Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.55 KB, 43 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG
Câu 1: Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị học thuyết
của Khổng Tử?
Trả lời:
Những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị học thuyết của Khổng Tử
Tư tưởng về 1 thế giới đại đồng.
Tư tưởng về công bằng xã hội “Trong thiên hạ không lo thiếu của cải chỉ sợ
phân phối không đều, không lo nghèo đói mà lo lòng dân không yên”.
Coi trọng nông dân, lấy dân làm gốc.
Đường lối trị nước: Khổng Tử chủ trương dựa vào đạo đức. Ông nói: “Ông
nói cai trị dân mà dùng mệnh lênh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì
dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo
đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy
phục”.
Mục tiêu của đức trị, theo Khổng Tử là phải thực hiện được 3 điều: Đó là
làm cho dân cư đông đúc và được sống yên ổn, kinh tế phát triển, được học
hànhVề đường lối trị nước, KT chủ tương phải dựa vào đạo đức.
Biện pháp để thi hành đường lối đức trị là “phải thận trọng trong công việc,
phải giữ được chữ tín, tiết kiệm trong chi dùng, thương người, sử dụng sức dân vào
thời gian hợp lí” q uan tâm đến đời sống chính trị - xã hội của nhân dân.
Phương pháp cai trị: chính danh, lễ và đạo nhân
Chính danh: xác định danh phận, vị trí mọi người trong xã hội. Mỗi người
phải làm tròn bổn phận vai trò, trách nhiệm của mình theo thứ bậc quy định.
Không tranh giành chiếm đoạt ngôi thứ của nhau. Danh phải phù hợp với thực
“danh có chính thì ngôn mới thuận”
Trong mối quan hệ cha – con thì cha từ, con hiếu.
Trong quan hệ vợ chồng “chồng biết điều, vợ biết nghe lẽ phải” thì chồng
phải giữ đạo chồng, vợ phải gữ đạo vợ, vợ phải nghe theo chồng được như thế xã
hội sẽ có trật tự xã hội sẽ có kỉ cương, thái bình thịnh trị.
Là chức trách xã hội của người cai trị và của mọi thành viên xã hội “làm vua
phải cư xử cho ra vua, tôi cư xử cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con”.


Lễ: Lễ là lễ nhà Chu, là những quy tắc phải theo khi thực hiện mối quan hệ
giữa người với người trong xã hội, biểu hiện của sự tôn kính. (là những quy tắc
chuẩn mực trong xã hội)
Theo KT, lễ có vai trò quan trọng trong cai trị. Lễ qui định danh phận, thứ
bậc của con người trong xã hội; lễ góp phần điểu chỉnh hành vi, đạo đức của con
người; lễ hình thành thói quen đạo đức, cai trị xã hội bằng lễ phải qui định mọi
việc của từng người, phải phù hợp với danh mà họ mang theo
Tất cả mọi người phải đối xử với nhau theo lễ.
Đạo nhân:
Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và
coi người như bản thân mình.
Quan niệm nhân trị là 1 phương pháp trị nước được KT tiếp nhận từ phẩm chất cai
trị của các bậc tiền bối (vua nghiêu, vua Thuấn)
Cai trị nhân đức sẽ tập hợp được dân và dễ sai khiến dân và cai trị ấy phải có
đức nhân và làm gương cho người khác noi theo: KT nói: “bề trên thích lễ thì dân
cung kính/bề trên thích tín thì dân không dám nói sai” hay “người cai trị thanh liêm
không thanh dục thì dù có thưởng dân cũng không ăn trộm”
 Khá ảo tưởng, không phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Xã hội
lúc bấy giờ đề cao Bá đạo mà không đề cao Vương đạo.
Câu 2: Trình bày tiểu sử của Khổng Tử? Điều đó ảnh hưởng như thế nào đến
tư tưởng của Khổng Tử?
Trả lời:
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm
551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu,
làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc).
Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình
ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ.
Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua
Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh
ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ,

nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho
chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng
đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh
trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản
lý việc xây dựng công trình. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông
là Khổng Phu Tử , hay gọi gọn hơn là Khổng Tử . ‘Tử’ ngoài ý nghĩa là ‘con’ ra
còn có nghĩa là “Thầy”. Do vậy Khổng Tử là Thầy Khổng.
Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các
nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có
nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông
quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại
tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên
thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách.
Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên
trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của
nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục
mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến
thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73
tuổi.
Khổng Tử sinh ra đời và lớn lên trong xã – hội Trung Hoa thời Xuân Thu
(722 – 481 trước Tây lịch). Đây là thời kỳ có chiến tranh luôn với quân Nhung
Địch ở miền Tây Bắc Trung Hoa và giữa các chư hầu với nhau. Các chư hầu thôn
tính lẫn nhau. Các nước lớn nuốt dần các nước nhỏ bé. Một số các nước lớn dần
dần trở thành các chư hầu cường thịnh nên coi thường hay lăm le cạnh tranh với
thế lực trung ương của nhà Chu. Cùng với chiến tranh loạn lạc bao nhiêu cảnh đảo
ngược trong kỷ cương luân thường cũng bày ra đầy trong xã hội. Cảnh “tôi giết
vua, con giết cha” đã xảy ra rất thường trong khoảng mấy trăm năm của thời Xuân
Thu. Tư khi nhà Chu dời đô sang Đông quyền lực trung ương càng ngày càng suy
nhược, tình hình chính trị xã hội càng lung lay suy sụp.

Lớn lên trong hoàn cảnh xã hội đó, Khổng Tử muốn đem đạo đức luân lý cải
thiện con người cũng như xã hội. Khổng Tử có chí muốn cải lương chính trị
Câu 3: Phương pháp cai trị Chính danh, Lễ, Đạo nhân được Khổng Tử đề cập
đến như thế nào?
Trả lời:
Chính danh (danh nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là
đúng, là chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm
cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của
mình, cũng không dành vị trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Vì
vậy, để xã hội ổn định thì mọi người cần làm đúng danh phận. Theo ông, “Danh
không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc
không nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt
chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân không biết xử trí ra sao”
Riêng đối với người cầm quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng
phải làm đúng danh của mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong
việc chính sự (việc nước), điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh,
phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ hành
động cho đúng. Khổng tử cho rằng không ở chức vị ấy thì không được bàn việc
của chức vị đó, không được hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy.
Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính danh là: làm cho con người ý thức được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội;
góp phần vào duy trì bình ổn xã hội. Hạn chế: Tư tưởng này còn kìm hãm tự do
của nhân cách tới mức không chấp nhận bất kì sáng kiến nào của con người, làm
cho con người luôn ở trạng thái nhu thuận, chỉ biết phục tùng theo chủ trương
“thuật nhi bất tác” (chỉ làm theo mà không sáng tác gì thêm). Tư tưởng chính danh
đã quá đề cao danh phận, làm cho con người luôn có tư tưởng hám danh, chạy theo
danh, theo chức đến mức nhiều người vì hám danh quên phận mà quên cả luân
thường đạo lý.
Lễ: Lễ là lễ nhà Chu, là những quy tắc phải theo khi thực hiện mối quan hệ
giữa người với người trong xã hội, biểu hiện của sự tôn kính. (là những quy tắc

chuẩn mực trong xã hội)
Theo KT, lễ có vai trò quan trọng trong cai trị. Lễ qui định danh phận, thứ
bậc của con người trong xã hội; lễ góp phần điểu chỉnh hành vi, đạo đức của con
người; lễ hình thành thói quen đạo đức, cai trị xã hội bằng lễ phải qui định mọi
việc của từng người, phải phù hợp với danh mà họ mang theo
Tất cả mọi người phải đối xử với nhau theo lễ.
Đạo nhân:
Cai trị bằng bằng nhân đức hay còn gọi là nhân trị. Nhân là yêu người.
Quan niệm nhân trị là 1 phương pháp trị nước được KT tiếp nhận từ phẩm
chất cai trị của các bậc tiền bối (vua nghiêu, vua Thuấn)
Cai trị nhân đức sẽ tập hợp được dân và dễ sai khiến dân và cai trị ấy phải có
đức nhân và làm gương cho người khác noi theo: KT nói: “bề trên thích lễ thì dân
cung kính/bề trên thích tín thì dân không dám nói sai” hay “người cai trị thanh liêm
không thanh dục thì dù có thưởng dân cũng không ăn trộm”
Câu 5: Mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong tư tưởng đạo đức Khổng Tử?
Trả lời:
• Nhân theo Khổng Tử là mục đích cao nhất của tu dưỡng đạo đức. Nội dung của
Nhân nhấn mạnh đến sự quan tâm và yêu thương người khác. Từ đạo lý về tư
tưởng “Nhân ái”, ông đề xướng long trung thành và tha thứ. Nhân là “trung thứ” –
điều gì mình muốn làm cho người khác, mình muốn đạt thì giúp người ta đạt. Nhân
còn là lí tưởng cao nhất về tu dưỡng đạo đức của kẻ sĩ, nó bao trùm lên các đức
mục khác. (Nhân một mặt là lòng thương người, “điều mà mình không muốn thì
đừng làm cho người khác”, trái lại “mình muốn lập thân thì giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”. Đối với bản thân,
muốn thực hiện được điều nhân thì phải biết “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”,
nếu “không hợp với lễ thì không nhìn, không hợp với lễ thì không nghe, không hợp
với lễ thì không nói, không hợp với lễ thì không làm”. Ngoài ra, nhân còn bao gồm
các nội dung khác như cung kính, nghiêm túc, thành thật, dũng cảm, rộng lượng,
…)
Lễ là lễ nghi, phép tắc trong xã hội mà ở Tây chu “lễ” ngoài ý nghĩa là điển

chế, lễ nghi của nhà Chu còn có ý nghĩa về mặt phong tục, tập quán, và chỉ sự kỷ
luật về tinh thần
Theo Khổng Tử “lễ” không phải là 1 nội dung hoàn toàn (tồn tại) độc lập
mà luôn luôn gắn liền với nhân. Mối quan hệ giữa nhân và lễ là gắn bó chặt chẽ,
không bao giờ tách rời. Nhân là nội dung của lễ. Lễ là hình thức của nhân.
Nhân là gốc là nội dung còn lễ là biểu hiện của nhân (Lễ luôn quan hệ với
nhân trong đó nhân làm gốc còn lễ là biểu hiện của nhân)
Lễ không chỉ là biểu hiện của Nhân mà lễ còn có thể điều chỉnh cho đức
nhân cho đúng mực. trong nhân có “khắc kỉ phục lễ vi nhân” tức là phải kiềm chế
những ham muốn của bản thân theo đúng với lễ.(ném mình làm theo nhân sẽ
thương người được).
Vậy nhân và lễ là hai mặt của một vấn đề. Nhân là tiêu chuẩn để thi hành lễ.
Lễ là phương tiện để thực hiện nhân.
Câu 6: Tư tưởng có giá trị nhất trong học thuyết của Khổng Tử? Trình bày
nội dung của tư tưởng đó?
Trả lời:
Tư tưởng có giá trị nhất của trong hoc thuyết của Khổng Tử đó là tư tươTư
tưởng giáo dục.
KT chủ trương “hữu giáo vô loài” (chủ trương đến với tất cả mọi người), dẫ
phá giới hạn đẳng cấp thị tộc, đưa giáo dục tới cho mọi tầng lớp nhân dân, khiến
cho những người tài xuất than bần hàn có cơ hội bước chân vào tầng lớp thống trị.
Mục đích giáo dục của KT đào tạo những nhân tài, những người quân tử.
Đào tạo ra những hiền quan cai trị dân, theo những tiêu chuẩn nhân chính, đức trị
mà ông đề ra. (Uốn nắn nhân cách và bồi dưỡng nhân tài.)
Nội dung giáo dục của KT có 4 mặt: văn, hành, trung, tín.
Văn là văn hiến lịch sử. KT dạy học trò đạo “trị quốc, an dân”, vì vậy chủ
trương dạy học trò những bài học lịch sử.
Hành là làm việc theo những chuẩn tắc của nhân học. giáo dục học trò
không những nâng cao trình độ lý luận mà phải đi đôi với hành động.
Trung là trung thành, làm bề tôi phải trung với vua, làm người người phải

thẳng thắn với bạn bè.
Tín là giữ lòng tín, nói lời phải giữ lấy lời, trước sau như một.
 Về phương pháp giáo dục: ông chủ trương muốn học chữ đầu tiên phải biết làm
người: thanh thiếu niên muốn nên người ở nàh phải hiếu thuận với cha mẹ, ra
ngoài phải kính trọng người hơn tuổi mình, yêu thương mọi người… Trong quá
trình dạy học, ông rất chú trọng đến việc phát huy tính năng động chủ quan của
học trò. Đối với từng loại đối tượng, ông áp dụng những biện pháp khác nhau. Học
đi đôi với hành, học phải ôn lại những gì đã học, học thì phải suy nghĩ “Học mà
không suy nghĩ là mờ tối, suy nghĩ mà không học là nguy hại”, cần cù, chăm chỉ
“Không bao giờ xấu hổ khi học người kém mình”, “Không bước lên chân của
người khác làm sao có thể vào nhà”, nhận thức được khả năng của mình đến đâu.
Đối với thái độ và phương pháp học tập của học trò, KT dạy học trò phải:
“biết cái gì thì bảo là biết, không biết thì bảo là không biết như vậy mới là biết”.
Ông coi trọng việc hấp thu tri thức mới và ôn tập tri thức đã có.
Câu 7: Anh/chị học tập được những nội dung gì trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử?
Trả lời:
Phương pháp đối thoại gợi mở, giảng dạy bằng cách trao đổi giữa thầy và
trò, giữa người dạy và người học nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và khoa
học, khả năng tư duy của người học.
Phương pháp kết hợp học đi đôi với hành, lời nói kết hợp với việc làm, là
thực hành điều đã học và đem tri thức của mình vận dụng vào trong cuộc sống
Phương pháp “ôn cũ biết mới”, thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và học
tập.
Tiên học lễ hậu học văn, học mọi lúc mọi nơi, không ngừng học hỏi cái mới,
học hỏi ở tiền nhân, tiền bối.
Học không phân biệt lứa tuổi, giai cấp,… mà tất cả mọi người ai cũng được
học (hữu giáo vô loài).
Muốn tiến bộ thì phải luôn cố gắng nỗ lực, siêng năng trau dồi tri thức cho
mình, phải luôn có thái độ cầu tiến, vượt lên. Người học nhất định phải có thái độ

khách quan trong học tập, không được vị kỷ tư dục, võ đoán, cố chấp, tự phụ chủ
quan - “vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã”.
Trong quá trình giáo dục, Khổng Tử nhấn mạnh: cả thầy và trò đều phải có
nghĩa vụ to lớn với nhau. Trò phải tôn kính thầy, dẫu sau này có thành đạt, quyền
cao chức trọng đến đâu chăng nữa cũng không được bỏ rơi lễ nghĩa, vẫn luôn phải
cung kính thầy. Ngược lại, người thầy thì phải có tư cách mẫu mực để làm gương
cho trò. Người thầy có can trực, đạo đức, như thế mới có thể đào tạo nên những
học trò hữu ích cho đất nước.
Câu 8: Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị xã hội của
Mạnh Tử?
Trả lời:
Về những vấn đề chính trị - xã hội, MT đã liên tưởng đến việc xác định chu
kì của ngũ hành để giải thích mọi biến động của lịch sử. Theo ông xã hội cứ 1 thời
loạn lạc lại 1 thời bình (“nhất loạn nhất tri” vào khoảng 500 năm 1 lần).
Trên cơ sở học thuyết về tính thiện, MT kịch liệt phê phán các phương pháp
cai trị nước bằng tư tưởng “ kiêm ái”, “vô vi”. Với ông đây là những học thuyết mị
dân. Để hành động thuận với Trời và trung thành với chủ nghĩa nhân bản của KT,
MT chủ trương thực hiện thuyết “nhân chính”. Đây chính là hạt nhân trong tư
tưởng của MT và tư tưởng chủ yếu của nó là trị nước phải vì nhân nghĩa, vì dân.
Nội dung của “nhân chính” rất rộng, bao gồm các mặt: kinh tế, chính trị,
giáo dục và con đường thống nhất thiên hạ
Vì nhân nghĩa nên ông rất bất bình trước những việc mưu cầu lợi ích. Vì dân
nên MT coi “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân quý nhất, thứ 2 là đất
nước, vua thì coi nhẹ). “Dân vi quý” nghĩa là coi dân là nền tảng quốc gia, đối đãi
với nhân dân như thế nào vô cùng quan trọng đối với sự hưng thịnh của đất nước.
Vì vậy những biện pháp “nhân chính” của ông đều xoay quanh tư tưởng chủ đạo
này.
Về điền địa, MT quan tâm ruộng đất phục vụ dân sinh, với ông làm “nhân
chính” trước hết phải phân định lại điền thổ để ruộng đất được phân phát công
bằng, thuế khóa phải rõ rang để có thể khuyến khích nhà nhà chăn nuôi, trồng trọt

trên mảnh đất được chia.
Cần phải giáo hóa dân phát triển giáo dục, coi trọng giáo dục và coi đây là
điều bắt buộc.
MT đề xuất chủ trương “thượng hiền”. coi trọng người hiền tài. Chủ trương
đối với cả nhà vua “hiền tài, đức độ cho ở ngôi, bất tài vô dụng nên lật đổ”. Vua
tàn bạo, dâm đãng thì chính tôn thất của nhà vua phế bỏ đi, chọn vua khác. Bậc
hiền thần sẽ phế truất ngôi vua để làm ngôi. Những người ngoài dòng họ nhà vua
thấy vua tàn bạo quá cũng có thể truất ngôi vua lên làm vua.
Xuất phát từ chủ trương “nhân chính” và quan điểm “dân vi quý” cùng với
việc tận mắt chứng kiến cảnh chiến tranh tàn khốc giữa các nước chư hầu đang
thôn tính lẫn nhau, MT tỏ thái độ rất căm ghét chiến tranh và cực lên án những
cuộc chiến tranh xâm lược cũng như kẻ gây ra các cuộc chiến tranh xâm lược này.
MT chia ra 2 con đường trị nước cơ bản nhất là thông qua vương chính (sử
dụng đường lối trị nước của các vua tài 3, đức độ) và Ba chính (sử dụng đường lối
trị nước của các vua ác độc, bắt người khác phải tuân theo)
Hạn chế: một mặt MT thừa nhận dân vi quý, một mặt vẫn thừa nhận phân
chia đẳng cấp trong xã hội. Đẳng cấp thứ nhất là quân tử - những người lao tâm,
cai trị dân, đẳng cấp thứ hai – những người lao lực, lao động và phục tùng. (những
ng lao tâm thì trị được những người lao lực, người lao lực thì bị người lao tâm trị,
người lao tâm thì được người lao lực nuôi) – ru ngủ con người trong sự yên phận
thủ thường, chấp nhận sự cai trị.
 Tư tưởng chính trị - xã hội của MT vẫn khoác áo duy tâm, truyền biện pháp đường
lối chính trị đẳng cấp, thần quyền phục vụ cho giới quý tộc.
Câu 9: Phân tích quan điểm “nhân tri sơ, tính bản thiện” của Mạnh Tử?
Trả lời:
"Nhân chi sơ, tính bổn thiện", nghĩa là tất cả mọi người khi sinh ra đều có
tính "thiện" (hiền lành, nhân từ), khi lớn lên do tiếp xúc với xã hội phức tạp bên
ngoài nên người ta mới thay đổi và bị tiêm nhiễm bởi cái xấu, từ đó cái "ác" mới
được hình thành trong một số người
Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của

một người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với thiên
thượng. Mọi người đều có bản chất tốt và đạo đức, và nếu một người thủ đức và nỗ
lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua Thuấn.
Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó cần phải giữ
được 4 tiêu chuẩn, “lòng trắc ẩn, thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa
khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ” (trích từ
“Cuốn đầu tay của Công Tôn Sửu" trong ‘các tác phẩm của Mạnh Tử’). Bốn đặc
tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo
thành bốn đức tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ.
Đối với nhân cách con người, Khổng Tử cho rằng, nhân cách con người
không phải là bẩm sinh, bởi bản chất ban đầu của mọi người đều giống nhau, song
do tác động của môi trường, hoàn cảnh, điều kiện sống khác nhau mà có kẻ lành,
người dữ khác nhau. Vì vậy, giáo dục con người có thể cải thiện tất cả, trừ những
người gọi là thượng trí và những kẻ hạ ngu
Câu 10: Nội dung của tính thiện luận trong tư tưởng của Mạnh Tử?
Trả lời:
Nội dung có giá trị nhất trong tư tưởng Mạnh Tử (MT) là tính thiện luận.
Theo MT: bản tính của con người là thiện; nó là bản nguyên tinh thần, vốn
có của con người do thiên lí, trời phú cho.
Tính thiện của con người được thể hiện qua 1 đức lớn là: nhân, nghĩa, lễ trí.
Bốn đức đó bắt nguồn từ tứ đoan: long trắc ẩn (biết thương xót), lòng u ố (biết
thẹn, ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị phi (biết phân biệt phải
trái). Đây là những đoan mà bẩm sinh ra con người đã có. Tứ đoan là 4 đầu mối
của thiện gọi là Thiện đoan (nếu con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì trở
thành thánh nhân không khó, nếu con người đánh mất thiện đoan để nó mai một,
suy tàn thì con người trở nên nhỏ nhen, không khác gì cầm thú).
Bản tính của con người là thiện vì “tính là cái chung, là bản chất của 1 loài”.
Loài người có nhiều điểm giống nhau, trước hết là tài chất, là bản năng thiện do
trời phú cho, sau đó là các quan năng để nhận biết tốt, xấu, thị, phi, Với tài chất
và quang năng ấy, ai cũng có sẵn mầm thiện và đều có thể trở thành thiện.

Bản tính của con người là thiện vì trong mỗi người đều có “Tâm”. Tâm là
cái chủ thể trong tinh thần của mỗi con người, là cái thần minh trời phú cho hiểu
biết, ứng xử với vạn vật, để phân biệt phải trái, tốt xấu,… Tâm là cái để suy nghĩ,
phân biệt mọi điều phải trái nên sự hiểu biết từ tâm sâu sắc hơn sự hiểu biết của
các quan năng.
Tính thiện của con người không phải nhất thành bất biến. Người ta có thể
đánh mất cái cố hữu của mình mà sa vào đường bất thiện. ấy là do ngoại cảnh tác
động vào.
Vì vậy, MT chú trọng đến giáo hóa, để con người không 1 mai lương tâm.
Ông cho rằng con đường chủ yếu là “tồn tâm, dưỡng tính”. Đó là giữ gìn, bồi
dưỡng, đừng làm tổn hại hay làm mất thiên tâm, thiên tính của mình.
Cùng với việc tồn tâm dưỡng tính thì con người phải dưỡng khí.
MT rất coi trọng vai trò của chủ thể trong việc tu dưỡng đạo lí để cái tâm sâu
rộng, cái trí sang suốt, cái khí điều hòa tạo điều kiện trường tồn cho bản tính thiện
của mình.
Câu 11: Khái niệm nhân và lễ trong tư tưởng của Nho giáo?
Trả lời:
• Nhân không chỉ nói riêng một đức tính nào đó mà chỉ chung mọi đức tính. Người
có nhân đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất nên nhân là nghĩa rộng nhất của đạo
làm người. “Nhân” có thể hiểu là cách cư xử với mình và cách cư xử với người.
Nhân một mặt là lòng thương người, “điều mà mình không muốn thì đừng làm cho
người khác”, trái lại “mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình
muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”. Đối với bản thân, muốn thực
hiện được điều nhân thì phải biết “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”, nếu “không
hợp với lễ thì không nhìn, không hợp với lễ thì không nghe, không hợp với lễ thì
không nói, không hợp với lễ thì không làm”. Ngoài ra, nhân còn bao gồm các nội
dung khác như cung kính, nghiêm túc, thành thật, dũng cảm, rộng lượng,…
Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức trong quan hệ
ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung
với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè

phải giữ được lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân
theo. Lễ là sợi dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Khổng
Tử yêu cầu, từ vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện theo lễ. (Lễ là Sự tôn
trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người, mở rộng ra là việc tuân thủ các quy
tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Một cách căn bản, chính nghi lễ và
nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Lễ làm bền vững nền văn hiến của một
nước, lễ mà ại hoại thì văn hiến cũng tiêu tan.)
Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ
đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người. Sự
giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng
người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời
giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã
hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia đình và trật tự ngoài xã hội trong
khuôn khổ của chế độ phong kiến. Lễ trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản
lý đất nước và gia đình. Yếu tố hợp lý này chúng ta có thể học tập.
Về mặt hạn chế, lễ là sợi dây ràng buộc con người làm cho suy nghĩ và hành
động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ; lễ đã kìm hãn sự
phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên rằng, tư tưởng Nho
giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khách quan mà đánh giá, thì hạn
chế trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống
trong thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ
một thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông
hoài cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính
mặt hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay, nó trở thành
phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít người ở
các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Câu 12: Khái niệm Pháp, Thuật, Thế trong tư tưởng của phái Pháp gia?
Trả lời:
Pháp: Là pháp lệnh do cửa quan ban ra, mọi người đều phải tuân theo. Nội
dung chính yếu của pháp lệnh là Thưởng và Phạt. Pháp ví như tấm gương sáng có

thể soi thấu tà gian; pháp ví như cán cân, tiêu biểu cho lẽ công bằng.
"Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu,
thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm
chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là của
nhà vua. Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất
mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu
của "Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và
những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và
những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy
luật pháp và chế độ chuyên chế". "Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người".
Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là: "Chính danh", "Hình
danh",
"Thực danh".
Câu 13: Đại biểu đầu tiên khởi xướng tư tưởng của phái Pháp gia? Nội dung
cơ bản của tư tưởng đó?
Trả lời:
Đại biểu đầu tiên khởi xướng tư tưởng của phái Pháp gia đó là Quản Trọng.
Quản Trọng là người đầu tiên mở đầu cho tư tưởng lấy Pháp luật để cai trị đất
nước.
Trong bộ “Quản Tử”, Ông cho rằng trong phép trị nước phải coi trọng luật, hình,
lệnh, chính.
Luật: là những khuôn mẫu, quy định bắt buộc mọi người đều theo hay luật để cho
dân biết việc dân làm.
Lệnh là cái nhà vua ban cho, công bố toàn thiên hạ, để mọi người đều biết
Hình là hình phạt, là để trừng trị những kẻ làm trái luật lệnh đã ban. Có 5 loại hình
phạt chính: tội chết, tội bị đày dài hạn, tội giam, tội đày không có hạn và tội phạt

tiền. Áp dụng hình phạt phải xứng đáng với tội danh. Có như vậy kẻ có tội mới
không oán, kẻ hiền sống mới không lo sợ.
Chính là (nêu gương, làm cho người khác noi) sửa cho dân nghe điều hay lẽ phải.
Theo QT, lập pháp phải rõ rang, minh bạch, tùy từng điều kiện, thời thế và ý
cần của dân; phải dạy cho dân biết rõ pháp luật mới thi hành.
Mục đích trị nước của QT là làm cho phú quốc, cường binh, kho tang đầy đủ
rồi mới biết lễ, tiết. Muốn cho phú quốc thì phải chú trọng đến nông nghiệp, kho
tang đầy đủ thì tăng thuế, tăng sưu. Ông rất chú trọng xây dựng lực lượng quân
đội và ông cho thực hiện lệ chuộc tội: nếu tội nặng thì cho chuộc bằng một cái “tê
giáp” (áo giáp = da con tê tê), tội nhẹ thì chuộc bằng 1 cái quy thuẫn (thuẫn làm
bằng mai rùa), tội chưa rõ ràng thì tha hẳn => mục đích chuộc tội: tăng cường lực
lượng quân sự.
Ngoài ra, QT đã đề ra pháp, thuật, thế:
Pháp là cái chuẩn mực mà mọi người phải theo. Có 3 yếu tố liên quan đến
Pháp đó là: người đặt ra pháp luật - là vua; người thi hành pháp luật đó – là bề tôi
của nhà vua ; người tuân theo pháp luật đó – là thần dân. “Vua tôi trên dưới sang
hèn đều phải tuân theo pháp luật. Thế mới gọi là đại trị”.
Thế: tức là quyền lực, uy quyền của nhà vua. Nhà vua sỡ dĩ cai trị được dân
là dựa vào uy thế, uy quyền.
Thuật là phương pháp cai trị. Liên quan đên Thuật gồm 3 yếu tố: bổ nhiệm,
khảo hạch và thưởng phạt. Phương pháp đó trong sách Quản Tử được thể hiện: Khi
cần quyết định gì đó thì vua phải hỏi các quần thần, nhưng khi đã quyết định thì
phải độc đoán.
QT rất đề cao: nhân, nghĩa, liêm, chính trong khi cai trị đất nước. Khá chú
trọng đến nhân, nghĩa mà không quá khắc nghiệt, là người cầu mối giữa Nho gia
và Pháp gia. QT là người đặt cơ sở nền tảng cho Pháp gia.
Câu 14: Hàn Phi chỉ ra phương pháp cai trị thể hiện qua Pháp, Thuật, Thế
như thế nào?
Trả lời:
Hàn Phi chỉ ra phương pháp cai trị thể hiện qua Pháp, Thuật, Thế. Cả 3 yếu

tố này đều cần thiết, không tách rời dùng được.
Pháp: là luật do vua ban ra, trăm quan giám sát, nhân dân thực hiện. Ông
chủ trương dùng pháp luật để điều khiển, thống nhất cả nước, vì pháp luật yêu cầu
tất cả mọi người phải tuân theo. Sở dĩ dùng pháp luật, mệnh lệnh, hình phạt để cai
trị là phương pháp có hiệu quả nhất là vì “dân vốn nhờn với lòng thương mà chỉ
vâng theo uy lực”. Pháp luật được ban bố rộng rãi, công khai trên dưới đều biết.
Theo Ông bất kể mọi người già trẻ, gái trai , ở tất cả mọi nơi, không phân
biệt sang hèn đều phải tuân theo pháp luật “phạm tội không tránh khỏi bậc đại
thần, thưởng phạt hay ko tránh khỏi người thất phu”.
Thế: Ông cho rằng “Pháp” muốn thi hành được thì phải có “Thế”. Thế tức là
uy thế quyền lực của người làm vua. Vua phải triệt để sử dụng quyền của mình để
trị nước. “Chúa có vạn cỗ xe, vua có vạn cỗ xe, sở dĩ chế ngự được thiên hạ và
trừng phạt được chư hầu là dựa vào quyền uy”. Tạo được ưu thế thì phải tập trung
đầy đủ mọi quyền hành ở trong tay nhà vua, đây là cơ sở để TQ trở về sau đi theo
mô hình quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.
(4 yếu tố làm nên 1 vị vua: thần quyền, quyền sở hữu đất đai tối cao, là
người tổng chỉ huy quân sự tối cao, ngôi vua được cha truyền con nối)
Thuật: là (nghệ thuật, thủ thuật) thuật cai trị nước của vua, vua phải biết sử
dụng người đúng lúc, đúng chỗ, đúng khả năng. Vua phải sáng suốt, không để lộ sự
yêu ghét để quần thần lợi dụng. Dùng thuật để biết rõ người ngay kẻ gian, để điều
khiển bề tôi. Thực chất đó là thủ đoạn của người làm vua để điều khiển các quan
lại, phải giữ gìn pháp luật và tuân theo mệnh lệnh.
Thuật gồm 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạnh và thưởng phạt
Thuật Bổ nhiệm (khá tiến bộ) là khi đề bạt quan lại chỉ căn cứ theo tài năng,
chứ không cần kể đến hạnh, dòng dõi, đồng thời xuất phát từ yêu cầu công việc để
dặt chức quan, chức quan nào không cần thiết thì bãi bỏ.
Thuật khảo hạch và thưởng phạt là căn cứ theo trách nhiệm để kiểm tra hiệu
quả công tác. Nếu làm tốt thì thưởng mà làm không tốt thì phạt. Phương châm của
thưởng và phạt: “Nếu thưởng không gì bằng nhiều và giữ đúng lời hứa. Nếu phạt
không gì bằng nặng và nghiêm để cho dân sợ”

Vua chỉ cần đến pháp, thuật, thế có thể cai trị được thiên hạ. Ngoài ra vua
không cần gì khác. (không cần đến tài năng, nhân nghĩa, trí tuệ, đức độ). Như vậy,
với 3 yếu tố pháp, thuật, thế ông vua có thể trở thành 1 kẻ chuyên quyền độc đoán,
chỉ dùng hình phạt nghiêm khắc nặng nề để trị nước chứ không cần đến nhân
nghĩa, ơn huệ, không cần trí tuệ, không hâm mộ trung tín.
Pháp,thuật, thế có mối quan hệ chặt chẽ cho nhau, bổ sung cho nhau, trong
đó, pháp là trung tâm, thuật và thế là điều kiện để thực hành pháp luật. Thưởng
phạt là công cụ để thi hành pháp luật. Thưởng, phạt nghiêm minh thỏa đáng mới
bảo vệ được pháp luật.
Câu 15: Những điểm tích cực và hạn chế của Tư tưởng phái Pháp gia?
Trả lời:
Tích cực:
Pháp gia chủ trương dung pháp luật để trị nước là đúng đắn. (Nước Tần trở nên
hung mạnh và thống nhất được TQ)
Hạn chế:
Học thuyết chính trị của Pháp gia là chủ nghĩa độc tài chuyên chế thực dụng.
Để đạt mục tiêu làm cho đất nước ổn định, giàu mạnh nhằm tiến tới làm bá chủ
thiên hạ, phái pháp gia chủ trương phải kìm kẹp nhân dân bằng những pháp luật
nghiêm ngặt và trừng trị họ bằng những hình thức nặng nề, phủ nhận đạo đức, tình
cảm, và thủ tiêu lĩnh vực văn hóa giáo dục là đi ngược lại sự phát triển của văn
minh và làm cho mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt. (Nên sau khi thống nhất TQ,
nhà Tần tồn tại được 15 năm thì sụp đổ)
Câu 16: Phân tích nội dung cơ bản của cuộc cải cách của Thương Ưởng?
Trả lời:
Thương Ưởng tên thật là Công Tôn Ưởng, người nước Vệ thời Tần Hiếu
Công (361-335 TCN). Ông đến nước Tần giúp Tần Hiếu Công cải cách làm cho
nước Tần trở nên giàu mạnh. Ông được phong ở đất Thương nên gọi là Thương
Ưởng. Tư tưởng của ông được chép thành một quyển sách gọi là Thương Quân
Thư.
Năm 359 TCN, Thương Ưởng đề xuất một cuộc cải cách với các nội dung

sau:
1.Tổ chức liên gia: cứ 3 nhà thì hợp thành 1 bảo để bảo vệ lẫn nhau và thực
hiện “cáo gian”.
Nếu 1 người phạm pháp thì người khác phải tố giác. Nếu cáo giác thì được
thưởng ngang với công chém được một đầu giặc ở ngoài mặt trận. Nếu ko tố giác
thì bị chém ngang lưng, nếu che dấu cho người phạm pháp thì bị xử ngang với tội
đầu hàng địch ở ngoài mặt trận => mục đích: thực hiện chế độ tố giác để góp phần
ổn định tình hình chính trị, xã hội, bảo vệ trị an.
2. Khuyến khích lập công (cải cách trên lĩnh vực quân sự):
Bất cứ ai nếu chém được một đầu giặc thì được (phong) một cấp (1 tước thì
bằng 20 cấp).
Những ai xung phong dẫn đầu chém đầu giặc thì phụ thuộc vào công lao
được ban chức, những ai đi sau ko dám tấn công giặc thì chém đầu.
Nếu muốn làm quan thì được cấp lương mỗi năm 50 thạch thóc.
Nếu là con cháu quý tộc mà không chiến công thì cũng không được phong
tước , qúy tộc mà không có công thì bị hạ xuống là dân thường
=> khuyến khích tinh thần chiến đầu của quân sĩ và tăng cường thêm lực
lương quân sự của nhà Tần.
3. khuyến khích sản xuất nông nghiệp
Nếu ai sản xuất được nhiều thóc lúa, dệt được nhiều lụa thì được miễn đi
lao dịch.
Những ai bỏ nghề nông mà đi buôn hoặc lười biếng, không chịu sản xuất
để cả nhà bị đói thì sẽ bị biến thành lao dịch.
Nhà nào mà có hai con trai đã lập gia đình mà vẫn ở chung chưa ra ở riêng
thì sẽ phải nộp thuế gấp đôi
=> Mục đích của cuộc cải cách: nhằm làm cho trật tự xã hội ổn định, lực lượng
quân sự hùng mạnh và sản xuất nông nghiệp phát triển.
Tuy nhiên ông quá chú trọng đến pháp , thuật mà không chú trọng dến nhân nghĩa.
Câu 17: Phân tích đường lối xây dựng đất nước của phái Pháp gia?
Trả lời:

(Học thuyết pháp trị về thực chất là một học thuyết chính trị - xã hội thực hiện chủ
trương cai trị bằng luật pháp.
Có thể tóm lược nội dung cơ bản của học thuyết pháp trị như sau:
- Học thuyết pháp trị chủ trương dùng luật pháp làm công cụ trị
nước.
- Bậc làm vua phải củng cố và đề cao uy quyền, phải thâu tóm
toàn bộ quyền lực nhà nước để đảm bảo cho pháp luật được thi hành.
- Bậc làm vua phải có thuật cai trị như thuật trị quan lại, thuật
dùng người, thuật kiểm tra giám sát, thuật thưởng phạt.)
Để hiểu một cách tương đối có hệ thống về đường lối trị nước của phái Pháp
gia ta cần phải tìm hiểu tư tưởng cơ bản của các nhà pháp trị đã nêu trên cũng như
những những luận chứng khá thuyết phục về sự cần thiết của đường lối Pháp trị:
Quản Trọng (thế kỷ VI TCN) là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình
dân nhưng rất có tài chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp
luật như là phương cách trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi
trong bộ Quản Tử, bao gồm 4 điểm chủ yếu sau: Một là, mục đích trị quốc là làm
cho phú quốc binh cường.Hai là, muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát
triển nông, công thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội:
"Tội nặng thì chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc
bằng một cái qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn
nghi thì tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì
bắt nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa". Ba là, chủ trương phép trị nước phải đề
cao "Luật, hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là
để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh,
Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Bốn là, trong khi đề cao luật
pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm trong phép trị nước .
Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao "pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình
khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Theo ông pháp luật phải nghiêm
và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành, ai có tội thì
phạt và phạt cho thật nặng. Trong chính sách thực tiễn, Thương Ưởng chủ trương:

Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm,
dệt lụa, thưởng người có công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có
công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải
cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất
nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và lần lượt thôn tính
được nhiều nước khác.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi, người có công tổng kết và hoàn thiện tư
tưởng trị nước của pháp gia. Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị và ông đã phát
triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh
và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
Nếu như Thương Ưởng đề cao "Pháp" trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là
người đầu tiên coi trọng cả ba yếu :"Pháp", "Thế", "Thuật" và là ba yếu tố này
thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự
thống nhất đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật
lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp
cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế
vương.
Ngoài các nội dung "Pháp", "Thế", "Thuật" đã nêu ở trên, tư tưởng Pháp gia
còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn
tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ
lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn
Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là
muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã
hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình
thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần ra sức

vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện
phân tán cát cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm dài chiến
tranh khốc liệt.
Câu 18: Trình bày quá trình hình thành Phật giáo?
Trả lời:
Phật giáo xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ cổ đại (nay thuộc Nêpan) vào cuối
thế kỷ VI trước Công nguyên. Khi ấy trong xã hội tình trạng phân chia đẳng cấp rất
khắc nghiệt. Sự ra đời của Phật giáo thể hiện tinh thần phản kháng của những
người nghèo, chống lại thuyết bốn đẳng cấp của đạo Bà la môn, tìm con đường giải
thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
Theo đạo Bà la môn, mỗi người thuộc một đẳng cấp nhất định: Bà la môn,
quý tộc, bình dân gồm người buôn bán, thợ thủ công, nông dân và nô lệ… tức là có
bốn đẳng cấp là Tăng lữ – đẳng cấp cao quý nhất là Bà la môn sinh ra từ miệng của
đấng Tối cao là thần Sáng Tạo Brahmâ và thấp hèn nhất là tiện dân-nô lệ. Người
đẳng cấp nào sẽ mãi mãi thuộc đẳng cấp ấy. Không thể thay đổi.
Đạo Bà la môn chủ trương đại sát sinh và hiến tế nên gia súc bị giết chết rất
nhiều để hiến tế, thậm chí tế cả người. Đối với phụ nữ, chồng chết phải hỏa thiêu
và vợ cũng bị hỏa thiêu theo…
- Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni (nghĩa là ông thánh hay nhà hiền
triết của tộc người Thích Ca). Đây là tên gọi khi thành đạo. Tên thật của Thích Ca
Mâu Ni là Siddhartha (Tất đạt đa) nghĩa là “người thực hiện được mục đích”, họ là
Gautama (Cù Đàm), vốn là con đầu vua Tịnh Phạn. Thích Ca Mâu Ni sinh ngày 8
tháng 4 năm 563 trước công nguyên, và mất năm 483 TCN.
Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả của một thái tử để đi
tu, tìm đường diệt khổ cho chúng sinh. Sau 6 năm, ông đã “ngộ đạo” và trở thành
Thích Ca Mâu Ni (35 tuổi). Khi ấy ông lấy hiệu là Buddha có nghĩa là “người giác
ngộ” (Trung quốc dịch là Phật). Người ta gọi ông là Sakya-muni (Trung quốc dịch
là Thích Ca Mâu Ni - nhà hiền triết xứ Sakya).
Sau khi ông mất, những học trò của ông đẵ họp nhiều lần, ghi chép lại và lý
giải những điều phật dạy. Những điều ghi chép này được gọi là kinh điển của

Phật giáo.
Căn cứ vào nội dung, kinh điển này được chia làm ba bộ phận được
gọi là Tam Tạng gồm (Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng).
Phật giáo đẵ tồn tại hơn hai nghìn năm, gồm nhiều tông phái, lại được
truyền bá qua nhiều nước trong những điều kiện lịch sử khác nhau, do đó
nhiều giáo lý Phật giáo có sự giải thích khácnhau. Đạo phật đã tồn tại ở Ấn độ cách
đây hàng nghìn năm và sư truyền bá của đạo phật tới khắp cõi Á Đông, trong đó có
Việt Nam.
Câu 19: Tư tưởng về thế giới quan của Phật giáo?
Trả lời:
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ ( chử pháp ) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận).
Mỗi 1 sự vật trong thế giới quan luôn luôn biến đổi và thay đổi. Phật giáo
thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan ,– thể hiện quan điểm duy vật, điểm
mới của PG.
Mỗi 1 sự vật, hiện tượng luôn luôn ảnh hưởng tới thế giới tự nhiên.
PG chủ trương: vô tạo giả, vô ngã, vô thường
Vô tạo giả:thế giới không phải do 1 thế lực nào đó tạo ra hay tức là” không
có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ.
Vô ngã: không có cái tôi, không có linh hồn bất tử, vạn vật không có thực
mà do ảo giác mang lại. cái tôi hay “ngã” chỉ là do 1 số yếu tố vật chất, các yếu tố
tinh thần cấu tạo nên một cách tạm thời. các yếu tố đó bao gồm: sắc, thụ, hành,
tượng, thức và lục đại: địa, thủy, phong, hỏa, không, thức,
Vô thường: không vĩnh hằng, mọi vật luôn luôn trong quá trình biến đổi
(vạn pháp vô thường), không có cái gì tồn tại quá mà chỉ có danh sắc luôn luôn
biến đổi. Muôn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi và quá trình biến đổi của vạn vật đấy
được tuân theo quy luật: thành (sinh ra) – trụ (tồn tại, phát triển) – hoại (biến đổi) –
không (chết, mất đi, biến đổi, tan rã), (hay sinh, trụ, dị ,diệt) dù có tồn tại trong
khoảng thời gian vô tận cũng chỉ là chốc lát.
Câu 20: Tại sao Phật giáo được coi là một tôn giáo không có phạm trù trời và

thế giới trời?
Trả lời:
Phật giáo được coi là một tôn giáo không có phạm trù trời và thế giới trời
bởi vì: PG cho rằng thế giới không phải do 1 thế lực nào đó tạo ra., không có một
đấng Braman đầu tiên nào sang tạo ra vũ trụ cả.
Câu 21: Trình bày thuyết “Nhân quả” và “thập nhị nhân duyên” trong tư
tưởng của Phật giáo?
Trả lời:
Thuyết Nhân quả:
Nhân: nguyên nhân, cái gây ra tác động/hệ quả đến sự vật hay hoạt động của
chính nó.
- Quả: cái được tạo ra bởi tác động của Nhân
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là
một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến
chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp
thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối
liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là
Duyên.
Đạo Phật chủ trương rằng, đời sống con người cũng như của tất cả sự vật
hiện tượng đều không phải do một đấng sáng thế nào sinh ra mà tất cả đều do nhân
duyên. Con người sở dĩ có sai khác trong hình hài, dáng vẻ, hoàn cảnh sống là do
đã gieo “nhân” thiện ác khác nhau . Gieo nhân nào gặp quả ấy
Thập Nhị Nhân Duyên
Thập nhị Nhân duyên là 12 cái Nhân duyên. Nhân là nguyên nhân, như hạt
lúa làm Nhân sanh ra cây lúa; Duyên là cái bổ trợ cho hạt lúa sanh ra cây lúa, như
là : ánh sáng, nước, phân, công chăm sóc. Vậy Nhân duyên là cái nguyên nhân và
cái bổ trợ cho cái nguyên nhân ấy thành cái quả.
Thập nhị Nhân duyên nói rõ sự tương quan của tất cả hiện tượng vật lý và
tâm lý. Sự vật vốn có sinh có diệt, biến chuyển theo Luật Nhân Quả, không hề bị

tiêu diệt hoàn toàn.
Nói cách khác, mọi sự vật đều không có bản thể độc lập, mà là tổng hợp của
nhiều yếu tố, và là vô thường, luôn luôn biến đổi từ trạng thái nầy sang trạng thái
khác.
Trong 12 Nhân duyên, không thể nêu ra một nhân duyên nào là nguyên nhân
đầu tiên, bởi vì 12 Nhân duyên tạo thành 12 cái mắc xích đan vào nhau thành một
vòng tròn liên tục, không có cái bắt đầu, không có cái cuối cùng (Vô thủy vô
chung), mà người ta gọi là Bánh xe Sinh hóa, hay Bánh xe Luân hồi, được biểu
diễn bằng hình vẽ nơi trang sau.
Bánh xe Sinh hóa là vòng tròn không có khởi điểm, nhưng người ta thường
trình bày nó bắt đầu từ Vô Minh.
1) Vô minh : là trạng thái mờ ám, si mê, không sang suốt, ngu tối
2) Hành : là hành động, tạo tác. Có khuynh hướng làm cho nghiệp hoạt
động.
3) Thức : bắt đầu ý thức.
4) Danh Sắc : hình thành thể thống nhất tâm sinh lí gồm vật chất (sắc -
gồm: địa (tạo nên phần xương cốt), nước (máu, mồ hôi), phong (hơi thở), hỏa (thân
nhiệt)) và tinh thần (danh- gồm: thụ (Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng,
đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội thân hay tâm.), tưởng (Suy nghĩ, tư tưởng), hành (ý
muốn thúc đẩy hành động), thức(Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta))
5) Lục nhập: tác động vào lục căn tức cơ quan cảm giác (mắt, tai, mũi,
lưỡi, than, ý)
6) Xúc : là tiếp xúc giữa cảnh (thế giới bên ngoài) với căn (cơ quan cảm
giác).
7) Thụ : là nhận lãnh. Do tiếp xúc với cảm giác sướng khổ.
8) Ái : là ham muốn, Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích.
9) Thủ : là giữ lấy, chiếm lấy. Do có dục vọng mà muốn chiếm thành của
mình
10) Hữu : là có, Là tồn tại, Muốn thỏa mãn dục vọng của mình thì phải tồn
tại.

11) Sinh : là sanh ra. Muốn tồn tại thì phải sinh ra.
12) Lão và Tử : là già rồi chết. Sanh ra, lớn lên, già rồi chết. Trong Bánh xe
Sinh hóa nầy, thời hiện tại được đặc biệt giải thích chi li với 8 giai đoạn, nhưng
thực sự thì Vô Minh và Hành là của quá khứ, Sinh và Tử là của tương lai, cũng có
những giai đoạn tương tự như hiện tại.
Câu 22: Những nội dung cơ bản của chân lý tứ diệu đế trong tư tưởng của
Phật giáo?
Trả lời:
Khổ đế: Chân lý về sự Khổ
Tư tưởng Phật giáo cho rằng, con người sinh ra ở đời là khổ: “Đời là bể
khổ”. Từ khi sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay không có lúc nào hết khổ. Vũ trụ tự
nhiên thì luôn trong quá trình biến đổi Thành - Trụ - Hoại - Không. Về thân xác
con người thì trải qua Sinh - Lão – Bệnh - Tử. Rồi sống trong cuộc sống xã hội
cũng luôn có nỗi khổ: Sở cầu bất đắc khổ (mong muốn mà không đạt được là
khổ), Ái biệt ly khổ (yêu thương nhau mà phải xa lìa là khổ), Oán tăng hội
khổ (ghét thù nhau mà phải sống gần nhau là khổ), Ngũ thụ uẩn khổ (năm giác
quan tương tác với thế giới bên ngoài, thọ nhận tướng sắc của vật chất, bị hình
tướng của vật chất che mất bản chất và mãi bị mê muội theo nó là khổ). Đó là tám
nỗi khổ của con người mà Phật giáo gọi là Bát khổ
Tập đế
Nói về nguyên nhân sự khổ. Tập có nghĩa là nhóm họp, gộp lại.
Nguyên nhân chủ yếu là luân hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở
dĩ có nghiệp là do Tham (tham lam), Sân (giận, bực, nóng nảy), Si (ngu mờ, mê
muội) là nguyên nhân chính nhất của nỗi khổ
Đức Phật dạy rằng, vì vô mình che lấp nên con người không nhận ra thực
tướng của vạn vật, rồi cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo không vĩnh viễn đó nên tạo
ra nghiệp. Đó là nguyên nhân của nỗi khổ.
Diệt đế

×