết quả phản
giáo dục, làm giảm lòng tin ở học sinh về việc tồn tại những cái tốt, vốn rất
nhiều trong xã hội.
Có thể lựa chọn các loại nêu gương sau đây:
Thứ nhất: Nêu gương thông qua việc đề cao truyền thống tổ, lớp, trường,
địa phương… Các tấm gương này có tác dụng tốt trong việc kích thích lòng tự
trọng, tự hào của học sinh về con người, về quê hương, về Tổ quốc…
16
Thứ hai: Nêu gương thông qua việc đề cao cá nhân điển hình: các tấm
gương này sát với điều kiện học tập, tu dưỡng của các em, nên việc chỉ đạo học
tập các tấm gương đó rất thuận lợi.
Thứ ba: Nêu gương thông qua việc tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu,
đọc sách kể chuyện về các lãnh tụ (Hồ Chí Minh, Các Mác…), các vĩ nhân,
gương các nhà bác học, nhà văn hóa nổi tiếng, gương các anh hùng chiến đấu và
lao động, gương người tốt, việc tốt… Các tấm gương này có tác dụng nhiều
trong việc giáo dục lý tưởng, hoài bão cho học sinh.
Thứ tư: Nêu gương thông qua chính sự gương mẫu của thầy giáo. Giáo viên
hằng ngày tiếp xúc với học sinh, hơn thế lại làm công tác giáo dục các em. Hơn
ai hết, trước hết thầy giáo phải là tấm gương sáng cho học sinh về mọi phương
diện, để học sinh muốn bắt chước, học tập, noi theo và cũng làm tăng tính thuyết
phục của giáo viên đối với học sinh trong công tác giáo dục.
Bước 2. Tiến hành nêu gương
Khi nêu gương, nhà giáo dục phải dùng hình thức kể chuyện kết hợp với
việc phân tích so sánh, để cho học sinh hình dung rõ về các tấm gương. Có thể
đàm thoại giữa giáo viên và học sinh để làm nổi bật những nét điển hình, những
ưu điểm của các tấm gương. Hoặc cùng phê phán những cái xấu đối với các tấm
gương phản diện.
Bước 3. Kết thúc nêu gương
Giáo viên phải tổ chức cho học sinh tự rút ra được bài học cụ thể, bổ ích;
đồng thời phải chỉ đạo, xây dựng mạng lưới tích cực, tổ chức thi đua, phát động
thi đua để noi theo gương sáng tránh những gương xấu.
1.1.1.3. Những yêu cầu sư phạm khi sử dụng phương pháp nêu gương
Thứ nhất: Những tấm gương nêu lên phải phù hợp với mục đích, yêu cầu
nội dung bài học. Tấm gương nêu ra phải gần gũi với cuộc sống học sinh, hình
thành được ở các em niềm tin về những cái tốt, cái đẹp, cái thiện… trong xã hội
và trong chính bản thân mình.
17
Thứ hai: Cần có sự đánh giá đúng mực tấm gương đó, bởi vì chính sự đánh
giá quá cao hay quá thấp những tấm gương nêu lên đều làm hạn chế tác dụng
giáo dục đối với HS. Phương pháp nêu gương phải làm sao để phát triển được ở
học sinh khả năng phân tích, đánh giá hay phê phán về những tấm gương để các
em tự rút ra được bài học bổ ích.
Thứ ba: Với các hiện tượng chưa tốt trong tập thể HS khi nêu gương cần
tránh nêu tên cụ thể, bởi như vậy sẽ khiến trẻ cảm thấy bị xúc phạm và tạo yếu
tố tâm lý bất lợi. Đối với những em có gương tốt cần phải tuyên dương, khen
thưởng nêu gương trước lớp kịp thời để động viên các em cố gắng hơn và các
HS khác noi theo. Như vậy, sẽ làm cho học sinh biết nỗ lực học tập, rèn luyện
theo những gương tốt và tránh xa loại bỏ những hành vi xấu. Tự xây dựng bản
thân thành một tấm gương sáng.
Thứ tư: Khi sử dụng phương pháp nêu gương không nên áp đặt, buộc học
sinh phải tuân thủ hay thực hiện ngay. Trong dạy học cần lấy những tấm gương
trực quan gần gũi, sinh động và toàn diện hơn cả đó là tấm gương người lớn
(ông bà, cha mẹ, anh chị em), đặc biệt GV phải là tấm gương sống động, mẫu
mực đối với HS về hình thức bên ngoài như cách ăn nói, ứng xử.
Ngoài ra, nêu gương tốt để các em học tập, các em noi theo, thì cũng cần
phải đưa ra một số gương xấu để HS biết và tránh.
1.1.2. Cở sở khoa học của việc sử dụng phương pháp nêu gương trong
dạy học môn Giáo dục công dân lớp 6
1.1.2.1. Cơ sở triết học
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng với nhau, quy định, tác động qua lại với nhau, trong đó:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của
chân lý; sự hình thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn; lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển
trong thực tiễn.
18
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động
lực và mục đích của nhận thức. Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà nhận
thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực tế lịch sử cho
thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương tiện tác
động vào các sự vật, hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và
tính qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới khách
quan. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm,
sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa để
xây dựng thành lý luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. Như vậy,
muốn hiểu những tri thức lý luận chúng ta phải quay về thực tiễn. Trong dạy học
môn GDCD lớp 6 có những lý luận về phạm trù đạo đức, để học sinh nắm bài
chúng ta cần lấy những tấm gương tốt, việc làm tốt, có thật, sinh động ở thực
tiễn để kích thích các em noi theo.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục tiêu,
phương hướng, biện pháp cho thực tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò
của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể
dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng
lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm.
Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần
làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ
nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý
nghĩa lớn lao của lý luận, V.I. Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng
không thể có phong trào cách mạng” [19; 30]. Lý luận một khi thâm nhập vào
quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất".
19
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách
học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận,
chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Vì vậy, trong dạy học môn GDCD cần quán triệt sâu sắc nguyên lý giáo
dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội.
Trong dạy học bộ môn GDCD, các khái niệm, phạm trù đạo đức phải được
giáo viên trình bày một cách thống nhất, làm sao để lý luận thường xuyên liên
hệ chặt chẽ với thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời sự biến
đổi của đời sống xã hội. Đất nước ta đang thời kỳ đổi mới với những thay đổi rất
nhanh chóng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực giáo
dục cũng đang có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ. Những thay đổi
trong đời sống thực tiễn phải được giáo viên kịp thời nắm bắt và đưa vào trong
nội dung bài giảng của mình. Khi trình bày các khái niệm, phạm trù cần lấy
những ví dụ minh họa mang tính thực tiễn, những tấm gương người tốt, việc tốt;
thường xuyên liên hệ lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên, không nên trình bày theo
kiểu minh họa mà cần phân tích cho các em thấy được từ thực tiễn đó các em
cần nhận thức như thế nào, các em cần học tập những gì từ những tấm gương có
thật trong thực tiễn xã hội. Chính nhờ những tấm gương qua đó học sinh ghi nhớ
sâu sắc khái niệm, và thực hành một cách dễ dàng hơn, thực hiện tốt nguyên lý
giáo dục học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
1.1.2.2. Cơ sở tâm lý - giáo dục học
Để tổ chức quá trình dạy học trong nhà trường một cách đúng đắn và khoa
học cần phải hiểu rõ các quy luật tâm lý của chính quá trình học tập – quá trình
lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng và kỹ xảo, tư duy tích cực, độc lập và sáng
tạo. Chính vì thế, trong quá trình dạy học cần có sự hiểu biết về tâm lý, không
20
thể giáo dục đúng, nếu không biết những quy luật tâm lý của quá trình hình
thành nhân cách, đặc biệt là những quy luật hình thành niềm tin và thói quen đạo
đức. Nếu không hiểu biết các đặc điểm tâm lý của trẻ ở những lứa tuổi nhất định
thì không thể có sự giảng dạy và giáo dục một cách phù hợp đúng với mục đích
được. Do đó, chính giáo viên – người làm công tác giáo dục và giảng dạy không
thể tiếp xúc một cách đơn giản với học sinh ở một lứa tuổi nhất định mà là với
những học sinh cụ thể với những cá tính cụ thể ở một lứa tuổi cụ thể là những
học sinh Trung học cơ sở.
Học sinh trung học cơ sở bao gồm những em có độ tuổi từ 11, 12 tuổi đến
14, 15 tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường trung học
cơ sở. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt
trong thời kỳ phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này được phản ánh bằng
những tên gọi khác nhau của nó: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng
hoảng”, “tuổi bất trị”… Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan
trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển của trẻ em. Đây cũng là thời kỳ
chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
so với các em lứa tuổi khác có sự phát triển mạnh mẽ, và thiếu cân đối về các
mặt trí tuệ, đạo đức. Sự xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết
quả của sự biến đổi cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với người lớn,
với bạn bè, của hoạt động học tập, hoạt động xã hội…
Tâm lý học khẳng định, những thế hệ sau sinh ra muốn có được những kinh
nghiệm sống, những thành quả phát triển của các thế hệ trước có thể thực hiện
bằng cách quan sát và luyện tập các hành vi hoạt động của người lớn, tức sự học
ở người cũng có thể diễn ra theo cơ chế bắt chước.
Như vậy, sử dụng phương pháp nêu gương trong dạy học bộ môn GDCD
dựa trên cơ chế tâm lý bắt chước. Học sinh thanh, thiếu niên đang ở giai đoạn
phát triển tâm lý đặc biệt, rất quan tâm đến những người xung quanh, theo dõi
những hành động của họ trong cuộc sống, trước hết là của người lớn, của các
21
nhà giáo dục. Học sinh thường suy tôn những nhân vật dũng cảm, tài trí, những
hình ảnh đẹp trong cuộc sống, coi đó là tấm gương lý tưởng và sẵn sàng noi
theo. Với HS lớp 6 ở Trường THCS các em còn nhỏ, tư duy còn mang tính cụ
thể hình ảnh trực quan sinh động, kinh nghiệm sống còn nghèo nàn, đặc biệt các
em còn thích bắt chước nhất là những nhân vật mà các em yêu mến, hâm mộ.
Mặc dù, hiện nay PPNG vẫn được xem là PP truyền thống trong quá trình dạy
học, nhưng giáo viên sử dụng PP này theo hướng tích cực thì sẽ thu được kết
quả dạy học nói riêng, quá trình giáo dục nói chung rất hiệu quả. Chính thông
qua những tấm gương HS thấy được những gương tốt để noi theo và những
gương xấu để tránh. Cho nên, sử dụng PPNG trong dạy học môn GDCD lớp 6 là
rất phù hợp với đặc điểm tâm lý của học sinh cũng như là nội dung chương trình
môn học.
Nắm được đặc điểm lứa tuổi học sinh THCS, đồng thời nắm vững bản chất
và vận dụng nó có hiệu quả trên cơ sở các nguyên tắc, đặc điểm của phương
pháp nêu gương sẽ phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, là mục tiêu
cần đạt của đổi mới PPDH hiện nay.
1.1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nêu gương trong dạy học
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc mở mang dân trí,
chăm lo sự nghiệp giáo dục. Người đánh giá rất cao vai trò của giáo dục đối với
sự hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ cực kỳ trọng đại là nâng cao dân đức,
mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự
phát triển, đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với các
cường quốc năm châu. Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ
quan niệm rằng thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là nguyên tắc cao nhất, thể
hiện bản chất khoa học của học thuyết Mác – Lênin mà người còn vận dụng
nguyên tắc này một cách nhuần nhuyễn và nhất quán. Hồ Chí Minh luôn bám sát
thực tiễn, phân tích thực tiễn bằng sự am hiểu sâu sắc về lí luận, làm chủ lí luận
22
và kết hợp chặt chẽ giữa lí luận và thực tiễn ở trình độ cao thể hiện trong hệ
thống tư tưởng của Người, đặc biệt là trong tư tưởng của Người về PPNG.
Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [21; 8] và
“Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người XHCN” [23; 296]. Con
người mà Bác mong muốn đào tạo không chỉ có lòng yêu nước, tinh thần đấu
tranh anh dũng, có lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức mà còn phải có tri
thức khoa học, kỹ năng lao động sản xuất…Bởi vậy, Người rất quan tâm đến
giáo dục thế hệ trẻ.
Xuất phát từ quan điểm: Bản tính con người là hướng thiện, muốn vươn tới
cái tốt, cái đẹp. Cho nên, Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp nêu gương
trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Người cho rằng: “Lấy gương người tốt, việc tốt
hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống
mới” [26; 558]. Trong bài viết: Ý kiến về việc làm và xuất bản loại sách “Người
tốt, việc tốt”, Người cũng nêu: “Cần lấy ngay những gương tốt đó của các cháu
và những gương người tốt, việc tốt trong nhân dân để giáo dục các cháu. Không
nên lí luận suông” [38; 496].
Người yêu cầu trong gia đình thì ông bà, cha mẹ phải làm tấm gương cho
con cháu, anh chị làm tấm gương cho em; trong nhà trường thầy giáo, cô giáo
phải làm kiểu mẫu cho học trò; ngoài xã hội thì thế hệ trước phải làm tấm gương
cho thế hệ sau, cán bộ đảng viên phải làm gương cho quần chúng v.v…
Tại Hội nghị cán bộ phụ trách thiếu nhi toàn miền Bắc ngày 19 tháng 2 năm
1959, Người nói: “Trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách
v.v… phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm”; và “Dạy các cháu thì nói với các
cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những
tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì
các cô, các chú phải là người tốt” [38; 473].
23
Tại lớp học Chính trị của giáo viên năm 1959, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học
trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu. Giáo viên phải chú ý cả tài,
cả đức. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức… Cho nên, thầy
giáo, cô giáo phải gương mẫu nhất là đối với trẻ con. Trách nhiệm đó rất là vẻ
vang, quan trọng” [23; 492]. Người còn nêu rõ: “Công tác giáo viên… điều
trước tiên là dạy các cháu về đạo đức. Anh chị em giáo viên cần luôn gương
mẫu về đạo đức để các cháu noi theo” [23; 509].
Người căn dặn đoàn viên, thanh niên: Luôn luôn chú ý dìu dắt và giáo dục
thiếu niên, nhi đồng, làm gương tốt về mọi mặt cho đàn em noi theo. Đoàn viên
phải gương mẫu, phải giữ đạo đức cách mạng, khiêm tốn, cần cù, hăng hái, dũng
cảm, phải xung phong trong mọi công tác để làm đầu tàu cuốn hút được đông
đảo thanh niên làm theo.
Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi
người noi theo. Người luôn nhắc nhở: Mình phải làm gương, gắng làm gương
trong anh em và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba
mặt tinh thần, vật chất và văn hóa. Nêu gương là một phương pháp quan trọng.
Người dạy: những gương người tốt, việc tốt muôn hình, muôn vẻ, là vật liệu quý
để xây dựng con người.
Như vậy, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục nói
chung, phương pháp dạy học nói riêng, Người luôn nhất quán sử dụng phương
pháp nêu gương và đánh giá rất cao hiệu quả của phương pháp này mang lại.
1.1.2.4. Nội dung môn Giáo dục công dân lớp 6
Môn Giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở có ý nghĩa quan trọng
trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi của người công dân, góp
phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết
của người công dân trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như mục
tiêu của Luật giáo dục xác định: giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
24
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục đi học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung chương trình môn GDCD ở trường THCS, nhìn chung đã bám sát
yêu cầu giáo dục đạo đức cho học sinh, có gắn với thực tế và tương đối phù hợp
với tâm lý, lứa tuổi học sinh THCS. Các bài học được xây dựng theo hướng
đồng tâm, gắn lý thuyết với thực hành, coi trọng giáo dục nhận thức và hành vi
của học sinh qua bài tập tình huống, bài tập giải quyết vấn đề. Nội dung giáo
dục luật pháp, giáo dục kỹ năng sống được đưa vào chương trình với khoảng 1/3
thời lượng. Chương trình giảng dạy môn GDCD trong trường THCS hiện nay
được phân phối thống nhất đối với cả 4 khối lớp là 1 tiết/tuần, 35 tiết/năm học.
Chương trình gồm các phần: giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, thực hành
ngoại khóa, kiểm tra, ôn tập.
Lớp 6 là lớp đầu tiên của trường THCS cho nên nội dung môn học có sự kế
thừa và phát triển kết quả dạy – học môn Đạo đức ở Tiểu học theo chương trình
Tiểu học (Ban hành kèm theo quyết định số 43/2001/QĐ- BGD&ĐT ngày 9
tháng 11 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) và chuẩn bị cho các
em học lên lớp trên.
Cấu trúc chương trình môn GDCD ở trường THCS nói chung, lớp 6 nói
riêng gồm hai phần:
- Phần các chuẩn mực đạo đức
- Phần các chuẩn mực pháp luật
* Các chuẩn mực đạo đức (gồm có 11 bài)
Bài 1. Tự chăm sóc và rèn luyện than thể
Bài 2. Siêng năng, kiên trì
Bài 3. Tiết kiệm
Bài 4. Lễ độ
Bài 5. Tôn trọng kỷ luật
25