Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Rèn luyện kỹ năng tự đánh giá kết quả học tập môn toán của học sinh trung học cơ sở trong dạy học toán 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN VĂN LỰC
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
MÔN TOÁN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
TRONG DẠY HỌC TOÁN 9
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN VĂN LỰC
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
MÔN TOÁN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
TRONG DẠY HỌC TOÁN 9
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn toán
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Xuân Chung
NGHỆ AN – 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên,
giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Xuân Chung
đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu luận văn của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo của Trường
Đại học Vinh, người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích
trong những năm học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
Sau đại học Trường Đại học Vinh, Khoa Sư phạm Toán học trường Đại học
Vinh, Trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu và các đồng nghiệp ở


Trường THCS Thái Văn Lung, Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cùng
gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi
trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Nghệ An, ngày 7 tháng 6 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Văn Lực

MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Nội dung đưa ra bảo vệ
8. Cái mới trong đóng góp của luận văn
9. Cấu trúc luận văn
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về đánh giá và tự đánh giá kết quả học
tập của học sinh
1.1.1. Trên thế giới
1.1.2. Ở Việt Nam
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Về đánh giá và đánh giá kết quả học tập
1.2.2. Về tự đánh giá trong dạy học
1.2.3. Mối quan hệ giữa tự đánh giá và đánh giá kết quả học tập
1.2.4. Về kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập của học sinh
1.2.5. Chuẩn kiến thức kĩ năng, mục tiêu và nhiệm vụ học tập

1.3. Sự cần thiết rèn luyện cho học sinh tự đánh giá kết quả học tập
1.3.1. Tự đánh giá xét từ góc độ triết học
1.3.2. Tự đánh giá xét từ góc độ tâm lí học và giáo dục học
1.4. Tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở
1.4.1. Các kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh
……31
1.4.2. Biểu hiện của kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập của học sinh
trong học tập môn Toán
1.4.3. Con đường hình thành và rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả
học tập môn toán của học sinh trung học cơ sở
1.4.4. Các mức độ của kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán
đối với học sinh trung học cơ sở
1.5. Kết luận chương 1
Chương 2. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VỀ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
TỰ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN TOÁN CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG DẠY HỌC TOÁN 9
2.1. Mục đích khảo sát
2.2. Đối tượng khảo sát
2.3. Nội dung khảo sát
2.4. Phương pháp khảo sát
2.5. Kết quả khảo sát
2.6. Kết luận chương 2
Chương 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ ĐÁNH
GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN TOÁN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ TRONG DẠY HỌC TOÁN 9
3.1. Các nguyên tắc xây dựng và thực hiện các biện pháp
3.2. Một số biện pháp sư phạm góp phần rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết
quả học tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở
3.2.1. Biện pháp 1. Giúp người học nâng cao nhận thức về tự đánh giá
kết quả học tập

3.2.2. Biện pháp 2. Rèn luyện cho người học các thao tác cần thiết để tự
đánh giá kết quả học tập
3.2.3. Biện pháp 3. Thông qua các tình huống dạy học giáo viên cần tạo
cơ hội cho học sinh đánh giá lẫn nhau
3.2.4. Biện pháp 4. Xây dựng các bộ công cụ giúp học sinh tự đánh giá
kết quả học tập sau mỗi bài học, một chương, hay một chủ đề
3.3. Kết luận chương 3
Chương 4. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
4.1. Mục đích thực nghiệm
4.2. Tổ chức thực nghiệm
4.2.1. Đối tượng thực nghiệm
4.2.2. Cách thức tổ chức thực nghiệm
4.2.3. Tiến hành thực nghiệm
4.3. Nội dung thực nghiệm
4.4. Kết quả thực nghiệm
4.4.1. Phân tích định lượng
4.4.2. Phân tích định tính
4.5. Kết luận chương 4
KẾT LUẬN CỦA LUẬN VĂN
TÁI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đã
xác định: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục,
đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu
cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và
phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình,

yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”.
Trong bối cảnh đó đặt ra cho ngành giáo dục nhiệm vụ quan trọng là đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thời đại là “Học để biết - Học để làm - Học để
cùng chung sống - Học để làm người”. Cụ thể là, mục tiêu giáo dục là đào tạo
những con người có năng lực tự quyết định, mỗi người học sẽ phải có đủ các
phẩm chất: tự học, tự tổ chức, tự quyết định và sau cùng là tự phát triển.
Trong dạy học ở trường phổ thông, điều quan trọng là hình thành cho học
sinh những phẩm chất, kỹ năng và năng lực, đặc biệt là kỹ năng tự đánh giá, bởi
chỉ khi học sinh biết tự đánh giá thì quá trình học tập mới thực sự diễn ra một
cách tự giác, tích cực, chủ động và hiệu quả.
Kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập sẽ giúp người học biết được mức độ
kiến thức, kỹ năng và thái độ học tập của bản thân đã đáp ứng được yêu cầu của
quá trình học tập hay chưa, nhờ đó có thể điều chỉnh quá trình học tập đúng
hướng, nâng cao hiệu quả học tập. Nếu người học có được kỹ năng tự đánh giá
thì họ sẽ có thể tự giác, tự lực, tự tin hơn trong học tập và sẽ tự quyết định
được phần nào việc học tập cũng như định hướng nghề nghiệp. Do đó, kỹ năng
tự đánh giá là một trong những kỹ năng quan trọng của người học.
Ở trường phổ thông, môn Toán do có các đặc điểm như sau: sự rõ ràng,
tính chính xác, logic chặt chẽ, tính thực tiễn, nên trong quá trình học tập, học
sinh có thể dễ dàng hơn trong việc tự xác định được tính đúng, sai của một nội
dung, hoặc mức độ nhận thức đối với một vấn đề, nội dung nào đó nhờ vậy có
thể điều chỉnh hoạt động học tập của mình sao cho hiệu quả hơn. Vì thế, hình
2
thành, rèn luyện và phát triển kĩ năng tự đánh giá kết quả cho học sinh thông qua
dạy học môn Toán là rất cần thiết.
Đánh giá là một bộ phận không thể thiếu của quá trình giáo dục. Trên thế giới,
việc đánh giá kết quả học tập đã xuất hiện từ khá sớm. Khoảng 20 năm lại đây
trong lĩnh vực đánh giá người ta rất quan tâm đến tự đánh giá.
Trên thực tế dạy học ở nước ta hiện nay cho thấy việc đánh giá kết quả học
tập của học sinh chủ yếu vẫn thực hiện một cách truyền thống, dựa trên những bài

kiểm tra giấy và thường thông qua điểm số của bài kiểm tra để xác định thành
tích học tập, chưa quan tâm đến vấn đề tự đánh giá của học sinh. Trong khi đó
đánh giá kết quả học tập của học sinh cần phải có sự tham gia của học sinh, bởi
họ là chủ thể nhận thức nên hiểu bản thân hơn ai hết, chính họ có thể tự đánh giá
được mức độ nắm kiến thức và phát triển kĩ năng của mình so với yêu cầu của
giáo viên và chuẩn kiến thức của môn học.
Ở Việt Nam, có một số tác giả đã đề cập đến vấn đề tự đánh giá, ý nghĩa
của tự đánh giá trong học tập như tự đánh giá sau mỗi bài học, mỗi chương, mỗi
chủ đề Tuy nhiên, chưa có tác giả hay công trình nào nghiên cứu đầy đủ, sâu
sắc về kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở.
Vì những lý do trên chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Rèn luyện kĩ năng tự
đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở trong dạy học
Toán 9” là cần thiết và có ý nghĩa cả về khoa học lẫn thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề về lí luận về tự đánh giá kết quả học
tập, kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập, kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn
Toán, đề xuất một số biện pháp sư phạm để rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả
học tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở trong dạy học Toán 9.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Hoạt động đánh giá trong dạy học môn toán ở
trường trung học cơ sở;
- Đối tượng nghiên cứu: Kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của
học sinh ở trường trung học cơ sở.
3
4. Giả thuyết khoa học:
Nếu quan niệm đúng về tự đánh giá, chỉ ra được các khái niệm cơ bản đồng
thời xây dựng và thực hiện tốt một số biện pháp sư phạm thì có thể hình thành,
phát triển kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh trung học
cơ sở.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng tự đánh giá ở trường
trung học cơ sở;
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kĩ năng tự đánh giá ở
trường trung học cơ sở;
- Xác định các kĩ năng cơ bản về tự đánh giá kết quả học tập của học sinh;
- Đề xuất các biện pháp sư phạm nhằm rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết
quả học tập của học sinh trung học cơ sở trong dạy học Toán 9;
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm hiệu quả và tính khả thi của
một số biện pháp sư phạm đã đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lí luận, nhằm làm sáng tỏ cơ sở lí luận;
6.2. Quan sát, điều tra, nhằm tìm hiểu thực trạng tự đánh giá trong dạy học ở
nước ta và nguyên nhân của thực trạng hiện nay;
6.3. Thực nghiệm sư phạm nhằm bước đầu kiểm nghiệm tính khả thi của các
biện pháp đề xuất trong luận văn;
6.4. Tổng kết kinh nghiệm qua thực tiễn giảng dạy;
6.5. Nghiên cứu trường hợp: về việc rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả
học tập trên một số đối tượng học sinh cụ thể;
6.6. Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến các chuyên gia về các vấn đề
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
7. Nội dung đưa ra bảo vệ
- Quan niệm về tự đánh giá kết quả học tập, kĩ năng tự đánh giá kết quả học
tập và kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh.
- Các kĩ năng cơ bản về tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh.
4
- Một số biện pháp sư phạm rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập
môn Toán của học sinh trung học cơ sở.
8. Cái mới trong đóng góp của luận văn
- Về mặt lí luận: Hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về tự đánh giá kết
quả học tập, kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập và kĩ năng tự đánh giá kết quả học

tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở.
- Về mặt thực tiễn: Đã đề xuất được một số biện pháp sư phạm để rèn luyện kĩ
năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở; Thông qua
ví dụ minh họa và tài liệu thực nghiệm sư phạm chỉ ra được con đường hình thành và
rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh trung học cơ
sở.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4
chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Khảo sát thực trạng về rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả học
tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở trong dạy học Toán 9
Chương 3. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập
môn Toán của học sinh trung học cơ sở trong dạy học Toán 9
Chương 4. Thực nghiệm sư phạm
Hình 1.2
Hình 1.1
5
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về đánh giá và tự đánh giá kết
quả học tập của học sinh
1.1.1. Trên thế giới
Khoa học ngày nay chỉ ra rằng khoảng 10 vạn năm trước con người hiện đại
ra đời và cũng đã biết nghĩ về thiên nhiên, về
người khác và về bản thân. Một khi đã biết
nghĩ về bản thân tức là phần nào họ đã có khả
năng tự đánh giá mình (dẫn theo [24, tr. 4]).
Tự đánh giá hình thành dựa trên cơ sở lí
thuyết về kinh nghiệm học tập được Lewin nêu

ra, sau đó được Kolb(1984) và Schon(1984)
phát triển.
Theo AAIA, một tổ chức ở vùng Đông
Bắc nước Anh chuyên nghiên cứu về những
thành tựu và cải tiến việc đánh giá, đặc biệt quan tâm nghiên cứu về vấn đề tự
đánh giá của học sinh trong học tập. Thành tựu nổi bật là họ đã xây dựng được
các bước giúp học sinh tiểu học tự đánh giá kết quả học tập, tìm cách khuyến
khích và giúp giáo viên điều khiển, định hướng quá trình học tập theo hướng phát
huy năng lực của học sinh. Qua nghiên cứu, họ khẳng định các ý tưởng và kết quả
có được vẫn có thể áp dụng được đối với học sinh ở các lớp lớn hơn (dẫn theo
[24]).
Ở Úc vấn đề tự đánh giá đã rất được quan tâm
nghiên cứu và đã trở thành nề nếp, thói quen trong
quá trình học tập của học sinh phổ thông (dẫn theo
[24, tr. 4]).
Ở Canada, tự đánh giá được chú trọng nghiên cứu
cả về lí thuyết và thực hành. Về mặt lí thuyết, qua các
nghiên cứu của các tác giả Baron (1990), Shavelson
6
(1992), Bellanca & Berman (1994), Garcia & Pearson (1994), Wiggins(1993),
Hargreaves & Fullan (1998), đã cho thấy vai trò của giáo viên thay đổi, do đó đánh
giá phải có sự thay đổi, chú trọng hơn đến tự đánh giá. Rolheiser (1996) đã đưa ra
được mô hình lý thuyết tự đánh giá. Tác giả cho rằng tự đánh giá đóng một vai trò
quan trọng một chu kì học tập của học sinh (xem hình 1.2). Theo mô hình đó, khi
người học tự đánh giá hiệu quả việc học, họ sẽ biết được mức độ đạt mục tiêu học
tập của bản thân. Do đó, tự đánh giá sẽ khuyến khích học sinh đặt ra mục tiêu cao
hơn và nỗ lực hết sức để đạt mục tiêu học tập của mình. Thành tích có được là nhờ
sự kết hợp giữa mục tiêu và sự nỗ lực. Trên cơ sở thành tích đó HS sẽ tự đánh giá
(tự suy xét, tự phản ứng, tự điều chỉnh) và do đó họ sẽ tự tin hơn trong học tập. Do
đó, nếu chúng ta dạy cho người học làm tốt việc tự đánh giá thì họ có thể học tốt

hơn ở những chu kì học tập sau. Về mặt thực hành, Ross và các cộng sự (1998) đã
thử nghiệm các bước giảng dạy cho sinh viên tự đánh giá. Qua thực tiễn vận dụng,
các tác giả cho rằng: sử dụng hình thức tự đánh giá, quyền lực đánh giá của giáo
viên bị chia sẻ, giáo viên cần có thời gian để làm và để hiểu cách thức đổi mới đánh
giá này; mối quan hệ giáo viên và sinh viên có sự thay đổi; sinh viên cũng cần có
thời gian để hiểu về tự đánh giá và vai trò của nó đối với việc học của họ (dẫn theo
[24, tr. 5]).
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, đánh giá và tự đánh giá cũng đã được nghiên cứu, vận dụng ở
nhiều phương diện và mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung mới chỉ ở những
bước đầu tiên.
Có thể nêu một vài công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề đánh giá và tự
đánh giá như sau:
1) Hoàng Đức Nhuận, Lê Đức Phúc đã hệ thống khá đầy đủ về đánh giá và
các vấn đề liên quan. Một trong những đóng góp quan trọng của tác giả là đã
đưa ra được bảy nguyên tắc chung nhất về đánh giá, trong đó có nguyên tắc thứ
bảy là “Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa đánh giá và tự đánh giá”. Như
vậy các tác giả đã phần nào thấy được vai trò cần thiết của người học trong quá
7
trình đánh giá, đặc biệt các ông còn nêu ra cơ sở tâm lí học và giáo dục học của
việc tự đánh giá của học sinh (dẫn theo [24, tr. 6]).
2) Nguyễn Thị Lan Phương, Dương Văn Hưng, Nguyễn Đức Minh,
Nguyễn Lê Thạch. Đã đưa ra các khái niệm đánh giá và tự đánh giá ngoài ra
cũng đã đưa ra được mục đích nội dung và các nguyên tắc cơ bản của đánh giá
giáo dục, các looại đánh giá, quy trình thực hiện đánh giá kết quả giáo dục và
vai trò của đánh giá trong việc cải thiện chất lượng giáo dục.
3) Trần Kiều đã hệ thống hoá các vấn đề về lí luận đánh giá, đồng thời đề
xuất được các biện pháp để đổi mới phương thức đánh giá chất lượng giáo dục
và các nguyên tắc khi xây dựng bộ công cụ để đánh giá chất lượng giáo dục trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và một số nước trên thế giới. Đặc biệt, tác

giả đã nhận thấy “tự đánh giá” của học sinh là một trong mười một vấn đề lí
luận cần phải đổi mới qua khảo sát chất lượng giáo dục ở mười tỉnh trên ba miền
ở Việt Nam (dẫn theo [24, tr. 6]).
4) Trần Thị Bích Liễu đã hệ thống rất đầy đủ các thuật ngữ và khái niệm, các
nguyên tắc, phương pháp, kĩ thuật, các nội dung đánh giá trong giáo dục. Trong
phần thuật ngữ và khái niệm tác giả đã trình bày khái niệm tự đánh giá của cá nhân
và tổ chức (dẫn theo [24, tr. 6]).
5) Nghiêm Thị Phiến với bài báo “Về khả năng tự đánh giá của học sinh lớp
4, 5 trường tiểu học”. Có thể nói đây là công trình đầu tiên của Việt Nam nghiên
cứu về vấn đề tự đánh giá của học sinh. Mặc dù bước đầu tác giả mới chỉ điều tra
thực trạng tự đánh giá của học sinh ở tiểu học nhưng cũng đã mang lại kết quả
nghiên cứu có ý nghĩa, là cơ sở quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo về vấn đề
tự đánh giá. Tác giả chưa nêu quan niệm về vấn đề tự đánh giá mà mới chỉ khẳng
định vai trò của tự đánh giá trong giáo dục và đánh giá. Qua nghiên cứu của tác giả
cho thấy khả năng tự đánh giá của học sinh là có thể hình thành được từ cấp tiểu
học (dẫn theo [24, tr. 6]).
6) Vũ Tế Xiển với bài báo “Tự đánh giá của học sinh ở các trường dạy nghề
về những năng lực và phẩm chất của bản thân”. Tác giả đã bước đầu điều tra thực
trạng tự đánh giá về phẩm chất và năng lực của học sinh ở các trường nghề, đây là
8
một hướng nghiên cứu rất quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta
đang cần những nguồn nhân lực chất lượng cao mới đáp ứng được yêu cầu của xã
hội. Tác giả bước đầu đã chỉ ra được học sinh ở trường nghề tự đánh giá được về
những phẩm chất, năng lực nào của bản thân họ. Đề tài này có ý nghĩa trong việc
định hướng nghề nghiệp cho học sinh trước khi ra trường (dẫn theo [24, tr. 7]).
7) Nguyễn Thị Côi với bài “Rèn luyện kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá trong
học tập lịch sử của học sinh trung học phổ thông”. Tác giả đã nhận thấy vai trò
của tự kiểm tra, đánh giá đối với hoạt động học tập môn lịch sử của học sinh và
đã đề xuất được biện pháp giúp học sinh tự đánh giá trong quá trình học tập môn
lịch sử thông qua trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa (dẫn theo [24, tr. 7]).

8) Nguyễn Thị Lan Phương (Chủ biên), cũng đã nghiên cứu rất kĩ về vấn
đề đánh giá kết quả học tập của học sinh phổ thông và cũng đưa ra được một số
vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong tài liệu này tác giả đã đề cập đến một số khái
niệm cơ bản trong đánh giá giáo dục. Ngoài ra tác giả cũng đã đề cập đến vấn đề
tự đánh giá kết quả học tập của học sinh.
9) Bùi Thị Hạnh Lâm nghiên cứu đề tài “Rèn luyện kỹ năng tự đánh giá kết
quả học tập môn toán của học sinh trung học phổ thông”, Tác giả đã nghiên cứu
về khái niệm đánh giá và tự đánh giá kết quả học tập môn toán của học sinh
trung học phổ thông rất chi tiết, ngoài ra tác giả cũng đã đề xuất được biện pháp
giúp học sinh tự đánh giá trong quá trình học tập môn Toán trung học phổ
thông, thông qua trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa, phiếu học tập, phiếu hỏi,
10) Phạm Xuân Chung (2012), trong đó đề cập đến việc chuẩn bị cho sinh
viên ngành sư phạm toán bước đầu biết tập luyện cho học sinh tự đánh giá kết
quả học tập.
Như vậy vấn đề tự đánh giá trong giáo dục và dạy học đã được nhiều tổ
chức, nhiều nước và nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên chưa có tác giả và công trình nào nghiên cứu về việc rèn luyện
kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập môn Toán của học sinh trung học cơ sở.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
Phần này sẽ trình bày một số khái niệm cơ bản sau:
9
1.2.1. Về đánh giá và đánh giá kết quả học tập
Theo [24, tr. 7], thì đánh giá trong giáo dục được coi là khâu cuối cùng trong
một giai đoạn giáo dục nhất định. Nhưng cũng có quan điểm coi đánh giá là một
quá trình dự báo, điều khiển hoạt động giáo dục theo mục đích đã định, do đó nó sẽ
tiến hành trước, trong và sau một giai đoạn giáo dục. Với tư cách là một bộ phận
của quá trình giáo dục, đánh giá ra đời cùng với sự ra đời của quá trình giáo dục.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đánh giá trong giáo dục.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu thì đến nay khái niệm đánh giá vẫn còn
được hiểu theo nhiều cách khác nhau giữa các tác giả. Tuy nhiên, các tác giả đều

cùng chung ý tưởng sau:
+ Đánh giá là một quá trình thu thập, phân tích, lí giải về hiện trạng chất
lượng, về hiệu quả, nguyên nhân và khả năng của học sinh.
+ Đánh giá gắn bó chặt chẽ với mục tiêu, chuẩn giáo dục.
+ Đánh giá tạo cơ sở đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực
trạng, nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học và giáo dục.
Thông qua đánh giá, Giáo viên có thể thu được các mối liên hệ ngược
ngoài (các thông tin phản hồi từ phía học sinh), nhờ chúng giáo viên khẳng định
những kết quả đạt được, điều chỉnh, bổ sung, uốn nắn những tồn tại trong hoạt
động nhận thức của học sinh, tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hoạt động nhận
thức của họ theo đúng quỹ đạo, hướng tới mục đích đã định. Cũng qua đó, giáo
viên có thể kịp thời điều chỉnh hoạt động giảng dạy của mình. Học sinh cũng thu
được các thông tin phản hồi từ kết quả đánh giá, họ xử lí thông tin ngược thu
nhận được nhằm tự phát hiện, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động nhận thức. Vì
vậy, có thể nói bản chất của việc đánh giá là thực hiện các mối liên hệ ngược
trong quá trình dạy học để từ đó người đánh giá (giáo viên hoặc học sinh) và
người được đánh giá (học sinh) điều chỉnh và tự điều chỉnh quá trình dạy và học
để đạt được mục đích đề ra.
Kết quả đánh giá là bằng chứng sự thành công của học sinh về kiến thức, kĩ
năng, năng lực, thái độ đã được đặt ra trong mục tiêu giáo dục. Do đó, một trong
những vấn đề quan tâm hàng đầu trong quá trình dạy học là kết quả học tập của học
10
sinh. Trong phạm vi của luận văn này chỉ tập trung, quan tâm nghiên cứu đến vấn
đề đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học.
Kết quả học tập (còn gọi là thành tích học tập) thường được hiểu theo hai
quan niệm khác nhau như sau: là mức độ thành tích mà người học đã đạt, được
xem xét trong mối quan hệ với công sức, thời gian đã bỏ ra, với mục tiêu xác
định; là mức độ thành tích mà người học đã đạt được so với những bạn học khác
(dẫn theo [24]).
Cho dù hiểu theo cách nào thì kết quả học tập cũng đều thể hiện ở mức độ

đạt được các mục tiêu dạy học, ở các phương diện: nhận thức, hành động, xúc
cảm. Với từng môn học thì các mục tiêu trên được cụ thể hóa thành các mục tiêu
về kiến thức, kĩ năng và thái độ. Vì vậy, có thể nói bản chất của việc đánh giá kết
quả học tập của học sinh chính là việc xác định mức độ đạt được về kiến thức, kĩ
năng và thái độ của người học so với mục tiêu dạy học.
Từ những điều nói trên, có thể hiểu đánh giá kết quả học tập là quá trình thu
thập, phân tích và xử lí thông tin về kết quả học tập của học sinh, trên cơ sở đó
đối chiếu với mục tiêu của môn học, lớp, của nhà trường tạo cơ sở cho những
quyết định sư phạm của giáo viên, nhà trường và cho bản thân học sinh để họ học
tập ngày một tiến bộ hơn.
Để đánh giá kết quả học tập của học sinh, ngoài các công cụ như bài kiểm
tra, phiếu học tập, phiếu hỏi, có thể sử dụng rubric. Rubric là một công cụ dùng
để đo lường kết quả học tập của người học, nó là một bản hướng dẫn chấm điểm
mà căn cứ vào đó có thể đánh giá được kết quả học tập của người học dựa trên
tính tổng kết quả đạt được của nhiều tiêu chí, do đó nó có ý nghĩa hơn việc đơn
thuần chỉ là cho điểm. Rubric còn là một bản hướng dẫn hoạt động đối với người
học, nó có thể giúp người học định hướng hoặc điều chỉnh hoạt động học tập sao
cho đạt được tiêu chí đó (xem mẫu rubric ở ví dụ 1.1, trang 37).
1.2.2. Về tự đánh giá trong dạy học
1.2.2.1. Quan niệm về tự đánh giá và tự đánh giá kết quả học tập
Theo [28, tr. 42-43], thì tự đánh giá là một hình thức đánh giá mà đối tượng
tự đánh giá kết quả của việc nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ học tập. Thông
11
thường người tự đánh giá sử dụng các bộ công cụ đã được thiết kế trước để đo
về những nội dung họ muốn biết về bản thân. Việc đánh giá có thể được thực
hiện thông qua tự so sánh với các đối tượng khác đang có cùng chức năng, mục
tiêu hoặc nhiệm vụ , để thấy được vị trí của mình so với những người đang
thực hiện chức năng, nhiệm vụ tương xứng xung quanh.
Tự đánh giá về năng lực, sở thích, nhân cách và giá trị của bản thân sẽ giúp
học sinh có nhận xét đúng về các mặt mạnh hoặc hạn chế của mình. Hiện nay

trên các trang mạng có rất nhiều bộ công cụ giúp học sinh có thể tự đánh giá các
năng lực, sở thích và giá trị của bản thân. Dựa vào kết quả tự đánh giá, học sinh
sẽ điều chỉnh hoặc nhờ sự giúp đỡ bên ngoài để có thể phát huy thế mạnh hoặc
khắc phục những hạn chế của mình nhằm đạt được mục tiêu cá nhân trong lĩnh
vực nào đó.
Tự đánh giá là một khâu hiệu quả và quan trọng đối với việc đánh giá cả
quá trình học. Một khi người học có thể tự đánh giá chính việc học của mình và
nền tảng kiến thức của họ đang có thì họ có thể nhận ra những lỗ hổng trong
kiến thức của bản thân, nhờ đó mà quá trình học hiệu quả hơn, khuyến khích sự
tiến bộ của học sinh và góp phần vào việc tự điều chỉnh quá trình học.
Tự đánh giá là quá trình thu thập và phân tích các thông tin thích hợp về chủ
thể, là quá trình rất phức tạp. Người tự đánh giá phải sử dụng phương pháp phân tích
SWOT (viết tắt của bốn chữ Strengths-điểm mạnh, Weaknesses-điểm yếu,
Opportunities-cơ hội và Threats-nguy cơ) về chính mình. Sử dụng phương pháp này
thực chất là xác nhận sự nhận thức về những điểm mạnh và điểm yếu của cá nhân,
cố gắng nhìn thấy những cơ hội và những thách thức trong việc theo đuổi một mục
tiêu nào đó (dẫn theo [24, tr. 9]).
Việc học sinh tự đánh giá không những góp phần mục tiêu đánh giá mà còn
có ý nghĩa rất lớn. Việc làm này có tác dụng bồi dưỡng cho học sinh ý thức trách
nhiệm, tinh thần tự phê bình, khả năng tự đánh giá, tính độc lập, lòng tự tin và
tính sáng tạo.
Việc học sinh tự đánh giá có thể diễn ra khi họ phải làm một bài tập, trình
diễn một hoạt động trước lớp, tạo một sản phẩm học tập. Điều này có thể được
12
thực hiện ngay từ những lớp học sinh còn nhỏ tuổi và được sử dụng ngày càng
được rộng rãi ở những lớp trên.
Sự hiểu biết về bản thân là một yếu tố vô cùng quan trọng. Khi đánh giá
đúng về mình, người ta có thể xác định được phương hướng đúng cho sự tự giáo
dục bản thân. Nói khác đi, tự đánh giá là tiền đề định hướng của tự giáo dục.
Như vậy tự đánh giá đã được quan tâm nghiên cứu trong nhiều năm qua

nhưng cho đến nay quan niệm về tự đánh giá vẫn chưa có sự đồng nhất. Tuy
nhiên, dù hiểu theo cách nào thì tự đánh giá cũng bao gồm: thu thập, xử lí các
thông tin về bản thân; đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn do bản thân hoặc người
khác đề ra; trên cơ sở đó tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân; đề
xuất những quyết định để cải thiện thực trạng.
Vì vậy, ta có thể hiểu tự đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập, phân
tích và lí giải thông tin về kết quả học tập của bản thân, đối chiếu với mục tiêu,
nhiệm vụ của bài học, môn học, lớp, nhà trường nhằm tạo cơ sở cho các quyết
định để việc học tập của chính họ ngày một tiến bộ hơn.
Với cách hiểu như thế thì:
- Tự đánh giá kết quả học tập là bộ phận của quá trình đánh giá và thuộc
dạng đánh giá quá trình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nó cũng có thể
mang tính chất của đánh giá chuẩn đoán hoặc tổng kết.
- Tự đánh giá kết quả học tập là một hoạt động tự phản ánh quá trình học
của bản thân người học về những vấn đề như: đã học được những gì, đã học như
thế nào và cần phải làm gì để học tốt hơn
Trong phạm vi luận văn này, tự đánh giá kết quả học tập được xem xét
trong mối quan hệ với đánh giá và với hoạt động dạy học, tức là nó vừa có tính
chất đánh giá để điều chỉnh quá trình học tập, vừa có tính chất của việc học, tự
học. Như vậy, tự đánh giá kết quả học tập có thể diễn ra trong toàn bộ quá trình
học tập của học sinh, khi học tập có sự hướng dẫn của giáo viên và khi không có
sự hướng dẫn của giáo viên.
13
1.2.2.2. Mục đích, vai trò của tự đánh giá kết quả học tập của học sinh
trong quá trình dạy học
a) Mục đích của tự đánh giá
Theo [24, tr. 10], Xét về phương diện hoạt động, tự đánh giá là mục đích tự
thân của con người, giúp nhìn nhận lại bản thân, biết được năng lực của mình,
do đó họ có thể lựa chọn và tiến hành những hoạt động thích hợp để đạt được
mục đích công việc. Biết tự đánh giá là một điều kiện quan trọng quyết định

phần thành công, tránh phần thất bại trong mọi công việc của mỗi con người.
Đối với quá trình giáo dục, tự đánh giá tạo cơ hội cho người học đưa ra những
nhận xét, bình phẩm và tự phán quyết về công việc học tập của mình, do đó phát
huy vai trò nội lực của người học trong quá trình giáo dục.
Theo [24, tr. 10], Xét về phương diện mục đích, tự đánh giá kết quả học tập
tạo cơ hội cho học sinh thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, thấy
được những cơ hội và thách thức đối với công việc của mình và do đó học sinh có
thể tự tin hơn trong việc hoạch định tương lai, cải thiện việc học tập của họ. Tự
đánh giá kết quả học tập chẳng những giúp cho người học nhanh tiến bộ mà còn
cung cấp những thông tin giúp giáo viên đánh giá học sinh sâu sắc, chính xác hơn.
Theo [24, tr. 11], dạy học theo hướng coi trọng vai trò chủ động của người
học, coi việc rèn luyện phương pháp tự học để chuẩn bị cho học sinh năng lực tự
học liên tục suốt đời thì giáo viên phải hướng dẫn nhằm hình thành và phát triển
kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập để họ tự điều chỉnh cách học. Do đó, xét
trong phương diện tự học, tự đánh giá kết quả học tập là một khâu quan trọng,
vừa giúp người học xác định hiệu quả của quá trình tự học vừa điều chỉnh và
định hướng cho quá trình tự học tiếp theo.
b) Ý nghĩa, vai trò của tự đánh giá
Tự đánh giá góp phần phát triển hứng thú của người học trong quá trình tự
học và phát huy tính độc lập của họ, do đó nó rất cần thiết đối với quá trình dạy học
(dẫn theo [24, tr. 11]).
Tự đánh giá rất cần thiết bởi: nó giúp cho học sinh trở nên có trách nhiệm
hơn đối với quá trình học của bản thân; cung cấp thông tin phản hồi về quá trình
14
học tập của chính người học, giúp họ thấy được những điểm mạnh, điểm yếu,
năng lực, trình độ kiến thức, kĩ năng của bản thân để có được sự điều chỉnh và
định hướng hoạt động học tập tiếp theo cho phù hợp; giúp cho học sinh tự tin,
tích cực, độc lập và linh hoạt hơn trong học tập (dẫn theo [24, tr. 11]).
Tự đánh giá không chỉ có ý nghĩa lớn với hoạt động học của học sinh mà nó
còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động dạy của giáo viên vì chúng giúp

cho: các bài học trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn nhờ học sinh hoạt động
tích cực và độc lập hơn; cung cấp thông tin phản hồi giúp giáo viên nhận ra sự
tiến bộ của học sinh; chia sẻ trách nhiệm đánh giá và kết quả đánh giá sẽ chính
xác hơn, việc xây dựng kế hoạch học tập cho học sinh của giáo viên trở nên sát
thực hơn; giúp giáo viên thấy được những việc tiếp theo họ phải làm đối với
từng cá nhân và các nhóm.
Như vậy, tự đánh giá có ý nghĩa, vai trò rất lớn trong quá trình dạy học và
trở thành một thành phần của hoạt động học tập. Nó là “lực nắn” hữu hiệu cách
học, phát huy nội lực người học, là công cụ phản ánh năng lực, giúp nâng cao
hiệu quả học tập. Do đó, tự đánh giá là một kĩ năng quan trọng trong quá trình
học giúp cho người học có thể học tập suốt đời. Hơn nữa, tự đánh giá giúp học
sinh có thể đánh giá chính xác bản thân và chia sẻ trách nhiệm đánh giá với giáo
viên.
1.2.2.3. Đặc trưng của hoạt động tự đánh giá và các hình thức của hoạt
động tự đánh giá
a) Đặc trưng của hoạt động tự đánh giá của học sinh
Theo [24, tr. 12-13] thì:
- Hoạt động tự đánh giá của hoc sinh mang tính độc lập. Vì người học là chủ
thể của hoạt động nhận thức nên họ phải có trách nhiệm về sản phẩm của mình, tức
là kết quả học tập. Trong hoạt động tự đánh giá kết quả học tập, tính độc lập giữ vai
trò rất quan trọng, nó giúp cho người học chủ động xử lí thông tin phản hồi để tự
điều chỉnh hoạt động học tập trước khi họ, nhờ đó hoạt động học tập của họ trở nên
tích cực, chủ động và hiệu quả hơn.
15
- Hoạt động tự đánh giá có tính tất yếu. Do bản chất của hoạt động của con
người là hoạt động có mục đích, hơn nữa con người có khả năng là sau một hoạt
động thường kiểm tra xem hoạt động đó đạt mục đích hay chưa nên hoạt động tự
đánh giá của học sinh là tất yếu. Học sinh có thể tiến hành hoạt động này sau
một bài, một chương, một môn học, trong khi tự học hoặc sau khi đọc một tài
liệu nào đó, nhằm xác định mức độ lĩnh hội kiến thức, kĩ năng của bản thân.

- Hoạt động tự đánh giá có tính mục đích. Khi người học xác định được
mục đích tự đánh giá thì hoạt động này sẽ dựa trên trách nhiệm của cá nhân và
sự điều khiển của ý chí. Tự đánh giá lúc này là hoạt động tự giác, chủ động, có
phương pháp, mục tiêu và giải pháp cá nhân gắn với nhu cầu giá trị và khả năng
cá nhân.
- Hoạt động tự đánh giá mang dấu ấn cá nhân. Tự đánh giá sẽ mang dấu ấn
của chủ thể, chịu ảnh hưởng chủ quan của chính người tiến hành đánh giá. Hoạt
động tự đánh giá của học sinh phải đảm bảo khách quan, trung thực với kết quả
học tập và với chính bản thân người học (chủ thể của hoạt động). Khi đó, hoạt
động tự đánh giá mới trở thành động lực thúc đẩy quá trình học tập tiến bộ, trái
lại nó sẽ làm cho người học rơi vào trạng thái “tự mê” và cản trở tiến bộ của
người học. Vì vậy, để có thể giảm bớt ảnh hưởng của yếu tố chủ quan này, giáo
viên nên giúp học sinh nắm chắc mục tiêu, nhiệm vụ học tập đồng thời cụ thể
hóa các tiêu chí đánh giá, chia sẻ tiêu chí đánh giá với người học.
- Hoạt động tự đánh giá mang tính xã hội. Mục tiêu của giáo dục là hình
thành nên những mô hình nhân cách đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Cùng
với sự phát triển của xã hội, giáo dục phải đổi mới thật sự để có thể đáp ứng
được các yêu cầu đặt ra của xã hội. Trong xu thế đổi mới giáo dục hiện nay theo
hướng tăng cường tính tích cực, tự lực và chủ động của người học thì tự đánh giá
là một không thể thiếu của quá trình đánh giá và cũng là hoạt động rất cần thiết
trong quá trình học tập của học sinh. Do đó, có thể nói tự đánh giá cũng chịu ảnh
hưởng một cách gián tiếp của các yêu cầu của xã hội. Hơn nữa, các tiêu chí để tự
đánh giá nó cũng phản ánh yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Vì vậy có thể nói tự
đánh giá có mang đặc trưng xã hội.
16
- Hoạt động tự đánh giá mang đặc trưng hoạt động trí tuệ: tự đánh giá là
một hoạt động trí tuệ, tự đánh giá hướng vào điều chỉnh hoạt động học tập. Để
có thể tự đánh giá được kết quả học tập đòi hỏi học sinh phải thực hiện các hoạt
động trí tuệ cơ bản như so sánh, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, Do đó, có
thể nói tự đánh giá nó chịu ảnh hưởng khá lớn bởi đặc điểm trí tuệ của chủ thể,

học sinh học khá giỏi thường thực hiện các hoạt động trí tuệ tốt hơn nên thường
tự đánh giá mình chính xác hơn so với học sinh trung bình, yếu kém.
b) Các hình thức của hoạt động tự đánh giá của học sinh
Có nhiều cách tiếp cận hoạt động tự đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Trong luận văn này tiếp cận hai hình thức cơ bản đó là:
- Học sinh tự đánh giá dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên.
Hình thức này diễn ra trong quá trình dạy học, thầy trò giáp mặt nhau trên lớp.
Trong quá trình truyền thụ kiến thức, thầy khéo léo cài đặt những hoạt động để
học sinh có thể tự đánh giá. Chẳng hạn, thông qua trả lời các câu hỏi, qua nhận
xét về bài làm của mình, của bạn, hoặc qua nhận xét, phân tích, đánh giá của
giáo viên, qua các phiếu học tập, qua trao đổi thảo luận trong nhóm, Trong
hình thức này, việc đánh giá của thầy sẽ là mẫu, là chuẩn mực để học sinh tự
đánh giá.
- Học sinh tự đánh giá không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên.
Hình thức này có thể bao gồm hai kiểu cơ bản là: Học sinh tự đánh giá theo sự
hướng dẫn (gián tiếp) của giáo viên hoặc học sinh độc lập tiến hành hoạt động tự
đánh giá.
+ Trên cơ sở quá trình dạy học trên lớp, giáo viên đưa ra các yêu cầu để
học sinh tự học và tự đánh giá kết quả học tập, đó là tự đánh giá theo sự hướng
dẫn (gián tiếp) của giáo viên. Chẳng hạn, sau giờ học giáo viên đưa ra phiếu
hướng dẫn học ở nhà hay câu hỏi yêu cầu hiểu sâu, mở rộng vấn đề hoặc bài tập
vận dụng, học sinh tự học và đối chiếu kết quả hoặc “bắt chước” giáo viên tiến
hành tự đánh giá kết quả học tập.
+ Khi tự đánh giá trở thành nhu cầu, thói quen thì học sinh có thể tiến hành
hoạt động này một cách tự giác trong quá trình tự học của mình, đó là học sinh
17
độc lập tiến hành hoạt động tự đánh giá. Các em có thể tự đánh giá về mức độ
lĩnh hội kiến thức sau khi học xong một nội dung hay khi tham khảo xong một
tài liệu
1.2.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức tự đánh giá

Trong đổi mới đánh giá, tự đánh giá kết quả học tập đã và đang trở thành
một hình thức đánh giá có vai trò quan trọng. Ta có thể thấy được các ưu điểm
cơ bản là: tự đánh giá cho phép học sinh chú ý hơn đến các mục tiêu học tập;
Khi học sinh có kĩ năng tự đánh giá sẽ có nhiều khả năng hoàn thành được các
nhiệm vụ khó khăn một cách tự tin hơn với khả năng của họ và có trách nhiệm
hơn đối với việc học tập; Động lực học tập được nâng cao, học sinh định hướng
tốt hơn hoạt động học tập và công việc tiếp theo; Cung cấp phản hồi về kết quả
học tập để học sinh có thể tự cải thiện quá trình học tập; tự đánh giá giúp cho
học sinh học tập độc lập, tích cực, chủ động hơn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp học sinh tự đánh giá không đúng, có
thể đánh giá quá cao hoặc quá thấp về mình. Tự đánh giá sẽ không cung cấp cho
học sinh sự phản hồi đầy đủ về thành tích học tập khi nó được sử dụng một cách
đơn độc. Do đó, cần kết hợp tự đánh giá của học sinh với đánh giá của giáo viên
và các lực lượng giáo dục khác.
1.2.2.5. Các bước để học sinh tự đánh giá kết quả học tập
Bước 1: Xác định mục tiêu, nhiệm vụ học tập. Mục tiêu, nhiệm vụ học tập
là kết quả cần phải đạt được ở học sinh sau mỗi nội dung hoặc hoạt động học tập
của họ, thường được giáo viên đặt ra trước, trong hoặc sau một bài học, một
hoạt động, cũng có khi được chính người học đặt ra. Mục tiêu, nhiệm vụ học tập
phải bám sát và dựa trên cơ sở là chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học (dẫn
theo [24, tr. 14]).
Bước 2: Thực hiện hoạt động học tập. Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ học
tập, học sinh tiến hành hoạt động học tập. Có thể là hoạt động học tập ở lớp, ở
nhà, có thể có giáo viên hướng dẫn trực tiếp hoặc không. Hoạt động có thể diễn
ra trong thời gian ngắn hay dài tùy thuộc vào mục tiêu đặt ra là mục tiêu ngắn
hạn hay dài hạn, mục tiêu trước mắt hay lâu dài (dẫn theo [24, tr. 14]).
18
Bước 3: Đối chiếu kết quả học tập với mục tiêu, nhiệm vụ học tập. Để kiểm
nghiệm hiệu quả hoạt động học tập, học sinh phải biết đối chiếu kết quả với mục
tiêu, nhiệm vụ của bài học, môn học nhằm xác định mức độ đạt được sau khi

học (xem mục tiêu nào đã đạt được, mục tiêu nào chưa đạt được) (dẫn theo [24,
tr. 14]).
Bước 4: Ra quyết định. Trên cơ sở đối chiếu, so sánh kết quả đánh giá với
mục tiêu, nhiệm vụ học tập, người học phân tích, bình luận, nhận xét và đánh
giá, về kết quả học tập của mình. Từ đó, họ xác định được nguyên nhân, bước
tiếp theo trong hoạt động học của mình nhằm tự rút kinh nghiệm, tự điều chỉnh
kiến thức, kĩ năng và cải thiện việc học tập (dẫn theo [24, tr. 14]).
1.2.3. Mối quan hệ giữa tự đánh giá và đánh giá kết quả học tập
Theo [24, tr. 14-15], Tự đánh giá kết quả học tập là một bộ phận của quá
trình đánh giá mà chủ thể đánh giá và đối tượng đánh giá là một. Trong quá
trình giáo dục, nếu chỉ có đánh giá của giáo viên và các lực lượng giáo dục khác
thì quá trình đánh giá khó có thể trở thành “lực nắn” thực sự đối với hoạt động
học tập của học sinh, bởi khi đó người học khó nhận thức đầy đủ về bản thân
nên không thể giữ được thế chủ động trong các hoạt động, do đó khó có thể điều
chỉnh hoạt động của chính mình và hiệu quả của công việc sẽ thấp.
Ban đầu có thể học sinh chưa biết cách tự đánh giá, giáo viên cần giúp họ
cách đánh giá, qua đó bắt chước, tiến tới biết đánh giá và lâu dần có thể biết tự
đánh giá. Do đó, tự đánh giá là một nội dung mà học sinh phải học mới có được.
Vì thế, có thể coi tự đánh giá là một hoạt động học tập của học sinh, hơn nữa
việc tự đánh giá luôn đi cùng với việc học và tự học.
Một khi người học (chủ thể nhận thức) hiểu rõ mục tiêu, nhiệm vụ và xác
định được mức độ kiến thức, kĩ năng và thái độ của mình thì hoạt động học tập
mới thực sự chủ động, tích cực và hiệu quả. Như vậy, tự đánh giá tác động đến
quá trình dạy học, ảnh hưởng đến kết quả học tập.
Khi biết tự đánh giá thì hoạt động này chẳng những cung cấp thông tin phản
hồi về hoạt động học cho người học mà còn cung cấp cả những thông tin phản hồi
cho giáo viên, nhà quản lí giáo dục, giúp cho quá trình đánh giá trở nên sát thực hơn,
19
hiệu quả hơn, tránh những cách nhìn nhận áp đặt. Nhờ đó, tự đánh giá giúp cho quá
trình đánh giá trở nên chính xác, hiệu quả hơn.

Con người khó ai có thể tự mình nhìn nhận được hết những ưu, nhược điểm
của bản thân. Trong quá trình giáo dục nếu chỉ có tự đánh giá của học sinh thì
chưa đủ, bởi họ chẳng những còn ít kinh nghiệm mà còn chịu ảnh hưởng của cái
“tôi” nên việc tự đánh giá ít nhiều còn mang tính chủ quan, phiến diện. Vì vậy, để
cho hoạt động tự đánh giá có hiệu quả thì bên cạnh việc đánh giá của mình học
sinh phải biết lắng nghe, tiếp thu những ý kiến đánh giá từ bên ngoài (giáo viên,
bạn học và các lực lượng giáo dục khác) để có sự điều chỉnh hoạt động học tập
cho đúng đắn và thông tin thu nhận được sẽ đảm bảo tính khách quan, toàn diện
và chính xác. Như vậy, quá trình đánh giá mới giúp quá trình tự đánh giá trở nên
khách quan, toàn diện, chính xác và hiệu quả hơn.
Từ đó, thống nhất giữa đánh giá và tự đánh giá, giữa đánh giá của giáo viên
và tự đánh giá của học sinh là một nguyên tắc quan trọng của đánh giá, dạy học
và giáo dục. Nếu như trong dạy học, học sinh không thể thiếu vai trò của giáo
viên thì trong tự đánh giá học sinh cũng không thể thiếu vai trò của người thầy.
Một khi ý thức được điều này, giáo viên cần chủ động xác định yêu cầu đầu ra
cho mỗi bài học mà đề ra cho học sinh kế hoạch học, tự học, tự đánh giá để sao
cho có thể nâng cao mức độ hiểu biết, đáp ứng được yêu cầu về mục đích, kiến
thức cần học.
1.2.4. Về kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập của học sinh
1.2.4.1. Về kĩ năng và rèn luyện kĩ năng
a) Kĩ năng
Qua các tài liệu như: [21], [24], [26], cho thấy có nhiều cách hiểu về kĩ
năng. Tùy theo cách tiếp cận mà tác giả nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh
khác. Nhưng nhìn chung, ta thấy có hai hướng tiếp cận như sau: Hướng thứ nhất,
xem xét kĩ năng nghiêng về mặt kĩ thuật của hành động, coi kĩ năng như là một
phương tiện thực hiện hành động mà con người đã nắm vững. Theo hướng này
người có kĩ năng là người đã nắm vững tri thức về hành động theo đúng yêu cầu
của nó. Hướng thứ hai, xem xét kĩ năng nghiêng về năng lực của con người, là

×