BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ LOAN
THÀNH PHẦN SÂU HẠI VÀ THIÊN ĐỊCH TRÊN
CÂY LẠC; ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI VÀ
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ SÂU CUỐN LÁ ĐẦU ĐEN
(Archips asiaticus Walsinhham) HẠI LẠC VỤ XUÂN
2014 Ở HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
1
NGHỆ AN, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ LOAN
THÀNH PHẦN SÂU HẠI VÀ THIÊN ĐỊCH TRÊN
CÂY LẠC; ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI VÀ
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ SÂU CUỐN LÁ ĐẦU ĐEN
(Archips asiaticus Walsinhham) HẠI LẠC VỤ XUÂN
2014 Ở HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trương Xuân Lam
NGHỆ AN, 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “ Thành phần sâu hại và thiên địch trên cây lạc; đặc điểm sinh học,
sinh thái và biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
Walsinhham) hại lạc vụ xuân 2014 ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An” được thực
hiện từ tháng 01 năm 2014 đến tháng 09 năm 2014 là sản phẩm của quá trình lao
động khoa học không mệt mỏi của tôi. Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Trương Xuân Lam. Những kết
quả đạt được đảm bảo tính chính xác và trung thực về khoa học.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Nghệ An, ngày 20 tháng 09 năm 2014
Học viên
Phạm Thị Loan
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
của các nhà khoa học, thầy cô giáo khoa Nông Lâm Ngư, chính quyền các xã nơi
điều tra, nghiên cứu, gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.
TS. Trương Xuân Lam đã mang lại cho tôi niềm đam mê khoa học. Đồng thời đã
tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ khoa Nông Lâm Ngư, Trung tâm
thực hành thí nghiệm trường Đại Học Vinh đã tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian
cũng như cơ sở vật chất, thiết bị thí nghiệm cho tôi hoàn thành tốt đề tài.
Xin cảm ơn chính quyền địa phương các xã của huyện Nghi Lộc đã tạo điều
kiện cho tôi trong quá trình điều tra thu thập vật mẫu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi
hoàn thành khóa luận này.
Nghệ An, ngày 20 tháng 09 năm 2014
Học viên
Phạm Thị Loan
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU vii
DANH MỤC CÁC HÌNH viii
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu 2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Tình hình nghiên cứu sâu hại và thiên địch của chúng trên sinh quần ruộng lạc
ở thế giới và Việt Nam 7
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 7
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu sâu hại lạc 7
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu thiên địch của sâu hại lạc 10
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 12
1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu sâu hại lạc 12
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu thiên địch của sâu hại lạc 19
1.2.2.3. Các nguyên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái và biện pháp phòng trừ sâu
cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus Walsinhham) 20
1.3. Những vấn đề tồn tại chưa được giải quyết 25
1.4. Những nội dung đề tài tập trung nghiên cứu 25
1.5. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An và huyện Nghi
Lộc 26
1.5.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An 26
1.5.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Nghi Lộc 27
iv
CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu 28
2.2. Phương pháp nghiên cứu 28
2.2.1. Phương pháp điều tra xác định thành phần sâu hại lạc và thiên địch 28
2.2.2. Phương pháp điều tra diễn biến mật độ sâu cuốn lá lạc (Archips asiaticus
Walsingham) 29
2.2.3. Phương pháp nuôi sinh học 29
2.2.4. Phương pháp xác định hiệu lực của thuốc trừ sâu sinh học 30
2.2.5. Phương pháp xử lý, bảo quản và giám định mẫu 31
2.2.6. Các chỉ tiêu theo dõi 31
2.2.7. Phương pháp xử lý số liệu 33
2.3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 33
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Thành phần sâu hại lạc vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 34
3.2. Thành phần thiên địch (côn trùng ký sinh, côn trùng và nhện lớn bắt mồi) sâu
hại lạc vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 39
3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) hại lạc vụ Xuân
năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An dưới ảnh hưởng của một số yếu tố sinh
thái 42
3.3.1. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14 ở
các chân đất trồng khác nhau, vụ Xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 43
3.3.2. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá lạc đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14
vụ Xuân sớm và Xuân chính vụ năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 45
3.3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên các giống
lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 47
3.3.4. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus ) trên lạc L14 trồng
thuần và trồng xen ngô, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 49
3.3.5. Mối quan hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với một
số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên lạc trồng vụ Xuân năm 2014 tại
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 50
v
3.3.5.1. Mối quan hệ giữa sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với bọ đuôi
kìm nâu đen (E. annulata) trên lạc trồng thuần giống L14 vụ xuân chính năm 2014
tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 51
3.3.5.2. Mối quan hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với
mật độ bọ 3 khoang (Ophionea ishii Habu) trên lạc giống L14 trồng đất thấp vụ
Xuân chính năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 53
3.3.5.3. Tỷ lệ Ong kén nâu đơn (Microplitis prodeniae) ký sinh sâu non sâu cuốn lá
đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc giống L26 vụ Xuân chính năm 2014 tại
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 55
3.4. Đặc điểm hình thái, sinh học của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus ) 58
3.4.1. Đặc điểm hình thái các pha phát dục 58
3.4.2. Tập tính hoạt động sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) 60
3.4.3. Vòng đời sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) 60
3.4.4. Thời gian sống của trưởng thành sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus) 63
3.4.5. Sức sinh sản của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) 63
3.5. Hiệu lực của một số loại thuốc sinh học trừ sâu cuốn lá đầu đen (Archips
asiaticus Walsinhham) 64
3.5.1. Khảo sát hiệu lực của thuốc sinh học đối với sâu cuốn lá đầu đen (Archips
asiaticus W.) trong phòng thí nghiệm 65
3.5.2. Hiệu lực của thuốc sinh học đối với sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
W.) hại lạc trên đồng ruộng 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 68
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
PHỤ LỤC ẢNH 76
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
BVTV Bảo vệ thực vật
CT Công thức
Ctv Cộng tác viên
ICRISAT Viện nghiên cứu cây có dầu quốc tế Ấn Độ
IPM Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management)
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Trang
Bảng 3.1. Thành phần và mức độ phổ biến các loài sâu hại lạc vụ Xuân 2014 tại
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 34
Bảng 3.2. Tỷ lệ các họ, loài sâu hại lạc vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An 36
Bảng 3.3. Thành phần và mức độ phổ biến các loài thiên địch của sâu hại lạc vụ
Xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 39
Bảng 3.4. Tỷ lệ các họ, các loài thiên địch của sâu hại lạc vụ Xuân 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 41
Bảng 3.5. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14
ở các chân đất trồng khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An 43
Bảng 3.6. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14
vụ Xuân sớm và Xuân chính vụ năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 45
Bảng 3.7. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên các
giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 48
Bảng 3.8. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14
ở ruộng trồng thuần và trồng xen ngô, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An 49
Bảng 3.9. Mối quan hệ giữa sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với bọ đuôi
kìm nâu đen (E. annulata Fabricius) trên lạc trồng thuần, giống L14 vụ Xuân chính
năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 52
Bảng 3.10. Mối quan hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với
mật độ bọ 3 khoang (Ophionea ishii Habu) trên lạc giống L14 trồng đất thấp vụ
Xuân chính năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 54
Bảng 3.11. Tỷ lệ Ong kén nâu đơn (Microplitis prodeniae) ký sinh sâu non sâu cuốn
lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc giống L26 vụ Xuân chính năm 2014 tại
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 56
Bảng 3.12. Kích thước các pha phát dục của sâu cuốn lá đầu đen 58
Bảng 3.13. Vòng đời sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) 61
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của thức ăn thêm đến thời gian sống của trưởng thành sâu
cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus ) 63
Bảng 3.15. Sức sinh sản của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) 64
Bảng 3.16. Hiệu lực của thuốc sinh học đối với sâu cuốn lá đầu đen trong phòng thí
nghiệm 65
Bảng 3.17. Hiệu lực của thuốc sinh học đối với sâu cuốn lá đầu đen (Archips
asiaticus Walsinhham) trên đồng ruộng 66
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14
ở các chân đất trồng khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An 44
Hình 3.2. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14
vụ Xuân sớm và Xuân chính vụ năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 46
Hình 3.3. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên các
giống lạc khác nhau, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 48
Hình 3.4. Diễn biến mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc L14
ở ruộng trồng thuần và trồng xen ngô, vụ Xuân năm 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An 50
Hình 3.5. Mối quan hệ giữa sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với bọ đuôi
kìm nâu đen (E. annulata) trên lạc giống L14 vụ Xuân chính năm 2014 tại huyện
Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 53
Hình 3.6. Mối quan hệ giữa mật độ sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) với
mật độ bọ 3 khoang O. ishii Habu trên lạc trồng đất thấp vụ Xuân chính năm 2014
tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 55
Hình 3.7. Tỷ lệ Ong kén nâu đơn (Microplitis prodeniae) ký sinh sâu non sâu cuốn lá
đầu đen (Archips asiaticus W.) trên lạc giống L26 vụ Xuân chính năm 2014 tại
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 57
Hình 3.8. Vòng đời sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) 62
Hình 3.9. Hiệu lực của thuốc sinh học đối với sâu cuốn lá đầu đen 65
trong phòng thí nghiệm 65
Hình 3.10. Hiệu lực của thuốc sinh học đối với sâu cuốn lá đầu đen (Archips
asiaticus Walsinhham) trên đồng ruộng 67
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cây lạc (Arachis hypogaea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày có nguồn gốc từ
Nam Mỹ. Lạc là cây đứng thứ 2 trong tổng số các loại cây lấy dầu thực vật, nó chỉ
đứng sau cây đậu tương, là cây có giá trị kinh tế cao đã và đang được nhiều nước
trên thế giới quan tâm [30] .
Cây lạc có giá trị dinh dưỡng cao, là nguồn lipit và protein quan trọng đối với
con người. Thân lá lạc còn là nguồn cung cấp thức ăn cho gia súc; tỷ lệ các chất
đường, đạm trong thân lá khá cao, đặc biệt trong khô dầu lạc có chứa tới 50%
protein có thể cung cấp đầy đủ thức ăn cho gia súc. Dầu lạc cũng được dùng trong
nhiều ngành công nghiệp. Trong số các cây trồng hằng năm thì lạc có khối lượng
xuất khẩu đứng thứ 2 sau cây lúa [33].
Tuy nhiên năng suất và sản lượng lạc ở nước ta nói chung còn chưa ổn định do
ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh, sâu bệnh, các biện pháp kỹ thuật, giống ,
trong đó sâu hại cũng là 1 trong những nguyên nhân rất quan trọng. Cho đến thời
điểm từ năm 2005 đến 2007 năng suất lạc của nước ta mới chỉ dừng lại ở mức trung
bình (1,77 tấn – 1,80 tấn/ha); trong khi đó năng suất lạc của Trung Quốc đạt từ 3,04
– 3,21 tấn ha, của Mỹ từ 3,21 – 3,51 tấn/ha, Ixrael 6,7 tấn/ha [32]. Bởi thế, việc đẩy
năng suất lạc ở nước ta lên ngang tầm với các nước nói trên đang là một thách thức
lớn đối với các nhà khoa học.
Theo thống kê của FAO thì Việt Nam là một trong mười quốc gia đứng hàng
đầu thế giới về sản xuất lạc, sản lượng lạc đạt 533,8 nghìn tấn [52]. Hiện nay khu
vực Bắc Trung Bộ là nơi có diện tích lạc lớn nhất cả nước (107,2 nghìn ha), tiếp đến
là khu vực trung du miền núi phía Bắc (50,8 nghìn ha) và đồng bằng sông Hồng
(34,5 nghìn ha).
Nghệ An được coi là vùng trồng lạc có truyền thống lâu đời, là tỉnh có diện
tích gieo trồng lạc lớn nhất cả nước (24,1 nghìn ha và sản lượng là 48,5 nghìn tấn)
chủ yếu tập trung tại một số huyện ven biển như Nghi Lộc (4300 ha), Diễn Châu (
3800 ha), và chủ yếu sản xuất trong vụ xuân [3].
2
Nghi Lộc là 1 trong những huyện có diện tích lớn, phẩm chất lạc tốt, năng suất
cao 20 – 22 tạ/ha và đạt tỷ lệ xuất khẩu 60 - 70 %, song năng suất lạc thường không
ổn định qua các năm, một trong những nguyên nhân chủ yếu là do sâu bệnh phá hại.
Ở các vùng trồng Lạc thuộc Huyện Nghi Lộc thì xu hướng chính trong phòng trừ
sâu hại lạc là quản lý tổng hợp dịch hại trên cây lạc, trong đó việc lợi dụng, duy trì
các loài thiên địch của sâu hại lạc, nhằm giảm thiểu thấp nhất việc sử dụng thuốc
hóa học trên cánh đồng lạc đang được ưu tiên, quan tâm và ứng dụng rộng rãi. Tuy
nhiên việc điều tra các loài thiên địch sâu hại lạc ở Nghi Lộc vẫn chưa được tiến
hành một cách có hệ thống. Hơn nữa, để phát triển biện pháp sinh học trong phòng
chống sâu hại lạc ngoài việc xác định thành phần sâu hại lạc thì cần phải quan tâm
tới thành phần thiên địch của chúng, đặc biệt là những nghiên cứu sinh học, sinh
thái các loài sâu hại chính và tập hợp các loài côn trùng ký sinh và bắt mồi của
chúng trên lạc.
Vì vậy, xuất phát từ tình hình thực tế của sản xuất, góp phần tìm hiểu tác hại
của sâu hại lạc, từ đó đề xuất biện pháp phòng chống để nâng cao năng suất và
phẩm chất lạc ở Nghệ An nói chung và Nghi Lộc nói riêng, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Thành phần sâu hại và thiên địch trên cây lạc; đặc điểm
sinh học, sinh thái và biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá đầu đen (Archips
asiaticus Walsinhham) hại lạc vụ xuân 2014 ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định được thành phần sâu hại lạc và thiên địch của chúng, một
số đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus
Walsinhham) từ đó đề xuất biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá hại lạc một cách hợp lý
để tăng năng suất cây lạc, giảm thiểu việc sử dụng thuốc hóa học trên cánh đồng ở
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Các loài sâu hại trên lạc và thiên địch của chúng.
- Sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) hại lạc.
3
* Phạm vi và nội dung nghiên cứu
- Thu thập và xác định thành phần sâu hại lạc và thiên địch của chúng (côn
trùng ký sinh sâu hại lạc và côn trùng bắt mồi).
- Xác định đặc điểm sinh học của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.)
trong điều kiện phòng thí nghiệm
- Xác định diễn biến mật độ của sâu cuốn lá đầu đen (Archips asiaticus W.) và
mối quan hệ của nó với một số loài côn trùng ký sinh, bắt mồi phổ biến trên cây lạc
tại Nghi Lộc, Nghệ An.
- Khảo nghiệm hiệu lực của một số loại thuốc sinh học trừ sâu cuốn lá lạc và
đề xuất biện pháp phòng trừ sâu cuốn lá lạc một cách hợp lý.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
Kết quả điều tra nghiên cứu góp phần bổ sung thành phần sâu hại lạc và
thiên địch của chúng ở vùng nghiên cứu, bổ sung những dẫn liệu về đặc điểm sinh
học, sinh thái học của sâu cuốn lá (Archips asiaticus W.). Đây là những tài liệu
khoa học để tập huấn, giúp người sản xuất lạc nhận biết về sâu hại lạc và thiên địch
của chúng trên đồng ruộng nhằm bảo vệ và duy trì tập hợp thiên địch sâu hại lạc
trên cánh đồng. Hơn nữa, các dẫn liệu về diễn biến mật độ của sâu cuốn lá (Archips
asiaticus W.) cũng giúp cho các nhà dự tính, dự báo xác định thời điểm tốt nhất để
phòng trừ sâu cuốn lá lạc nhưng vẫn bảo vệ được các loài côn trùng ký sinh, bắt
mồi, đồng thời đề xuất biện pháp phòng chống sâu hại lạc có hiệu quả.
* Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở kết quả điều tra bức tranh sinh thái của hệ sinh thái ruộng lạc,
người nông dân bước đầu chủ động đề xuất biện pháp phòng chống sâu cuốn lá
(Archips asiaticus W.) hại lạc một cách hợp lý, giảm thiểu chi phí sử dụng thuốc
hóa học mà vẫn tăng năng suất cây lạc.
Các dẫn liệu được trình bày trong luận văn sẽ là cơ sở để góp phần vào việc
áp dụng có hiệu quả biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) sâu hại lạc tại huyện
Nghi Lộc nói riêng và của tỉnh Nghệ An nói chung.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
* Dịch hại cây trồng là trạng thái tự nhiên của hệ sinh thái nông nghiệp
Các hệ sinh thái tự nhiên đều có khả năng tự điều chỉnh riêng. Đó là khả năng
tự lập lại cân bằng, cân bằng giữa các quần thể trong hệ sinh thái (ăn thịt - vật mồi,
ký sinh - vật chủ), cân bằng các vòng tuần hoàn vật chất và dòng năng lượng giữa
các thành phần của hệ sinh thái. Sự cân bằng này cũng có nghĩa là sự cân bằng giữa
các vật sản xuất, vật tiêu thụ và vật phân hủy. Sự cân bằng này cũng được gọi là sự
cân bằng sinh thái. Nhờ có sự điều chỉnh này mà các hệ sinh thái tự nhiên giữ được
sự ổn định mỗi khi chịu tác động của các nhân tố ngoại cảnh.
Hệ sinh thái là một hệ thống sống có khả năng tự điều chỉnh. Đó là khả năng
tự lập lại sự cân bằng giữa các quần thể sinh vật sống cùng nhau, trong đó là sự điều
chỉnh mối quan hệ khác loài trong quần xã như mối quan hệ giữa vật ăn thịt với con
mồi, giữa ký sinh với vật chủ và đó chính là cơ sở tạo nên sự cân bằng sinh thái.
Tuy nhiên, khả năng tự lập lại cân bằng của hệ sinh thái là cũng có giới hạn và chịu
sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường trong đó có sự tác động của con người.
Con người đôi khi vì muốn thu lợi nhuận kinh tế cao nên bằng nhiều hoạt động đã
làm cản trở khả năng tự điều chỉnh của hệ sinh thái, dẫn tới mất cân bằng sinh thái,
gây suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Muốn quản lý tốt các hệ sinh thái
thì nguyên lý cơ bản cần tuân thủ đó là giữ cho các hệ sinh thái này không nằm
ngoài khả năng tự điều chỉnh của nó.
Nói về tác hại của một loài sinh vật nào đó, thực ra là xét dưới góc độ lợi ích
của nó đối với con người. Trong tự nhiên không có loài sinh vật gây hại cũng không
có loài sinh vật nào hoàn toàn có lợi. Thực ra, mỗi loài sinh vật đều có một vị trí
nhất định trong tự nhiên, chúng thực hiện những chức năng riêng trong chu trình
chu chuyển hóa vật chất của tự nhiên.
5
Ở vòng tuần hoàn vật chất các loài sinh vật tồn tại hài hòa với nhau khi hệ sinh
thái hoạt động bình thường. Do đó, đảm bảo cho hệ sinh thái tồn tại và phát triển.
Trên cơ thể cây trồng và xung quang các loài cây trồng có rất nhiều loài sinh vật
khác nhau cùng tồn tại. Trong số đó, có loài cần thiết cho hoạt động sống của cây
trồng, thiếu chúng cây không thể sống được một cách bình thường. Bên cạnh đó, có
loài sinh vật lấy cây trồng làm thức ăn (đây là các loài sinh vật gây hại - dịch hại
cây trồng). Thế nhưng không phải tất cả các sinh vật lấy cây trồng làm thức ăn đều
là dịch hại đối với con người: Côn trùng ăn cỏ dại trở thành có ích. Côn trùng bắt
mồi, ký sinh là yếu tố điều hòa quần thể dịch hại, tạo điều kiện cho dịch hại giữ
được số lượng thích hợp trong hệ sinh thái.
Như vậy “Sinh vật có lợi hay có hại không phải là thuộc tính của một sinh vật
nào đó mà là đặc tính của loài đó trong mối quan hệ nhất định của mỗi hệ sinh
thái”. Các loài sinh vật vừa là điều kiện tồn tại của nhau vừa là yếu tố hạn chế nhau
trong mỗi chuỗi dinh dưỡng của chu trình tuần hoàn vật chất (Hà Quang Hùng,
1998) [8].
* Cấu trúc và tính ổn định của quần xã sinh vật
Tính ổn định và năng suất quần thể của một loài được xác định bởi rất nhiều
yếu tố, một phần các yếu tố đó là cấu trúc của quần xã sinh vật (Watt, 1976). Cấu
trúc của quần xã sinh vật bao gồm 3 nhóm yếu tố:
a. Mạng lưới dinh dưỡng trong quần xã (thể hiện quan hệ dinh dưỡng trong
quần xã sinh vật).
b. Sự phân bố không gian của sinh vật.
c. Sự đa dạng của quần xã.
Cũng như các hệ sinh thái khác trong hệ sinh thái đồng ruộng luôn luôn tồn tại
mối quan hệ về mặt dinh dưỡng và đó là mối quan hệ tất yếu trong quần xã sinh vật
cũng như hệ sinh thái, mỗi loài sinh vật thường là thức ăn là điều kiện tồn tại cho
mỗi loài sinh vật khác. Quan hệ phổ biến giữa các loài sinh vật là quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau vô cùng phức tạp, nhưng có quy luật, đặc biệt là quan hệ dinh dưỡng (Thể
hiện qua chuỗi và lưới thức ăn).
6
* Quan hệ dinh dưỡng
Một tập hợp các sinh vật cùng sống trong một vùng hoặc sinh cảnh xác định
được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, liên hệ với nhau do những đặc trưng
chung về sinh thái học mà các thành phần cấu thành quần xã (quần thể, các cá thể)
không co. Sự tập hợp này không phải là một con số cộng đơn thuần mà giữa các
loài đó có mối quan hệ rất chặt chẽ, trước hết là mối quan hệ về dinh dưỡng và nơi
ở. Quan hệ này có thể là tương hổ hoặc đối địch, cạnh tranh
Trong quần xã, các loài có quan hệ mật thiết với nhau, mối quan hệ đó thể hiện
rõ nhất ở quan hệ dinh dưỡng với mọi thành viên của quần xã đều tham gia vào một
trong ba pha của vòng tuần hoàn vật chất: pha sản xuất, pha tiêu thụ, và phân hủy.
Kết gắn sinh vật với nhau là dây chuyền dinh dưỡng, mỗi loài là một mắt xích của
dây chuyền dinh dưỡng ấy, mối quan hệ giữa các mắt xích thức ăn rất phức tạp, nó
ảnh hưởng đến tương quan số lượng của nhau. Chỉ một mắt xích thay đổi thì toàn
bộ chuỗi, thậm chí toàn bộ mạng lưới thức ăn bị thay đổi theo. Các chuỗi thức ăn
đều là tạm thời và không bền vững như mọi mối quan hệ sinh học khác.
* Biến động số lượng côn trùng
Trên cơ sở xem xét hàng loạt dẫn liệu về sự biến đổi số lượng và các dạng cơ
chế điều hòa số lượng, Viktorov (1967) đã tổng hợp khái quát thành sơ đồ chung
của biến động số lượng côn trùng. Một trong những đặc trưng của quần thể là mật
độ cá thể trong quần thể được xác định bởi sự tương quan giữa các quá trình bổ
sung thêm và giảm bớt số lượng cá thể. Tất cả là các yếu tố gây biến động đều tác
động đến quá trình này khi chúng làm thay đổi sức sinh sản, tỷ lệ tử vong của quần
thể và sự di cư của các cá thể. Các yếu tố vô sinh mà trước hết là điều kiện thời tiết,
khí hậu tác động đến côn trùng một cách trưc tiếp hoặc gián tiếp thông qua thức ăn,
thiên địch. Sự điều hòa thông qua các mối quan hệ tác động qua lại đó đã phản ánh
ảnh hưởng của mật độ lên sức sinh sản, tỷ lệ tử vong và di cư, trong đó tồn tại mối
quan hệ trong loài và bằng sự thay đổi tích cực của thiên địch và đặc điểm của thức
ăn. Sự tồn tại của các mối quan hệ này đảm bảo những thay đổi đền bù cho sự bổ
sung và giảm bớt số lượng cá thể của quần thể. Chính sự tác động thuận nghịch đó
7
đã san bằng những sai lệch ngẫu nhiên trong mật độ quần thể (Hà Quang Hùng,
1998) [8].
Số lượng của côn trùng đặc biệt là các loài sâu hại thường có sự dao động từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Số lượng lần sau gia tăng có khi đến hàng trăm lần và
kéo dài một thời gian rồi lại đột ngột giảm xuống đến mức thấp nhất, duy trì ở mức
độ đó trong một thời gian. Sự sinh sản hàng loạt của các loài sâu hại phần lớn không
tiếp diễn theo tiến trình tự nhiên. Qúa trình biến đổi xảy ra do tác động của các yếu
tố môi trường, chủ yếu là các yếu tố thời tiết, khí hậu và mối quan hệ vật ăn thịt -
vật mồi.
Ở côn trùng ăn thịt, sự điều chỉnh số lượng quần thể quan trọng là sự cạnh
tranh trong loài. Hiện tượng ăn thịt lẫn nhau thường xuất hiện trong quần thể chủ
yếu do thiếu thức ăn. Sự tác động đó dẫn đến sự ổn định không bền vững của số
lượng quần thể. Vai trò quan trọng của vật ăn thịt được coi là yếu tố điều hòa số
lượng côn trùng và được thể hiện ở hai phản ứng đặc trưng là phản ứng số lượng và
phản ứng chức năng.
Hiện nay có hàng loạt dẫn liệu thực tế xác nhận khả năng điều hòa của các cơ
chế điều hòa ở các mức độ khác nhau của quần thể. Cơ chế đó được thưc hiện liên
tục kế tiếp nhau tham gia tác động khi mật độ quần thể được điều hòa vượt ra khỏi
giới hạn hoạt động của yếu tố điều hòa trước đó.
Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại cây trồng (IPM) dựa trên mối quan hệ tương
hỗ giữa cây trồng – sâu hại – thiên địch trong hệ sinh thái nông nghiệp, các nguyên
tắc sinh thái và đa dạng sinh học của hệ sinh thái nông nghiệp.
1.2. Tình hình nghiên cứu sâu hại và thiên địch của chúng trên sinh quần
ruộng lạc ở thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu sâu hại lạc
Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển, cây lạc bị rất nhiều loại sâu phá
hại. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm năng suất, phẩm chất
và tăng chi phí đầu tư cho sản xuất lạc.
8
Kết quả nghiên cứu của Wynnigor (1962) [52] cho thấy ở vùng nhiệt đới, cây
lạc bị 37 loài sâu phá hại từ hạt giống đến tất cả các bộ phận của cây, thiệt hại do
sâu gây ra làm giảm 17,1 % sản lượng lạc, bệnh hại làm giảm 15 %, cỏ dại làm
giảm 11,5 %. Như vậy thiệt hại do sâu hại gây ra là lớn hơn cả.
Tuy nhiên hiện nay thiệt hại do các đối tượng gây ra còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: vùng địa lý, điều kiện sinh thái, mùa vụ Nhiều loại trước đây gây hại
thứ yếu nay lại trở thành đối tượng gây hại nghiêm trọng; ở Ấn Độ trước đây giòi
đục lá chỉ có ở vùng phía Nam nay đã lan đến miền Trung, thiệt hại hàng năm do
chúng gây ra ước tính khoảng 160 triệu USD (Ranga Rao, Shanower, 1988) [44].
Tại Thái Lan đã có hơn 30 loài sâu hại trên các ruộng trồng đậu đỗ, trong đó
có 10 loài gây hại nghiêm trọng làm giảm năng suất (Aphirat Arunin,1978) [34]. Ở
vùng Bắc Mỹ, thành phần sâu hại đậu đỗ gồm 33 loài, vùng trung và Nam Mỹ có 30
loài và các nước phương Đông có 26 loài. Theo Gazzoni (1994) [36] thì trên tất cả
các loại đậu đỗ vùng nhiệt đới có 81 loài sâu hại, trong đó 34 loài sâu hại mầm và
thân, 25 loài hại lá, 22 loài hại quả và hạt. Tùy theo vùng địa lý khac nhau mà các
loài sâu hại chính cũng khác nhau.
Theo Turnipseed and Kogan (1976) [49] thì sâu hại đã tấn công vào tất cả các
bộ phận trên cây đậu đỗ như rễ, nốt sần, mầm, thân, lá, hoa, quả và hạt. Nhóm hại
trong đất thường gây ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lạc như: mối, rệp sáp, kiến,
sùng trắng Nhóm sâu gây hại trên mặt đất cũng rất nghiêm trọng, bao gồm một số
loài thuộc bộ cảnh vảy như sâu xám cắn cây con, sâu xanh, sâu khoang, sâu cuốn lá,
rầy, rệp, bọ trĩ. Ngoài ra còn có nhện đỏ, sâu róm chỉ đỏ (Mohamed, 1981) [41].
Ghosh and Dray (1981) [37] khi nghiên cứu về sâu hại lạc đã kết luận rằng rệp
muội đen (Aphis craccivora Koch) là loài gây hại chủ yếu trên cây họ Đậu ở quanh
vùng Calcutta, làm giảm năng suất và chất lượng quả một cách nghiêm trọng.
Theo Smith and Barfield (1982) [48], có 360 loài sử dụng cây lạc làm thức ăn,
khoảng 6 % số loài gây hại quan trọng. Các loài này được phân thành các nhóm:
nhóm hại trong đất và nhóm hại trên mặt đất. Trong đó nhóm sâu chích hút khoảng
100 loài nhưng ảnh hưởng đến năng suất chủ yếu là các loài rệp muội đen (Aphis
9
craccivora Koch), rầy xanh (Empoasca flavescens Fabr.), bọ trĩ (Caliothrips
inducus Bagnall).
Hill and Waller (1985) [38] cho biết ở vùng nhiệt đới có 8 loài sâu hại lạc chủ
yếu và 40 loài gây hại thứ yếu, những loài gây hại đặc biệt nguy hiểm như: rệp
muội đen (Aphis craccivora Koch), sâu khoang (Spodoptera litura Fabr.), sâu xám
(Agrotis ypsilon Rott), sâu xanh (Helicoverpa armigera Hubner), ban miêu
(Epicauta impressiconnis Pic), sâu cuốn lá lạc đầu đen (Archips asiaticus
Walsinhham) và một số loài khác thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera). Các loài sâu hại
này được mô tả chi tiết về phổ ký chủ, phạm vi phân bố, triệu chứng, tác hại. Một số
đặc điểm hình thái, sinh học và các biện pháp phòng trừ ngoài đồng ruộng.
Nghiên cứu của Wallis and Byth (1986) [50] đã xác định trên cây lạc chỉ tính
riêng sâu đục củ và sâu hại rễ đã có tới 15 loài, thuộc 12 họ, 9 bộ côn trùng. Đó là
các họ Kiến (Formicidae), họ Bọ hung ( Scarabaeidae), họ Ngài đèn (Arctiidae), họ
Ngài độc (Lymantridae), họ Ngài đục lá (Phyllocnistidae), họ Ngài cuốn lá
(Tortriccidae), họ Ngài sáng (Pyralidae), rầy nhảy (Cicadelidae), họ Ngài đêm
(Noctuidae), bọ trĩ (Thiripidae), mối ( Termitidae).
Tại Trung Quốc, các loài gây hại ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế của
sản xuất lạc bao gồm: sâu khoang (Spodoptera litura Fabr.), sâu keo da láng
(Spodoptera exigua), sâu xanh (Helicoverpa armigera Hubner); tổng giá trị
phòng trừ các loài sâu hại này ước tính khoảng 5 tỷ nhân dân tệ (Ching Tieng
Tseng, 1991) [35] .
Bên cạnh việc gây hại trực tiếp trên cây lạc thì một số loài sâu còn gây hại gián
tiếp thông qua con đường truyền lan bệnh virus, thiệt hại do bệnh virus đôi khi còn
lớn hơn. Tại Nigeria, chỉ tính riêng thiệt hại do bệnh virus gây ra cho sản xuất lạc
trong năm 1975 đã lên tới 250 triệu đôla. Họ bọ rầy (Jassidae) truền 48 loại virus,
họ bọ phấn (Aphididae) truyền 48 loại virus, họ bọ phấn (Aleyrodidae) truyền 18
loại virus. Riêng bệnh chết chồi ( Bud necroisdisease) truyền lan nhờ bọ trĩ và rầy
xanh đã gây thiệt hại mỗi năm lên tới 90 triệu đô la ở một số nước Châu Á như
Trung Quốc, Ấn Độ (Ranga Rao, Wightman, 1993) [45].
10
Ở vùng Tây Nam Thái Bình Dương, Waterhouse and Noris (1987) [51] xác
định được 157 loài sâu hại trên lạc, trong đó có 46 loài quan trọng và có ít nhất 25
loài được đầu tư nghiên cứu tỷ mỉ và đã có biện pháp phòng trừ một số loài có hiệu
quả. Tại vùng Đông Nam Á đã thu thập được 37 loài sâu hại lạc, trong đó có 19 loài
có mức độ phố biến cao.
Richar (2002) [47] cho rằng ở Florida các loài sâu hại lạc chính bao gồm bọ
trĩ, bọ phấn, sâu xám, sâu khoang, sâu xanh, sâu cuốn lá, sâu đục ngọn, bọ xít.
Phillip and Richard (2005) [43] khi nghiên cứu về biện pháp phòng chống các
loại sâu hại lạc ở Oklahoma đã kết luận rằng loài sâu xám gây hại chủ yếu ở giai
đoạn cây con, ít khi gây hại trên diện tích lớn; nên sử dụng biện pháp xử lý khi mật
độ sâu ≥ 2-3 con/hàng ở cả vùng đất khô và đất ẩm. Còn các loài chích hút lá di cư
vào ruộng lạc trong tháng 6 và tháng 7, chúng có thể tiếp tục tồn tại cho đến tận
tháng 9 và gây hại làm cho lá bị biến màu, cây còi cọc không phát triển được. Đối
với sâu xanh, sâu khoang và sâu cuốn lá thì nguy cơ bị giảm năng suất là rất lớn ở
giai đoạn sau trồng từ 60-90 ngày, bởi vì lúc này sâu ăn trụi lá ảnh hưởng lớn đến
khả năng quang hợp tích lũy chất khô. Cần phải theo dõi và kiểm tra thường xuyên
trên đồng ruộng trong suốt tháng 7 và tháng 8, nếu mật độ sâu vượt quá 3-5
con/hàng ở vùng đất khô và 6-8 con/hàng ở vùng đất ẩm thì cần thiết phải dùng
thuốc hoá học.
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu thiên địch của sâu hại lạc
Thiên địch cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm giảm mật độ sâu hại
trên đồng ruộng. Chúng điều hòa số lượng chủng quần dịch hại, giữ dịch hại ở
dưới ngưỡng và duy trì như những mắt xích trong mạng lưới dinh dưỡng. Sự thiếu
vắng kẻ thù tự nhiên là một trong những yếu tố làm cho sâu hại gia tăng nhanh về
mặt số lượng và dễ phát sinh thành dịch.
Ở Ấn Độ, loài sâu xanh (Helicoverpa armigera) bị 37 loài ký sinh,
trong đó 8 loài có vai trò quan trọng trong việc hạn chế số lượng sâu xanh. Ở Châu
Phi, sâu xanh bị 23 loài ký sinh, trong đó có 20 loài thuộc bộ cánh màng, 3 loài
11
thuộc bộ hai cánh; sâu khoang bị 46 loài ký sinh, gồm 36 loài thuộc bộ cánh màng
và 10 loài thuộc bộ hai cánh (Waterhouse and Norris, 1987) [51].
Ranga Rao and Shanower (1988) [44] đã xác định được 67 loài thiên
địch của sâu hại lạc tại vùng Andhra Pradesh (Ấn Độ), trong đó có 44 loài côn trùng
và nhện lớn bắt mồi, 23 loài côn trùng ký sinh. Trên sâu khoang tìm thấy 6 loài ký
sinh, 7 loài ký sinh trên sâu xanh, 3 loài ký sinh sâu đo, 4 loài ký sinh sâu cuốn lá.
Trong giai đoạn 1984-1993, trung tâm ICRISAT đã nghiên cứu về ký sinh sâu
non của sâu vẽ bùa và sâu khoang hại lạc cho thấy tỷ lệ sâu bị ký sinh trung bình
trong mùa mưa là 34% và sau mùa mưa là 40%, nhờ đó đã làm giảm đáng kể mật
độ sâu vẽ bùa. Đối với sâu khoang, khi điều tra đã bắt gặp ong ký sinh trứng
Trichogramma spp., tuy nhiên tỷ lệ ký sinh thấp. Kết quả điều tra qua 17 vụ cho
thấy sâu khoang bị ký sinh chủ yếu ở giai đoạn sâu non, tỷ lệ chết do ký sinh biến
động từ 10-36%, trung bình là 15%. Tuy nhiên sự xuất hiện và hiệu quả của ký sinh
phụ thuộc vào thời vụ (ICRISAT, 1993)[39].
Ở Ấn Độ, từ lâu người nông dân đã biết áp dụng biện pháp canh tác trong
phòng trừ sâu hại lạc, chẳng hạn như trồng cây thầu dầu để thu hút trưởng thành sâu
khoang đến đẻ trứng, sau đó gom lại và tiêu diệt trứng trước khi sâu nở. Ngoài ra,
trồng cây hướng dương trên ruộng lạc có tác dụng dẫn dụ trưởng thành sâu khoang
và sâu xanh đến đẻ trứng rồi tiêu diệt trứng, đây cũng là nơi đậu của những loài
chim đến bắt sâu (Ranga Rao and Wightman, 1994) [46].
Khi nghiên cứu về mật độ và thời vụ trồng lạc, Lynch (1986) [40] cho rằng
khoảng cách trồng lạc dày, trồng sớm giúp cho lạc tránh được sự gây hại của bọ trĩ
và bệnh chết chồi. Mặt khác, việc thu hoạch lạc sớm hoặc đúng thời vụ có tác dụng
hạn chế sự tấn công của mối và một số loài sâu đục quả.
Để góp phần nâng cao năng suất lạc, trong những năm qua các nhà
chọn tạo giống đã nghiên cứu và đưa ra các giống lạc có năng suất cao, ổn định qua
các vụ. Trung tâm ICRISAT tại Ấn Độ đã lai tạo ra trên 6000 giống và dòng lạc
nhằm tìm ra các giống có tính chống chịu sâu như rầy xanh, bọ trĩ, sâu vẽ bùa, sâu
khoang, rệp…; đã tìm ra khoảng 100 giống lạc có biểu hiện kháng sâu, một số dòng,
12
giống có khả năng kháng đồng thời nhiều loại sâu như ICG5420, NCAC343…
Trong bộ giống khảo nghiệm thì giống lạc hoang dại Arachis có khả năng kháng
cao đối với sâu khoang, sâu vẽ bùa, rệp và sâu đục rễ (ICRISAT, 1993)[39]. Những
thí nghiệm gần đây về đánh giá tác hại nhân tạo và tự nhiên cũng cho thấy dòng lạc
ICGV86301 có mức kháng cao với sâu vẽ bùa và sâu khoang.
Mức độ thiệt hại kinh tế do sâu hại gây ra cũng phụ thuộc rất nhiều yếu tố như:
giai đoạn sinh trưởng của cây trồng, điều kiện môi trường, mật độ dịch hại… Trong
hơn 90 loài côn trùng gây hại trên lạc thì chỉ có ít loài gây hại có ý nghĩa kinh tế
trên diện rộng. Một số loài trước đây chỉ là loài gây hại thứ yếu như rệp muội, bọ
trĩ, nhện thì nay chúng đã và đang trở thành những loài quan trọng.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu sâu hại lạc
Cây lạc được du nhập vào trồng ở nước ta từ lâu đời và được trồng phổ biến ở
mọi miền đất nước. Do có giá trị kinh tế cao nên diện tích trồng lạc ngày càng được
mở rộng, trình độ sản xuất và thâm canh ngày càng được nâng cao.
Cùng với việc đưa các giống lạc mới năng suất cao, áp dụng công nghệ phủ
nilon, trong nhiều năm qua các cơ quan khoa học nông nghiệp đầu ngành như Viện
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông - khuyến ngư Quốc gia,
Trung tâm Nghiên cứu và phát triển đậu đỗ và các Trung tâm khuyến nông, khuyến
lâm cấp tỉnh đã dày công nghiên cứu xây dựng nhiều quy trình sản xuất lạc khoa
học đồng thời đầu tư kinh phí, thời gian, công sức triển khai hàng trăm mô hình
trình diễn tại hầu khắp các tỉnh có diện tích lạc lớn để chuyển giao các tiến bộ kỹ
thuật cho bà con nông dân nên năng suất, sản lượng lạc của nhiều địa phương đã
được cải thiện đáng kể. Một số tỉnh như Nam Định đạt năng suất bình quân 37,7
tạ/ha, Nghệ An 29 tạ/ha, Hưng Yên 27,7 tạ/ha, TP Hồ Chí Minh 28,7 tạ/ha, Trà
Vinh 28,8 tạ/ha, Khánh Hoà 26 tạ/ha (Võ Thanh Mai, 2008) [31].
Bên cạnh đó cũng đã có rất nhiều nghiên cứu về cây lạc nhằm nâng cao năng
suất, sản lượng và phẩm chất lạc. Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã
tập trung vào các lĩnh vực như lai và chọn tạo giống lạc, ảnh hưởng của các biện
13
pháp canh tác đến năng suất và phẩm chất lạc, các nghiên cứu về sâu hại và các biện
pháp phòng chống sâu hại để tăng hiệu quả kinh tế, ít gây ô nhiễm môi trường. Tuy
nhiên vẫn còn không ít khó khăn gây trở ngại cho việc sản xuất lạc ở nước ta như
kiến thức canh tác của nông dân còn hạn chế, chưa xác định rõ được vị trí của cây
lạc trong cơ cấu cây trồng, giá thành trên thị trường còn thấp, chưa có hệ thống tiêu
thụ và chế biến ổn định. Đồng thời những khó khăn về điều kiện thời tiết, khí hậu
và sâu bệnh phá hại cũng là nguyên nhân chính cản trở sự phát triển sản xuất lạc ở
nước ta, làm cho diện tích trồng lạc của cả nước trong những năm qua tăng chậm;
năng suất, sản lượng lạc thường không ổn định và chênh lệch giữa các vùng, miền.
Một số tác giả đã đi sâu nghiên cứu về thành phần sâu hại lạc, mô tả đặc điểm sinh
vật học, sinh thái học của từng loài côn trùng, đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm phát
sinh gây hại của sâu hại lạc để có cơ sở đề xuất biện pháp phòng trừ.
Kết quản ghiên cứu của Viện Bảo vệ thực vật (1968) [22] đã ghi nhận 57
loài sâu hại lạc, 5 loài gây hại quan trọng là dế mèn lớn, rệp muội đen, bọ xít
dài, sâu cuốn lá, sâu đục lá; 9 loài gây hại tương đối nghiêm trọng, 11 loài ít
quan trọng. Ở mỗi thời kỳ phát triển của cây lạc đều có những loài sâu hại
nghiêm trọng như: Thời kỳ hạt mới nảy mầm, cây còn nhỏ thường bị hại bởi các
loài kiến nâu nhạt, kiến vàng, mối, dế mèn lớn, bọ hung cánh cam đậm, sâu
thép. Đến thời kỳ phân cành thì chủ yếu là các loài cào cào, rệp muội, sâu
khoang, sâu xanh, ban miêu đen, ban miêu đen sọc trắng, ban miêu khoang vàng
nhỏ, sâu cuốn lá, sâu róm, bọ phấn, bọ trĩ…
Theo Lương Minh Khôi (1990, 1991) [12], [13] trên ruộng lạc vùng Hà Nội
có 21 loài sâu hại thường xuyên xuất hiện gây hại, 10 loài gây hại ảnh hưởng đáng
kể đến hiệu quả kinh tế là: sâu xám, bọ trĩ, rệp muội đen, sâu cuốn lá đầu đen, sâu
khoang, sâu xanh, ban miêu đen sọc trắng, rầy xanh, câu cấu, sâu róm chỉ đỏ. Trong
vụ lạc xuân, chủng loại sâu nhiều hơn và thường xảy ra dịch. Các loài thường gây
thành dịch là sâu khoang (ở thời kỳ lạc đâm tia và phát triển củ), sâu cuốn lá, câu
cấu, sâu róm. Vụ xuân 1989 sâu khoang đã phát triển thành dịch khi lạc bắt đầu đâm
tia, vào vụ xuân 1990 sâu cuốn lá có mật độ cao 1,2 con/cây; sâu xám 0,06 con/cây;
gây hại chủ yếu từ khi cây mọc đến 5 lá thật. Ngược lại, trong vụ hè thu các loài rầy
14
xanh, bọ trĩ, rệp muội đen thường phát sinh mạnh ở đầu vụ, vào trung tuần tháng 4-
5 mật độ sâu hại đạt đỉnh cao nhất. Bọ trĩ thường có cao điểm vào tháng 4, mật độ
đạt 1,1-1,7 con/cây; rệp muội đen thường có mật độ cao vào giai đoạn trước khi lạc
ra hoa; mật độ sâu xanh đạt đỉnh cao vào cuối tháng 3 - cuối tháng 4 và cuối tháng
5 - đầu tháng 6. Vào cuối vụ thì sâu róm thường phát triển mạnh. Thời vụ muộn
thường bị sâu hại nặng hơn vụ sớm.
Tại Nghệ An, Hà Bắc, Hà Tây đã ghi nhận được 46 loài sâu hại trên ruộng lạc
và 4 loài gây hại trong kho, bổ sung thêm 14 loài mới so với kết quả điều tra cơ bản
của Viện Bảo vệ Thực vật (1967-1968), đó là các loài sâu non bổ củi, bọ hung, bọ
trĩ (Caliothrips inducus Bagnall), ruồi đục lá (Lyriomyza sativae Blanchard),
mối (Odontotermes sp.). Trong đó 5 loài mới ghi nhận thuộc nhóm chích hút,
gồm 1 loài rầy xanh (Empoasca motti Pruthi), 3 loài bọ trĩ hại lá lạc (Scirtothrip
dorsalis Hood, Frankliniella schultizei Trybom, Thrips palmi Karny) và 1 loài bọ
trĩ hại hoa (Megalurothrips usitatus Bagrall). Các loài sâu ăn lá phổ biến nhất là
sâu khoang, sâu xanh, sâu đục quả đậu đỗ và sâu cuốn lá (Phạm Thị Vượng và
ctv, 1995) [25]. Kết quả điều tra theo dõi biến động và tác hại của chúng trong một
số năm cho thấy chúng thường phát sinh cao vào lúc lạc 4 lá tới ra hoa và vào chắc
(từ trung tuần tháng 4 đến trung tuần tháng 5). Điều này cũng phù hợp với đặc điểm
của các loài sâu hại lá khác. Kết quả bẫy sâu khoang bằng pheromone tại 2 vùng Hà
Tây và Hà Nội cho thấy có 2 đỉnh cao vào đầu tháng 4 và đầu tháng 5.
Riêng tại huyện Diễn Châu (Nghệ An), trên nền luân canh lúa - lạc đã xác định
được 23 loài sâu hại lạc (Phạm Thị Vượng, 2000) [28]. Trong đó nổi bật lên một số
loài sâu hại chính như rệp muội đen, sâu khoang, sâu xanh, sâu cuốn lá đầu đen, bọ
trĩ, rầy xanh lá mạ, sâu róm chỉ đỏ. Đặc biệt là loài rệp muội đen đã trở thành mối
lo ngại lớn cho người nông dân trồng lạc tại Nghệ An.
Nguyễn Văn Cảm (1993) [4] đã ghi nhận được 43 loài côn trùng hại lạc ở một
số tỉnh trồng lạc của miền Nam. Nguyễn Thị Chắt (1996) [5] cũng cho biết, tại một
số vùng chuyên canh lạc như Tràng Bảng, Gò Dầu - Tây Ninh, Đức Hoài - Long
An, Củ Chi - TP Hồ Chí Minh, trong vụ xuân (1995-1996) diện tích lạc bị hại tới
81% và năng suất bị giảm 18% do sâu khoang gây nên. Nông dân ở đây thường