Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Sử dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH




TRẦN THỊ THÙY DUNG





Sö DôNG PH¦¥NG PH¸P D¹Y HäC THEO Dù ¸N
TRONG D¹Y HäC NG÷ V¡N 9









LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC









NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH




TRẦN THỊ THÙY DUNG




Sö DôNG PH¦¥NG PH¸P D¹Y HäC THEO Dù ¸N
TRONG D¹Y HäC NG÷ V¡N 9


Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 60.14.01.11






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. NGUYỄN VĂN TỨ



NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Mục đích nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Cấu trúc của luận văn 5
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC THEO DỰ ÁN TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 9 6
1.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng phương pháp dạy học theo dự án
trong dạy học Ngữ văn 9 6
1.1.1. Phương pháp và phương pháp dạy học 6
1.1.2. Phương pháp dạy học theo dự án 7
1.1.3. Các kiểu dạy học theo dự án và tiến trình dạy học theo dự án
cùng các hoạt động tương ứng 18
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp dạy học theo dự án
trong dạy học Ngữ văn 9 26
1.2.1. Thực trạng dạy học Ngữ văn ở bậc THCS và việc sử dụng
phương pháp dạy học theo dự án ở trường THCS 26
1.2.2. Tính khả thi của việc áp dụng phương pháp dạy học theo dự
án trong dạy học Ngữ văn 9 30
Tiểu kết chương 1 35
Chương 2. NỘI DUNG, QUY TRÌNH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP

DẠY HỌC THEO DỰ ÁN TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 9 36
2.1. Cấu trúc, nội dung chương trình SGK Ngữ văn 9 36
2.2. Lựa chọn nội dung triển khai phương pháp dạy học theo dự án 37
2.3. Quy trình và cách thức áp dụng phương pháp dạy học theo dự án
trong dạy học Ngữ văn 9 42
2.3.1. Khâu chuẩn bị 42
2.3.2. Triển khai dự án trên lớp 61
2.3.3. Đánh giá 68
Tiểu kết chương 2 69
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 70
3.1. Mục đích thực nghiệm 70
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm 70
3.3. Nội dung thực nghiệm 70
3.4. Tổ chức thực nghiệm 70
3.4.1. Quá trình chuẩn bị 70
3.4.2. Triển khai dự án trên lớp 76
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm 87
Tiểu kết chương 3 88
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
PHỤ LỤC



NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


Các từ viết tắt Được hiểu là
GV Giáo viên
HS Học sinh

Nxb Nhà xuất bản
SGK Sách giáo khoa
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG
Trang
Sơ đồ:
Sơ đồ 1.1. Quá trình tương tác trong học tập 8
Sơ đồ 1.2. Mô hình quá trình dạy học 14
Sơ đồ 1.3. Mối quan hệ giữa 3 phân môn trong bộ môn Ngữ văn 32
Sơ đồ 2.1. Khả năng liên kết nội dung các phân môn để áp dụng dạy
học theo dự án trong môn Ngữ văn (chương trình SGK Ngữ
văn 9) 38
Sơ đồ 2.2. Quy trình xây dựng ý tưởng từ một nội dung cụ thể 44
Sơ đồ 2.3. Quy trình xây dựng ý tưởng dự án từ vấn đề thực tế 44
Sơ đồ 3.1. Quy trình xây dựng ý tưởng dự án từ vấn đề thực tế 71
Bảng:
Bảng 1.1. Tiến trình dạy học theo dự án và các hoạt động tương ứng 24
Bảng 1.2. Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học trong môn Ngữ
văn của giáo viên 28
Bảng 1.3. Mức độ hứng thú với các phương pháp dạy học của học sinh 29
Bảng 2.1. Thiết kế chương trình dạy học theo dự án môn Ngữ văn 9 40
Bảng 2.2. Mẫu phạm vi nội dung của dự án 48
Bảng 2.3. Mẫu phạm vi kĩ năng của dự án 49
Bảng 2.4. Mẫu bảng phân loại dự án dựa vào đối tượng tham gia 51
Bảng 2.5. Phân vai dự kiến 53
Bảng 2.6. Mẫu kế hoạch khái quát của dự án 57
Bảng 2.7. Mẫu kế hoạch chi tiết cho các hoạt động trong dự án 57
Bảng 2.8. Mẫu lịch trình dự án 58

Bảng 2.9. Mẫu bản kiểm mục trong hồ sơ dự án 59
Bảng 3.1. Bảng phân vai dự kiến 74
Bảng 3.2. Nhiệm vụ giáo viên 77
Bảng 3.2. Nhiệm vụ của học sinh 79


1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, quá trình toàn
cầu hóa đã và đang đặt ra những thách thức cho nền giáo dục Việt Nam, đòi
hỏi ngành giáo dục phải không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học để thực
hiện mục tiêu đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, sẵn sàng thích nghi với sự thay đổi
mạnh mẽ của kinh tế xã hội. Hiện nay, ngành giáo dục và đào tạo đang tích
cực thực hiện chủ trương đổi mới theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm”,
phát triển phẩm chất và năng lực, tính chủ động, sáng tạo của người học, đổi
mới kiểm tra đánh giá. Nhằm hiện thực hóa chủ trương này ngành giáo dục đã
đi vào nghiên cứu, ứng dụng hàng loạt các phương pháp giáo dục mới trong
đó phương pháp dạy học dự án là một phương án tích cực và tiến bộ.
Trong thực tế, việc dạy và học Ngữ văn chưa tạo được hứng thú cho
học sinh, tình trạng học sinh “chán” học văn là một thực tế khiến bao người
giáo viên phải suy ngẫm. Vận dụng phương pháp mới, cụ thể là phương pháp
dạy học theo dự án không chỉ tạo nhiều hứng thú, phát huy được tính tích cực,
chủ động của học sinh mà còn rèn luyện tư duy bậc cao và nhiều kĩ năng mềm
cần thiết. Phương pháp dạy học theo dự án bồi dưỡng phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Giúp quá trình dạy học đạt được mục tiêu của giáo dục phổ thông.

Về cơ bản, dựa trên nguyên tắc đề cao sự khám phá và xâu chuỗi vấn
đề “Dạy học dự án” là phương pháp có thể áp dụng cho tất cả các môn học.
Nhưng trong hệ thống các môn học trong trường phổ thông, bộ môn Ngữ Văn
là môn học có nhiều lợi thế áp dụng phương pháp dạy học dự án. Bởi lẽ, nội


2
dung của tiếp nhận văn học là quá trình giải mã tác phẩm và tái tạo lại bằng tư
tưởng, tình cảm và kinh nghiệm sống của người đọc. Do đó nó đòi hỏi cao sự
kích thích khám phá và sáng tạo mà điều này lại chính là ưu điểm lớn nhất
của dạy học dự án. Đưa phương pháp dạy học dự án vào giảng dạy Ngữ Văn
là một biện pháp vừa góp phần cải thiện tình trạng học sinh không có hứng
thú học vừa có thể tích hợp trang bị những kỹ năng cần thiết giúp gắn Văn
học với thực tiễn đời sống, thực hiện đúng quan điểm “học đi đôi với hành”.
Do đó nghiên cứu cách vận dụng phương pháp dạy học dự án vào dạy học nói
chung, bộ môn Ngữ Văn nói riêng để đạt hiệu quả cao là một vấn đề hết sức
cần thiết.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phương pháp dạy học theo dự án được hình thành từ những năm 30 của
thế kỷ trước do J. Dewey và W.H. Kilpatrick khởi xướng dựa trên những cơ
sở lí luận về tính tích cực của người học được xuất phát từ sự quan tâm đối
với chính môn học. Các nhiệm vụ học tập được gắn liền với các vấn đề thực
tiễn, quen thuộc hoặc có ý nghĩa đối với người học. Người học sẽ lĩnh hội các
kiến thức, kỹ năng liên quan việc thực hiện dự án, xây dựng các nhiệm vụ
thực, quan sát và giải quyết các vấn đề mang tính thực tiễn. Kết quả thực hiện
dự án (các sản phẩm, minh chứng quan sát được, kinh nghiệm, năng lực mới
trong giải quyết vấn đề, giá trị niềm tin… của người học) sẽ phản ánh mức độ
lĩnh hội kiến thức mới, kỹ năng và thái độ mới ở người học. Người dạy sẽ gợi
ý, cung cấp các nguồn thông tin cần thiết cho người học hoặc tham gia một
cách gián tiếp vào quá trình này thông qua việc định hướng, gợi ý vấn đề,

kích thích hứng thú… cho người học.
Như vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu của các học giả này đều
hướng đến việc xây dựng các dự án trong dạy học theo cách tạo điều kiện cho
học sinh tư duy các vấn đề và tìm cách giải quyết các vấn đề đó.


3
Ở Việt Nam số lượng đề tài nghiên cứu về việc áp dụng phương pháp
dạy học dự án mặc dù số lượng còn khá khiêm tốn nhưng nó đã và đang từng
bước được nghiên cứu, khai thác với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trước hết
chúng ta phải kể đến bài viết:
Dạy học theo dự án - một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo
giáo viên của các tác giả Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Diệu Thảo đăng
trên Tạp chí giáo dục số 80, tháng 4/2004; Lê Khoa (2012), Đánh giá trong
dạy học theo dự án, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, tháng 12/2012, Thực
nghiệm dạy học theo dự án ở một số trường trung học phổ thông tỉnh Vĩnh
Phúc, Tạp chí Giáo dục, số 327 (kỳ 1, tháng 2/2014); Nguyễn Thị Phương
Loan (2014), Phát triển kỹ năng nghề nghiệp thông qua dạy học dự án các
học phần Giáo dục học ở Trường cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn, Tạp chí Giáo
dục, số 328 (kỳ 2, tháng 2/2014); Đinh Thị Hồng Minh(2012), Áp dụng dạy
học theo dự án trong bài ancol, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, tháng 12/2012,
tr.143-144;… Hay một số đề tài đáng chú ý như sau:
Tổ chức dạy học dự án một số nội dung kiến thức chương “Cảm ứng
điện từ SGK lớp 11 Vật lý nhằm phát triển hoạt động nhận thức tích cực, tự
chủ của học sinh trong học tập - Luận văn thạc sĩ của Đào Thị Thu Thủy (Đại
học Sư phạm Hà Nội, 2006).
Tổ chức dạy học dự án một số nội dung kiến thức chương “Sự bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng” trong SGK Vật lý lớp 9 nhằm phát triển hoạt
động nhận thức tích cực, tự chủ của học sinh trong học tập - Luận văn thạc sĩ
của Trần Thúy Hằng (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2006).

Những công trình nghiên cứu trên là cơ sở để chúng tôi xây dựng và
phát triển đề tài của mình. Hiện nay trong phạm vi hiểu biết của chúng tôi
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập cụ thể đến việc áp dụng phương
pháp dạy học dự án trong dạy học Ngữ văn ở trường THCS nói chung,
chương trình Chương trình SGK lớp 9 nói riêng. Vì thế đề tài Sử dụng


4
phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học Ngữ văn lớp 9 có giá trị thực
tiễn mới mẻ của nó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài này chúng tôi lấy quá trình áp dụng
phương pháp dạy học dự án vào thực tiễn giảng dạy môn Ngữ Văn 9 ở bậc
THCS làm đối tượng nghiên cứu và chúng tôi tập trung nghiên cứu trong
phạm vi chương trình SGK Ngữ văn lớp 9.
4. Mục đích nghiên cứu
Đề tài Sử dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học Ngữ
văn lớp 9 được triển khai nhằm các mục đích như sau:
- Xây dựng quy trình vận dụng phương pháp dạy học theo dự án cho
chương trình Ngữ Văn lớp 9.
- Bằng các kết quả nghiên cứu khẳng định tính khả thi trong việc triển
khai phương pháp dạy học theo dự án đối với chương trình Ngữ văn 9.
- Thiết kế một số giáo án dạy học Ngữ văn 9 theo phương pháp dạy học
dự án.
Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa: Góp phần nhận diện và khái quát về một
phương pháp dạy học hiện đại, mang tính tích cực cao song còn khá mới mẻ,
đồng thời tạo ra một định hướng về quy trình thực hiện nhằm phát huy những
ưu điểm của phương pháp này khi áp dụng nó vào thực tiễn giảng dạy ở môn
Ngữ văn 9.
5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, tổng hợp, so sánh, phân
loại…(các tài liệu về dạy học theo dự án).
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm: quan sát, điều tra, phỏng
vấn, thống kê…
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thăm dò trước hiệu quả, tính
khả thi của phương pháp dạy học theo dự án ở môn Ngữ văn 9.


5
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc sử dụng phương pháp dạy học theo
dự án trong dạy học Ngữ văn 9
Chương 2: Nội dung, quy trình sử dụng phương pháp dạy học theo dự
án trong dạy học Ngữ văn 9
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm



6
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC THEO DỰ ÁN TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 9

1.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng phương pháp dạy học theo dự
án trong dạy học Ngữ văn 9
1.1.1. Phương pháp và phương pháp dạy học
Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới đích, để
giải quyết những nhiệm vụ nhất định.

Dạy học là một hoạt động đặc trưng nhất của giáo dục, cơ bản nhất
trong việc truyền thụ các vốn tri thức, kinh nghiệm trong xã hội loài người.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học nhưng xét
về tổng thể, bất kì một phương pháp nào cũng có thể được xem xet và phân
tích theo 3 cấp độ:
- Cấp độ lý luận: Phương pháp dạy học là hệ thống các nguyên tắc,
nguyên lí xác định mục đích, yêu cầu, điều kiện, phương thức, thực hiện
nhằm đạt được mục đích dạy học đặt ra.
- Cấp độ hoạt động thực tiễn: Phương pháp dạy học là tổ hợp các biện
pháp, phương thức tổ chức hoạt động dạy học của người dạy và người học
nhằm thực hiện các mục tiêu của môn học, chương học,
- Cấp độ hành động, thao tác: Phương pháp dạy học là tổ hợp các thao
tác, kỹ thuật, thủ pháp, thủ thuật cụ thể của người dạy và người học nhằm giải
quyết những nhiệm vụ cụ thể của bài học, tiết học.
Tuy nhiên, dù nhìn nhận dưới góc độ nào thì phương pháp dạy học vẫn
mang những nét đặc trưng, thể hiện:
- Mục đích của việc dạy học (sự vận động của nội dung và mục đích
chiếm lĩnh nội dung dạy học - tri thức khoa học).


7
- Phương thức chiếm lĩnh nội dung dạy học (hình thức, con đường trao
đổi và chiếm lĩnh thông tin trong dạy học).
- Đặc tính tương tác giữa các chủ thể trong dạy học (cách thức tổ chức,
tính thống nhất trong điều khiển hoạt động nhận thức trong dạy học).
Từ đó có thể đưa ra một định nghĩa tổng quát về phương pháp dạy học
như sau: Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức, biện pháp, thực hiện
hoạt động hợp tác, tương tác giữa người dạy và người học nhằm đạt mục tiêu
dạy học.
1.1.2. Phương pháp dạy học theo dự án

1.1.2.1. Khái niệm dạy học theo dự án
Trước khi làm rõ khái niệm dạy học theo dự án, chúng ta cần làm rõ khái
niệm “dự án” là gì? Trong tiếng Anh, thuật ngữ dự án là “Project”, có nguồn
gốc từ tiếng La tinh và ngày nay được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án,
một dự thảo hay một kế hoạch cần được thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra.
Từ đó, ta có thể hiểu dạy học dự án (Project Based Learning - PBL) là
việc dạy học trên cơ sở những “project” (dự án, đề án, kế hoạch) được giáo
viên và học sinh cùng hợp tác thiết kế một cách cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên,
cho đến ngày nay vẫn chưa xác định được một khái niệm chính xác về dạy
học dự án và cách hiểu về dạy học dự án cũng chưa đồng nhất. Sự khác nhau
giữa các quan điểm đó là do hướng tiếp cận đối tượng khác nhau của các tác
giả nghiên cứu.
Với nhóm tác giả nghiên cứu tiếp cận dạy học theo dự án như là một
hình thức tổ chức dạy học thì dạy học dự án được hiểu là quá trình dạy học đề
cao vai trò của sự thực hành hơn là lý thuyết, với mục tiêu hướng đến phát
triển tính tự lực cho học sinh tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập,
(từ việc xác định mục đích, lập kế họach, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra,
điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện). Hình thức chủ yếu là


8
hoạt động theo nhóm. Kết quả của dự án là những sản phẩm có thể trình bày
hoặc giới thiệu.
Với nhóm tác giả nghiên cứu tiếp cận dạy học dự án như là một phương
pháp dạy học thì dạy học dự án là quá trình hướng học sinh đến việc tiếp thu
kiến thức và kỹ năng thông qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống thực,
được gọi là một dự án (project) và tạo ra các sản phẩm thực. Dự án này có thể
chỉ giới hạn trong phạm vi lớp học và có độ dài khoảng 1-2 tuần, hoặc có thể
vượt ra ngoài phạm vi lớp học và kéo dài trong suốt năm học hay khóa học.
Tuy nhiên, với tư cách là một hình thức dạy học hay là một phương

pháp dạy học (mang tính phức hợp) thì bản chất của dạy học dự án vẫn là: sự
chuyển đổi người học sang cơ chế tự phát triển theo định hướng cá nhân
trong hoạt động học tập cộng tác, chuyển từ cách dạy “thầy nói” trên bục
giảng sang hướng dẫn “trò làm” nhiệm vụ thực (“from sage on the stage to
guide on the side” - Alison King, 1993).
Ở Việt Nam, dù chúng ta bắt gặp những cách gọi khác như “dạy học
dựa trên dự án”, “dạy học theo dự án” hoặc ngắn gọn hơn là “dạy học dự án”
thì thực chất các cách gọi này đều chỉ một phương pháp dạy học đó là phương
pháp dạy học theo dự án mà ở đó, học sinh thu nhận kiến thức khi tự lập kế
hoạch và tiến hành một dự án giải quyết một vấn đề có thực nào đó dưới sự
hướng dẫn, hỗ trợ của giáo viên. Quá trình tương tác trong dạy học khi áp
dụng phương pháp dạy học theo dự án có thể được sơ đồ hóa như sau:






Sơ đồ 1.1. Quá trình tương tác trong học tập
Giáo viên
Học sinh
Kiến thức


9
Như vậy, khi xem xét dạy học dự án dưới góc độ là quá trình tương tác
theo mô hình dạy học dự án thì nó được coi là một phương pháp dạy học hợp
tác trên cơ sở các nguyên tắc chính sau:
- Tương tác đa chiều: tạo ra nhiều cơ hội tương tác giữa giáo viên và
học sinh, giữa học sinh với nhau trong quá trình học vì vậy thời gian tham gia

tích cực của từng cá nhân học sinh được nhiều hơn so với lớp học theo
phương pháp truyền thống.
- Trách nhiệm cá nhân: Mỗi học sinh cần phải hoàn thành phần việc
của mình để đóng góp vào phần việc chung của cả nhóm. Từng cá nhân báo
cáo kết quả với nhóm. Các thành viên trong nhóm biết phần việc của từng
người và từng thành viên phải chịu trách nhiệm làm một phần việc cụ thể.
- Sự phụ thuộc mang tính xây dựng: Sự tiến bộ của mỗi cá nhân và của
nhóm sẽ có ảnh hưởng tích cực lẫn nhau khi sự tiến bộ của một học sinh kéo
theo sự tiến bộ của những học sinh khác hoặc sự thành công của nhóm này
đồng thời dẫn đến sự thành công của nhóm kia.
- Tham gia vào các phần việc đồng đều: Học sinh tham gia thực hiện
nhiệm vụ tùy theo khả năng của mình. Điều này có thể đạt được qua sự phân
công công việc và giao nhiệm vụ hợp tác.
Tóm lại, dạy học dự án là một hình thức của dạy học hợp tác, hướng
học sinh đến việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng thông qua quá trình giải quyết
một bài tập tình huống được gọi là một dự án mô phỏng môi trường mà các
em đang sống và sinh hoạt. Bản chất của dạy học dự án không phải là dạy học
học sinh những nội dung kiến thức cụ thể mà là dạy cho học sinh cách tiếp thu
và vận dụng kiến thức. Dự án có thể chỉ giới hạn trong phạm vi lớp học và có
độ dài khoảng 1-2 tuần hoặc có thể vượt ra ngoài phạm vi lớp học và kéo dài
trong suốt khóa học, năm học.Trong cách học theo dự án, học sinh làm việc
theo nhóm để giải quyết những vấn đề có thật trong đời sống, theo sát chương
trình học và có phạm vi kiến thức liên môn.


10
1.1.2.2. Các đặc điểm của dạy học theo dự án
Theo thực tế, có rất nhiều kiểu dự án có thể được tiến hành trong quá
trình dạy học. Tuy nhiên, xét về mặt bản chất thì các dự án học tập đều mang
những đặc điểm nổi bật sau:

a) Tính tích hợp, liên môn
Nội dung kiến thức trong dạy học theo dự án là nội dung mang tính liên
môn, tích hợp nhiều lĩnh vực nhằm giải quyết một vấn đề, một tình huống
thực mang tính phức hợp. Nhiều nhiệm vụ được đặt ra cùng lúc trong việc
thực hiện một dự án.
Ví dụ: Dự án mở hiệu sách cũ cho học sinh lớp 8.
Để thực hiện được dự án này, trong quá trình thực hiện, học sinh cần
phải gặp giáo viên môn toán để hỏi về kinh phí kinh doanh. Sản phẩm phải
nộp cho giáo viên toán là bản dự trù kinh phí. Học sinh đến gặp giáo viên
môn văn, xin tư vấn về cách viết những tờ rơi thăm dò nhu cầu mua sách của
người dân trong phường. Sản phẩm phải nộp cho giáo viên văn là phiếu thăm
dò. Cuối cùng học sinh cần trao đổi với giáo viên mỹ thuật để hỏi cách bày biện,
trang trí hiệu sách sao cho bắt mắt, hợp lí và thuận tiện.
b) Tính thực tiễn
Chủ đề của dự án thường được xuất phát từ những vấn đề của thực tiễn
xã hội và đời sống. Ví dụ: vấn đề môi trường, giao thông, các công trình xây
dựng, các chương trình văn hoá, nghệ thuật…Những chủ đề đó gợi ra những
nhiệm vụ thực, yêu cầu học sinh phải đối mặt và giải quyết những nhiệm vụ
đó chứ không chỉ dừng lại ở việc mô tả công việc đó trên lý thuyết.
Dạy học theo dự án gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời
sống, xã hội. Trong những trường hợp lý tưởng, việc thực hiện các dự án có
thể mang lại những tác động xã hội tích cực: kết quả của dự án đôi khi có khả
năng ứng dụng hoặc rất sát với thực tế diễn ra trong cuộc sống.


11
Ví dụ: Dự án cải tạo hồ bơi của trường (môn Toán) dành cho học sinh
trường THCS Trần Văn Ơn (quận 1, TP Hồ Chí Minh).
Học sinh đóng vai là những kỹ sư xây dựng, khảo sát thiết kế mỹ thuật,
đo đạc diện tích, tính toán số lượng gạch, tìm hiểu tính năng, chủng loại, giá

thành gạch sử dụng Kết quả, dự án hồ bơi của trường Trần Văn Ơn được
“đấu thầu” với giá 30 triệu đồng. Số tiền này gần trùng với kinh phí thật mà
nhà trường phải bỏ ra nếu như muốn cải tạo lại hồ bơi thật của trường (theo
báo TNTP, 5/9/2006).
c) Tính hành động
Học tập dựa trên dự án là học trong hành động (learning by doing). Học
sinh không còn là đối tượng tiếp nhận thông tin một chiều, chứa đựng thông
tin một cách bị động mà là người chủ động, tích cực giành lấy kiến thức bằng
cách thực hành giải quyết các nhiệm vụ thực, các vấn đề thực.
Ví dụ: Khi học bài “Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi)” (chương trình
SGK Ngữ văn 9), thay vì đọc và nhắc lại nội dung kiến thức trong SGK như:
thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi là những văn bản gì, nội dung của thư
(điện) chúc mừng và thăm hỏi, yêu cầu về mặt hình thức của thư (điện) chúc
mừng và thăm hỏi…, học sinh sẽ tiến hành viết một văn bản thư (điện) chúc
mừng và thăm hỏi cụ thể nào đó; sau đó giới thiệu sản phẩm đó. Qua việc
thực hành như vậy, học sinh sẽ tự rút ra được tri thức, kinh nghiệm về cách
tạo lập văn bản quảng cáo.
d) Tính xã hội
Nhiệm vụ đặt ra trong dạy học theo dự án tương đối phức tạp cho nên
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đòi hỏi phải có sự cộng tác chặt chẽ, liên
tục trong quá trình làm việc. Sự cộng tác này có thể có ở nhiều cấp độ, quy
mô và đối tượng khác nhau, với tư cách là những người cùng tham gia dự án
hoặc hỗ trợ dự án:


12
Sự cộng tác đầu tiên cần phải nói đến là sự cộng tác giữa giáo viên và
học sinh: giáo viên hướng dẫn, tư vấn, nhận xét quá trình làm việc để học sinh
có sự điều chỉnh kịp thời; học sinh thường xuyên phản hồi thông tin cho giáo
viên, thông báo tiến độ thực hiện dự án, thậm chí có thể đề xuất thêm những ý

tưởng mới.
Bên cạnh sự cộng tác giữa giáo viên và học sinh là sự cộng tác giữa học
sinh và học sinh. Đây là sự cộng tác phổ biến nhất. Việc thực hiện các nhiệm
vụ của dự án thường được tiến hành theo nhóm. Kỹ năng làm việc nhóm cũng
là một tiêu chí đánh giá học sinh trong quá trình dạy học theo dự án.
Một sự cộng tác cũng không kém phần quan trọng là sự cộng tác với
các lực lượng xã hội khác cùng tham gia dự án. Ví dụ: các bậc phụ huynh, các
nhà tài trợ xã hội, các cơ quan nhà nước có liên quan,…
e) Hướng vào sản phẩm dựa trên việc xác định chuẩn
Để xác định sản phẩm của dự án cần phải dựa trên căn cứ gọi là
chuẩn. Dạy học theo dự án là dạy học hướng đến chuẩn. Câu hỏi lớn nhất đặt
ra cho người dạy khi áp dụng dạy học theo dự án đó là: Chúng ta muốn học
sinh biết được những gì và học (làm) được những gì? Trả lời câu hỏi đó
chính là việc xác định chuẩn - căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành sản
phẩm của học sinh.
Kết quả của dạy học theo dự án bao giờ cũng là một sản phẩm có ý
nghĩa đối với người học, có thể sử dụng (tuỳ theo mức độ thực tế của sản
phẩm), công bố, giới thiệu như: các vật phẩm, các bản dự thảo, thiết kế, các
ấn phẩm điện tử… Việc đánh giá mức độ đạt chuẩn của người học chính là
dựa trên mức độ hoàn thành sản phẩm của họ (bao gồm quá trình thực hiện
sản phẩm, cách trình bày, giới thiệu sản phẩm và chất lượng sản phẩm). Do
vậy, khi bắt đầu triển khai một dự án học tập cần phải có định hướng về sản
phẩm một cách rõ ràng.


13
1.1.2.3. Những thay đổi các yếu tố trong quá trình tiến hành dạy học
theo dự án
Trong quá trình xem xét các đặc điểm của dạy học dự án, chúng tôi nhận
ra bên cạnh một số điểm tương đồng thì khi áp dụng phương pháp dạy học

theo dự án thì quá trình tiến hành dạy học có những thay đổi làm nên những
nét khác biệt sâu sắc so với việc dạy học truyền thống như sau:
Sự khác biệt trước tiên và trên hết cần phải kể đến là mục tiêu dạy học.
Về kiến thức, nếu như trong kiểu dạy học truyền thống, hoạt động chủ yếu
được quan tâm là hoạt động truyền thụ kiến thức một chiều của giáo viên với
những nội dung rập khuôn, riêng lẻ, có sẵn thì trong phương pháp dạy học dự
án mục tiêu dạy học về mặt kiến thức lại xoay chuyển theo hướng cung cấp
kiến thức mang tính chất tổng kết, xâu chuỗi theo từng nhóm bài. Bên cạnh
đó, mỗi một dự án đưa ra đều tính phức hợp, gắn lí thuyết với thực hành do
đó nó không chỉ dừng lại ở định hướng xâu chuỗi nhóm bài mà còn hướng tới
mục tiêu cung cấp cho học sinh kiến thức liên môn toàn diện. Về kĩ năng,
trước hết, dạy học dự án hướng tới phát triển tư duy bậc cao. Học sinh được
rèn luyện trong một môi trường hoàn toàn mới, được tham gia giải quyết
những vấn đề mang ý nghĩa thực tiễn nên kiến thức và kỹ năng không chỉ đáp
ứng mà thậm chí có thể vượt qua giới hạn môn học. Cùng một lúc học sinh
vừa được tiếp nhận vấn đề, vừa hình thành những tư duy tổng hợp, phê phán,
so sánh, đánh giá và sáng tạo. Không chỉ dừng lại ở đó, thông qua quá trình
thực hiện, dạy học dự án còn hướng đến việc phát triển kỹ năng mềm cho học
sinh như: kỹ năng hợp tác nhóm, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng
lập kế hoạch, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng quản trị cảm xúc bản thân…Các
kỹ năng này giúp học sinh tự tin và thành công trong cuộc sống sau này. Như
vậy, có thể nói mục tiêu chung của dạy học dự án - một phương pháp dạy học
tiến bộ là hướng đến sự phát triển tư duy bậc cao và hình thành kỹ năng sống


14
cho học sinh thông qua việc tiếp cận những nội dung có tính xâu chuỗi, liên
ngành, được triển khai trong một dự án cụ thể.
Nhưng quá trình dạy học không đơn thuần là một yếu tố riêng lẻ. Theo
lí thuyết lý luận dạy học, hoạt động dạy học nói chung là một sự thống nhất biện

chứng giữa các thành tố cơ bản: mục tiêu, nội dung, phương pháp và phương
tiện dạy học. Ta có thể sơ đồ hóa sự sự tương hợp giữa các yếu tố thành phần
như mô hình sau:









Sơ đồ 1.2. Mô hình quá trình dạy học

Sự thống nhất biện chứng ở đây có nghĩa là các thành tố cấu thành nên
hoạt động dạy học có mối quan hệ qua lại chặt chẽ, chi phối lẫn nhau. Khi
một yếu tố cấu thành thay đổi thì nó sẽ kéo theo sự thay đổi của các yếu tố
khác trong quá trình dạy học. Do đó, với sự thay đổi của mục đích dạy học
như đã nói ở trên thì việc chọn nội dung dạy học cũng mang những đặc điểm
khác so với nội dung dạy học kiểu dạy học truyền thống.
Nội dung kiến thức trong dạy học dự án mang tính chất tổng hợp và liên
môn được tích hợp từ nhiều bài học khác nhau trong một môn học và liên kết

Giáo viên - Học sinh
Mục tiêu
Nội dung
Phương tiện
dạy học
Phương pháp
dạy học

Kiểm tra
đánh giá
Môi trường
học tập


15
với các nội dung kiến thức thuộc bộ môn khác có liên quan. Đối với các dự án
ở hầu hết các môn học, giáo viên đều có thể tạo liên kết với nội dung kiến
thức môn công nghệ thông tin vì môn học này cung cấp nhiều kiến thức về
việc sử dụng máy tính và các phần mềm hỗ trợ đắc lực cho phần trình diễn và
tạo sản ra các sản phẩm kĩ thuật của học sinh trong quá trình thực hiện dự án.
Bên cạnh tính tổng hợp, liên môn thì nội dung kiến thức trong dạy học dự án
còn cần đáp ứng được tính thực tế. Điều đó có nghĩa là nội dung kiến thức
được đưa ra phải là chiếc cầu nối giữa nội dung lí thuyết với vấn đề trong
cuộc sống thực, có ý nghĩa xã hội. Chỉ khi biết và hiểu được sợi dây liên kết
này thì người học mới nhìn thấy hiệu quả và tính ứng dụng của những kiến
thức được học trong trường. Qua đó, góp phần tạo hứng thú tìm tòi, nghiên
cứu và sáng tạo cho người học.
Sự thay đổi tạo nên một trong những nét đặc trưng của phương pháp
dạy học theo dự án là sự thay đổi về vai trò của người dạy và người học.
Nếu như trong mô hình dạy học truyền thống, giáo viên (người dạy)
nắm giữ tất cả kiến thức và truyền tải đến học sinh (người học) thì với dạy
học dự án, trong suốt quá trình thực hiện giáo viên chỉ đóng vai trò là người
hướng dẫn (guide) và tham vấn (advise) chứ không phải là người điều khiển,
làm chủ toàn bộ quá trình dạy học”, “cầm tay chỉ việc” cho học sinh.
Ở môi trường này, giáo viên với việc có thể sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp là động lực thúc đẩy vai trò tự chủ của học sinh và gắn kết các
hoạt động với nhau, chịu trách nhiệm định hướng, tư vấn và hỗ trợ học sinh
giải quyết các vướng mắc chứ không làm điều đó. Mục đích của việc làm này

là giúp học sinh tự xác định và dần trả lời được các câu hỏi để thực hiện yêu
cầu này cần “làm gì?”, “tại sao?” và “làm như thế nào?”. Không chỉ vậy, để
quá trình thực hiện dự án diễn ra thuận lợi đòi hỏi bản thân người giáo viên
phải là những người tự mình đi trước tạo cơ hội học tập, không ngừng nâng
cao năng lực, tiếp cận thông tin và công nghệ hiện đại.


16
Trong quá trình dạy học theo dự án, học sinh không hoạt động một
cách riêng lẻ mà hoạt động theo nhóm. Học sinh là người chịu trách nhiệm
chính, là trung tâm của quá trình dạy học. Với mô hình này, học sinh đóng vai
trò là những “chuyên gia” thuộc những ngành nghề khác nhau trong xã hội,
hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra dựa trên những kiến thức và kỹ năng nhất
định. Học sinh tham gia tích cực và tự lực vào quá trình tiếp cận vấn đề và các
hoạt động cần phải tiến hành để giải quyết vấn đề. Quá trình tích lũy kiến
thức được chính bản thân các em thực hiện sau khi tiến hành thu thập dữ liệu,
tổng hợp, phân tích. Đồng thời học sinh cũng có trách nhiệm trong việc hoàn
thành và báo cáo sản phẩm. Như vậy dạy học theo dự án là một phương pháp
có thể thay đổi môi trường từ “người dạy nói” sang “người học làm việc”.
Về tổ chức dạy học cũng có sự thay đổi lớn đó là sự phối hợp đa dạng
của nhiều phương pháp, đặc biệt là các phương pháp dạy học tích cực. Khi kết
hợp các phương pháp một cách hợp lí thì tiến độ hoàn thành nhiệm vụ được
đẩy nhanh hơn và chất lượng sản phẩm cuối cùng cao hơn, qua đó nâng cao
chất lượng học tập của học sinh. Một số phương pháp dạy học mà giáo viên
có thể tiến hành khi thực hiện dự án như phương pháp dạy học theo nhóm
(trước khi tiến hành xây dựng dự án, giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm
để bàn bạc thống nhất về ý tưởng, lập kế hoạch dự án và thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể), phương pháp dạy học nêu vấn đề (nội dung của dự án là một vấn
đề có thực trong cuộc sống mà nhiệm vụ của học sinh là thảo luận tìm cách
giải quyết, khi tiến hành giải quyết vấn đề, học sinh sẽ áp dụng các kiến thức

và kĩ năng đã biết đồng thời học hỏi những kiến thức và kĩ năng mới), phương
pháp đóng vai (đối với một vấn đề được lựa chọn xây dựng dự án, các nhóm
học sinh có thể đóng nhiều vai xã hội khác nhau để tìm cách giải quyết, nhờ
đó học sinh sẽ có cơ hội tiếp thu kiến thức của những nghề nghiệp cụ thể
trong xã hội đồng thời qua đó thấy được vai trò của mình). Ngoài một số


17
phương pháp trên, các giáo viên vẫn có thể sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực khác để kích thích việc thể hiện vai trò chủ động của học sinh khi
tiến hành dự án.
Do trong quá trình dạy học theo dự án có sự phối hợp của nhiều phương
pháp nên đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học, đặc biệt là các
phương tiện dạy học hiện đại như: máy vi tính, máy chiếu, ti vi,… Cùng với đó
các cơ sở vật chất của nhà trường phải đáp ứng được như cầu như phòng học
hiện đại, internet…nguồn tài liệu phải đa dạng, phong phú. Do đó đây cũng là
một trong những lí do giải thích nguyên nhân vì sao dạy học dự án là một
phương pháp có nhiều ưu điểm nhưng hiện nay ở Việt Nam mới chỉ được áp
dụng ở các khu vực có cơ sở vật chất đầy đủ, có điều kiện phát triển.
Cuối cùng đó là sự thay đổi về cách thức kiểm tra, đánh giá. Nếu như
quá trình kiểm tra đánh giá truyền thống hiện nay vẫn còn một số vấn đề bất
cập như: tạo áp lực tâm lí nặng nề lên người học, hình thức kiểm tra, đáng giá
đơn điệu, rập khuôn, chưa được vận dụng triệt để với tư cách là công cụ,
phương tiện, thậm chí, phương pháp dạy học. Việc đánh giá chủ yếu chú
trọng tái hiện, tái tạo kiến thức, thông qua các bài kiểm tra, giải các bài tập
trong lớp học mang tính lí thuyết đơn thuần hơn là giải quyết các bài toán của
cuộc sống mang tính thực tiễn,… thì với dạy học dự án, việc kiểm tra, đánh
giá được thực hiện toàn diện trên cả hai mặt: đánh giá sản phẩm và đánh giá
quá trình hoạt động trên hai phương diện kiến thức và kỹ năng. Đối tượng
tham gia đánh giá: học sinh tham gia cùng với giáo viên trong quá trình đánh

giá dựa trên những tiêu chí đã được thống nhất. Cách thức đánh giá như vậy
đưa lại một cái nhìn đúng đắn và toàn diện đối với năng lực học sinh. Điều
này không chỉ khắc phục được tình trạng học tủ, học lệch mà còn yêu cầu các
em vừa lĩnh hội kiến thức, vừa phát triển kỹ năng. Bên cạnh sự thay đổi về
cách thức kiểm tra, đánh giá là sự thay đổi về đối tượng tham gia vào quá


18
trình đánh giá. Khác với các phương pháp truyền thống, đối tượng tham gia và
quá trình đánh giá chỉ bao gồm người dạy (giáo viên) thì dạy học dự án cho
phép người học (học sinh) tham gia cùng với giáo viên trong quá trình đánh
giá dựa trên những tiêu chí đã được thống nhất từ trước. Từ đó các em hình
thành tư duy phê phán khách quan trong một môi trường dân chủ. Quan trọng
hơn là trong quá trình đánh giá lẫn nhau học sinh sẽ dần dần phát hiện ra
những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân và của các bạn khác, từ đó rút ra
được kinh nghiệm cho riêng mình.
1.1.3. Các kiểu dạy học theo dự án và tiến trình dạy học theo dự án
cùng các hoạt động tương ứng
Trong thực tế dạy học có rất nhiều loại dự án khác nhau dựa trên những
tiêu chí phân loại như:
- Phân loại theo hoạt động chính của người học (dự án kiến tạo, dự án
tham quan, dự án kiểu trò chơi,…).
- Phân loại theo quy mô dự án (dự án lớp học, dự án trường học, dự án
liên kết mạng lưới các trường, dự án cấp quốc gia,…).
- Phân loại theo quỹ thời gian thực hiện dự án (dự án tuần, dự án
tháng, dự án năm,…).
Tuy nhiên, dù là kiểu dự án nào cũng đều trải qua một tiến trình thực
hiện cơ bản giống nhau. Có nhiều quan điểm về cách phân chia các giai đoạn
trong tiến trình dạy học theo dự án, song hầu hết các nhà giáo dục thống nhất
với cách phân chia thành 5 giai đoạn.

Giai đoạn 1: Xây dựng tiền đề dự án
Để xây dựng tiền đề dự án cần trải qua các bước cụ thể sau:
* Chọn tên (đề tài, chủ đề) dự án
Việc lựa chọn đề tài, chủ đề cho dự án được coi là bước phát triển ý
tưởng đầu tiên cho người học trong quá trình dạy học theo dự án. Có hai cơ sở
để xác định tên đề tài, chủ đề của dự án:


19
Thứ nhất, căn cứ vào việc phân tích nội dung chương trình môn học,
khả năng kết hợp nội dung các bài học trong bộ môn đó (hoặc thậm chí với
các bộ môn khác).
Thứ hai, căn cứ vào các vấn đề thực tiễn đang được xã hội quan tâm, có
khả năng trở thành một tình huống cho học sinh thực hành giải quyết (mô
phỏng tình huống thực).
Tính tích cực của chủ thể người học cũng được thể hiện rõ trong bước
đầu tiên này. Trên thực tế, việc lựa chọn tên đề tài, chủ đề dự án có thể được
tiến hành với những mức độ tham gia khác nhau của người dạy và người học:
Mức 1: Giáo viên lựa chọn chủ đề, đề tài, giới thiệu và yêu cầu học
sinh thực hiện như là một bài tập với hình thức mới mẻ.
Mức 2: Giáo viên và học sinh cùng thảo luận để đi đến việc thống nhất
tên đề tài, chủ đề cho dự án. Ý tưởng của học sinh sẽ là ý tưởng cơ bản, giáo
viên chỉ đóng vai trò phân tích, đóng góp, điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Mức 3: Học sinh chủ động đề xuất tên đề tài, chủ đề dự án và thuyết
phục giáo viên ủng hộ việc thực hiện dự án đó.
Một dự án học tập được coi là lý tưởng khi phát huy tối đa vai trò chủ
động, tích cực của học sinh như ở mức 3. Tuy nhiên, việc triển khai dạy học
theo dự án trên thực tế còn gặp khá nhiều thách thức. Theo quan sát, hiện nay
hình thức giáo viên và học sinh cùng thảo luận, lựa chọn ý tưởng và tên cho
dự án (như mức 2) vẫn phổ biến hơn cả.

* Xác định sản phẩm cuối
Khái niệm sản phẩm cuối không đơn giản chỉ là những sản phẩm thuần
tuý về mặt vật chất mà là tất cả những gì thu được mà tạo nên sự thay đổi về
chất ở người học. Cụ thể: sau quá trình học tập, học sinh không chỉ lĩnh hội
được kiến thức, không chỉ tạo ra được những thành phẩm có giá trị xác thực
(ví dụ: một bài báo, một website, một video…) mà còn tích luỹ được những

×