Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

SỰ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT NHÂN QUẢ, NGHIỆP BÁO CỦA PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.6 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA VĂN – XÃ HỘI

BÀI TIỂU LUẬN
KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN TÔN GIÁO HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài:
SỰ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT NHÂN
QUẢ, NGHIỆP BÁO CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI QUAN NIỆM,
THÁI ĐỘ SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : TS. Phạm Thị Phương Thái
Lớp học phần : L08
Nhóm sinh viên thực hiện:
STT Mã sinh viên Tên sinh viên Ngày sinh
1 DTZ1156140052 Dương Thị Huê 04/05/1993
2 DTZ1156140033 Ngô Thị Hiền 14/12/1993
3 DTZ1156140030 Nguyễn Thị Hoài 13/03/1993
4 DTZ1156140048 Nguyễn Thị Lựu 20/05/1992
5 DTZ0956130088 Giá Thị Loan 26/02/1991
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ rất lâu và thực sự đã trở
thành một góc trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Phật giáo được
biết đến như một tôn giáo phổ biến nhất ở Việt Nam đồng thời ở cả một số nước
châu Á khác. Với nội dung cơ bản của giáo lý đạo Phật là lý giải nguyên nhân
nỗi khổ của con người và con đường giải thoát nó, cùng những tư tưởng của
lòng nhân ái và chia sẻ; tinh thần nhân văn, hướng thiện; lòng vị tha và khoan
dung; tinh thần đoàn kết, hợp tác trong lao động… Hơn nữa, Phật giáo đã để lại


những dấu ấn, ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tâm linh, văn hóa, đạo đức của
người Việt. Đó là những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của Phật giáo có những nét
tương đồng với những quy tắc, chuẩn mực nền đạo đức mới và được nhiều
người tin theo, phát huy. Họ lấy niềm tin vào Phật giáo làm lẽ sống của mình,
lấy triết lý Phật giáo làm một trong những chỗ dựa để điều chỉnh hành vi, hoàn
thiện nhân cách, lành mạnh hóa cách ứng xử trong các mối quan hệ giữa cá nhân
với cá nhân, giữa cá nhân với gia đình, cộng đồng và xã hội. Một trong những
nội dung thể hiện rõ ảnh hưởng Phật giáo là Thuyết Nhân Quả, Nghiệp Báo.
Vì vậy, chúng em chọn đề tài: “Sự tác động và ảnh hưởng của thuyết
nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo đối với quan niệm, thái độ sống của
người Việt Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo cũng như sự ảnh hưởng của
nó như:
Cuốn : “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người
Việt Nam hiện nay” do Giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, năm 1997 . Tác giả đã đề cập và tập trung vào các khái
niệm từ, bi, hỉ, xả cùng các giá trị tư tưởng của Phật giáo với tư tưởng của
con người Việt Nam.
3
Cuốn “Đạo đức học Phật giáo” do hòa thượng Thích Minh Châu giới
thiệu và Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995 là những bài
tham luận của nhiều tác giả. Các tác giả đã nêu những cơ sở và nhiều phạm
trù đạo đức của Phật giáo và phân tích rõ them một số nội dung của chúng.
Ngoài ra còn một số bài viết :
- “Nghiệp hay định luật đạo đức nhân quả” của Thích Phước Sơn.
- “Nhận thức về Nhân quả và Nghiệp” của tác giả Thích Giác Khang.
- “Nghiệp là một định luật luân lý của đạo đức” của Ni Sinh: Thích nữ
Diệu Minh.
Nhìn chung các bài viết đều có khai thác một cách khái quát, hoặc là một

khía cạnh về các vấn đề liên quan đến Phật giáo. Ở từng góc độ thì họ lại
tiếp cận và có quan điểm khác nhau cũng như hướng đi khác nhau.
Hiện, chúng tôi chưa thấy một công trình hay bài viết nào có tính hệ thống
về công việc mà chúng tôi tiến hành. Xuất phát từ những suy nghĩ và phát
hiện như trên, đã chỉ cho chúng tôi những công việc cần phải làm.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu được nội dung cơ bản của thuyết nhân quả, nghiệp
báo của Phật giáo, qua đó tìm ra những ảnh hưởng, tác động của nó
đối với quan niệm, thái độ sống của người Việt Nam.
- Nghiên cứu đề tài này nhóm còn góp phần làm tư liệu cho việc
nghiên cứu sau này và nhóm cũng muốn được đóng góp một phần nhỏ
bé của mình vào việc nghiên cứu những ảnh hưởng của Phật giáo đối
với người Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tiếp cận cơ sở, đặc điểm, những phạm trù cơ bản của Phật giáo.
- Tiếp cận những tín ngưỡng, tâm lý, quan niệm sống của người
Việt Nam.
4
- Góp phần lý giải sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, đặc
biệt là những tác động, ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo đối với người
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu: Thu thập thông tin,
tìm các tài liệu có liên quan đến đề tài thông qua: sách, báo, internet…
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Tiến hành phân chia vấn
đề nghiên cứu thành các bộ phận nhỏ để thuận lợi hơn trong việc tìm
hiểu và đảm bảo tính sâu sắc của từng bộ phận. Sau khi phân tích
xong, sử dụng phương pháp tổng hợp để hoàn thành bài báo.
6. Đóng góp của đề tài
Thông qua việc giải quyết nhiệm vụ để đạt được mục đích như

trên, chúng tôi đã khái quát nội dung nghiên cứu để xây dựng chúng
theo một hệ thống riêng của mình. Từ đó lý giải sự ảnh hưởng của
giáo lý Phật giáo tới người dân Việt Nam.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài làm sáng tỏ những tác động, ảnh hưởng của thuyết nhân
quả, nghiệp báo đối với quan niệm, thái độ sống của người Việt Nam.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì phần nội
dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về Phật giáo và quá trình phát triển
của Phật giáo ở Việt Nam
Chương 2: Tác động và ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo
của Phật Giáo đối với quan niệm, thái độ sống của người Việt Nam
5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1 Vài nét về Phật giáo
1.1.1 Sự ra đời của Phật Giáo
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người,
từng cộng đồng xã hội. Trong đó Phật giáo là một trào lưu tôn giáo với cái đích
là hướng con người tới sự giải thoát khỏi nỗi thống khổ. Nó xuất hiện vào cuối
thế kỉ thứ VI trước công nguyên ở Ấn Độ thuộc vùng đất Nêpan ngày nay.
Đạo Phật ra đời trên nền tảng của một nền văn hóa, văn minh lớn – Văn minh
Vêđa với người sáng lập là Thích Ca Mâu Ni. Sự ra đời của đạo Phật thể hiện
tinh thần phản kháng của những người nghèo chống lại thuyết bốn đẳng cấp của
đạo Bà la môn, tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi thống khổ triền
miên trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
Theo đạo Bà la môn, mỗi người thuộc một đẳng cấp nhất định: Bà la môn,
quý tộc, bình dân gồm người buôn bán, thợ thủ công, nông dân và nô lệ… tức là
có bốn đẳng cấp là Tăng lữ - đẳng cấp cao quý nhất là Bà la môn sinh ra từ

miệng của đấng tối cao là thần Sáng Tạo Brahmâ và thấp hèn nhất là nô lệ.
Người đẳng cấp nào sẽ mãi mãi thuộc đẳng cấp ấy, không thể thay đổi.
Đạo Bà la môn chủ trương đại sát sinh và hiến tế nên gia súc bị giết chết rất
nhiều để hiến tế, thậm chí tế cả người. Đối với phụ nữ, chồng chết phải hỏa
thiêu và vợ cũng phải hỏa thiêu theo… Chính từ những bất bình đẳng của việc
phân chia đẳng cấp này đã dẫn đến những mâu thuẫn lớn trong xã hội, nó đã trở
thành một trong những cơ sở để Phật giáo ra đời.
Là một đạo giáo hòa bình tràn đầy đức tính từ bi, trí tuệ dũng cảm, bình
đẳng, vô ngã, vị tha,…hiện nay Phật giáo lan khắp ra năm châu bốn biển. Không
chỉ thu hẹp trong vùng Châu Á như trước đây, mà nó còn được truyền đi khắp
các xứ lân cận với số tín đồ chính thức khoảng trên 300 triệu người.
6
1.1.2 Tiểu sử Phật Thích Ca
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ở miền Trung Ấn Độ mà nay gọi là nước
Nepal, một nước ở ven sườn dãy Himalaya dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp
với nước Tây Tạng. Thích ca là họ của ngài, theo tục lệ của Ấn Độ thì người con
phải lấy họ của mẹ là Thích ca. Mâu ni có nghĩa là bậc thánh, Thích Ca Mâu Ni
có nghĩa là bậc thánh của dòng họ Thích Ca.
Đức Phật Thích Ca xuất thân từ đẳng cấp thứ hai của xã hội. Ngài là thía
tử con vua Tịnh Phạn ở thành Ca tì la vệ (Kapilavastu), mẹ ngài là Hoàng hậu
Ma da. Nước Ca tỳ la vệ tức là xứ Pipaova ở phía Bắc thành Ba la nại (Bénares)
ngày nay. Thái tử sinh lúc mặt trời vừa mọc, nhằm ngày trăng tròn tháng hai Ấn
Độ, tức là ngày mồng tám tháng tư lịch Tàu. Ngài sinh vào khoảng 563 năm
trước Tây lịch. Hoàng hậu Ma da trên đường về ở về ngang qua vườn Lâm tỳ ni
của vua Thiện Giác thì sinh ngài dưới cây vô ưu. Khi mới sinh, ngài đứng trên
hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: “Thiên thượng, thiên hạ
duy ngã độc tôn” (Trên trời, dưới trời ta là bậc tôn quý hơn cả). Trước khi sinh
Hoàng Hậu mộng thấy con voi trắng sáu ngà chui qua hông phải. Khi sinh ra,
ngài có 32 tướng tốt và 80 vẽ đẹp. Một đạo sĩ danh tiếng thời đó là A Tư Ðà đã
đoán tướng ngài: “Nếu sau này làm vua, thì trị vì thiên hạ, nếu xuất gia thì

chứng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Vua cha rất mừng vì đã có
người nối nghiệp. Khi lớn lên ngài tỏ ra xuất chúng, học một biết mười, văn võ
song tài. Ngài thường trầm tỉnh suy tư và có một tình thương rộng lớn đối với
muôn loài.
Một ngày nọ, Thái tử đi ra ngoài thành dạo chơi và lần đầu tiên trong đời
được tiếp xúc với những sự thật đen tối và đáng sợ: Thái tử lần lượt gặp một
người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và cuối cùng là một vị tu sĩ với
dung sắc giải thoát, khoan thai đi trên đường. Thái tử nghiệm thấy mình dù là
Thái tử con vua, cũng không thể thoát khỏi cảnh già, đau, và chết; những hình
ảnh siêu thoát của vị Tu sĩ đã giúp Thái tử sớm thấy được con đường dẫn đến
giác ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người, con
7
đường dẫn tới cõi Niết bàn. Vua cha sợ ngài xuất gia không ai nối nghiệp trị vì,
nên tìm cách giữ chân ngài bằng thú vui ngũ dục và cưới vợ sớm lúc ngài 16
tuổi. Vợ ngài là công chúa Da Du Ðà La, con gái của vua Thiện Giác, một nước
láng giềng và sinh một con trai đặt tên là La Hầu La (có nghĩa một sợi giây trói
buộc). Tuy nhiên, trên mặt Thái tử luôn luôn lộ nét buồn kín đáo và, ngài đã nói
với vua cha xin đi xuất gia để tìm phương cứu mình, cứu đời nhưng không được
chấp thuận, sau đó đang đêm ngài bỏ hoàng cung với ngôi vị cao quý, bỏ cả
người vợ đẹp và con trai, một mình tầm sư học đạo. Bấy giờ, thái tử vừa tròn hai
mươi chín tuổi.
Đi sâu vào rừng đến bờ sông Anoma, ngài cắt tóc và thay đổi y phục trao
lại bảo Xa nặc đem về dâng Phụ hoàng và tỏ rõ sự tình. Từ đây, Thái tử đã trở
thành một đạo sĩ và dấn thân trên đường tìm đạo. Ngài đi đến thành Vương xá
(RajagrÌha) xứ Ma kiệt đà, tìm đến các vị Đạo sĩ Bà la môn mà tham khảo
phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu luyện, Ngài không thỏa mãn. Ngài
liền vào rừng Ưu lâu tần loa xứ Phật đà già da (Bouddhagaya) tu hạnh ép xác,
một ngày chỉ ăn một hạt mè, hạt gạo và suy nghĩ trong sáu năm, song vẫn thấy
vô hiệu. Ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh ấy không phải là lối tu giải thoát. Và sau
khi nhận bát sữa của nàng Tu xà đề dâng cúng, thân thể bình phục, tâm hồn sảng

khoái, ngài đến dưới gốc cây bồ đề ngồi trên thảm tọa và nói rằng: "Nếu không
tìm ra chân lý thì thà chết ta không rời thảm tọa này". Sau khi thiền định dưới
gốc cây Bồ đề 49 ngày, ngài chứng đắc quả vị Phật thấy rõ chân lý cuộc đời. Khi
đó ngài tròn 35 tuổi.
Từ khi thành đạo, ngài du hóa khắp nơi, thuyết pháp, giáo hóa độ sinh,
đem lại lợi ích cho rất nhiều người tin theo đạo ngài . Qua bốn mươi chín năm
trải thân hành đạo không ngừng nghỉ, ngài nhập diệt tại rừng Sala song thọ, khi
ấy ngài tám mươi tuổi.
1.1.3 Giáo lý cơ bản của Phật Giáo
Giáo lý cơ bản của Phật giáo thể hiện ở: Luật Nhân Quả, Luân Hồi, Vô
Thường, Vô Ngã và Tứ Diệu Đế.
8
Luật Nhân Quả: Đạo Phật chủ trương rằng, đời sống con người cũng như
của tất cả sự vật hiện tượng đều không phải do một đấng sáng thế nào sinh ra mà
tất cả đều do nhân duyên. Con người sở dĩ có sai khác trong hình hài, dáng vẻ,
hoàn cảnh sống là do đã gieo “nhân” thiện ác khác nhau.
Lý Luân Hồi: là sự chuyển sinh, sự chuyển tiếp, sự diễn tiến liên tục của
những kiếp sống và sự chuyển sinh liên tục đó thường biểu thị bằng bánh xe
được gọi là bánh xe luân hồi. Từ chỗ luận giải về Luật Nhân Quả, Đạo Phật chủ
trương con người do nghiệp sinh ra, sinh ra lại tạo nghiệp nên cứ trôi lăn mãi
trong vòng luẩn quẩn không thoát ra được.
Vô Thường: Soi xét cuộc đời, đạo Phật cho rằng tất cả mọi sự vật, sự việc,
hiện tượng không có gì tồn tại vĩnh viễn, bất biến mà tuân theo quy luật vô
thường: Có sinh ra, có tồn tại, có biến đổi và có diệt mất. Tất cả những sự sinh
ra, tồn tại, biến hoại, và mất đi đó đều do Nhân Duyên mà ra.
Vô Ngã là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con
người cũng chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ không
phải là một thực thể lâu dài.
Cơ sở tư tưởng của Phật pháp là Tứ diệu đế, là cốt lõi giáo pháp của đạo
Phật và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Bốn chân lí này chính là

câu trả lời cho câu hỏi của thời đại đó là: Tại sao con người cứ bị trói buộc trong
luân hồi và liệu con người có hội thoát khỏi nó hay không?
Tứ diệu đế là: Bốn chân lí mà Đạo Phật khẳng định là tuyệt đối đúng khi
nhận thức về cuộc đời.
1. Khổ đế : Chân lí về các nỗi khổ. Chân lí thứ nhất cho rằng mọi dạng đang
tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn. Sinh, lão, bệnh, tử, xa
lìa người mình yêu quý, ở gần người mình ghét bỏ, không đạt sở nguyện,
là 8 điều khổ. Sâu xa hơn, bản chất của năm nhóm thân tâm. Ngũ uẩn là
các điều kiện tạo nên cái ta, đều là khổ.
9
2. Tập đế là chân lý về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu
là luân hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do
long ham muốn như ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…
3. Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ. Đạo Phật cho rằng, con
người có khả năng thoát khỏi sự khổ đau, ràng buộc của thế gian để đạt
tới sự giải thoát rốt ráo, tuyệt đối (Niết Bàn). Muốn đạt đến Niết Bàn thì
phải chấm dứt luân hồi.
4. Đạo đế: chân lý về con đường dẫn đến bất diệt khổ. Phương pháp để đạt
sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Không thấu
hiểu Tứ diệu đế được gọi là vô minh.
Phật xác nhận ba đắc tướng của cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà
con người phải chịu khổ. Nhận thức ba dấu ấn, đặc trưng này của sự vật đồng
nghĩa bước đầu đi vào đạo Phật.
Khổ được giải thích là xuất phát từ ái và vô minh và một khi dứt được
những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử hữu luân. Cơ chế
làm cho chúng sinh còn vướng mãi trong vòng sinh tử được đạo Phật giải thích
bằng thuyết Duyên khởi pi. Chấm dứt luôn hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc
chứng ngộ Niết bàn. Theo con đường dẫn đến Niết-bàn là Bát chính đạo.
Bát chính đạo bao gồm:
1. Chính kiến: Gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.

2. Chính tư duy: Suy nghĩ hay có một mục đích đúng đắn, suy xét về úy
nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.
3. Chính nghĩa: Không nói dối hay không nói phù phiếm.
4. Chính nghiệp: Tránh phạm giới luật.
5. Chính mệnh: Tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh (giết hại sinh
vật) như đồ tể. Thợ săn, buôn vũ khí, buôn thuốc phiện.
6. Chính tinh tiến: Phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7. Chính niệm: Tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
8. Chính định: Tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gia.
Con đường tám nhánh này có thể phân loại thành ba loại gọi là: Tam học tức
là tu học Giới và Huệ. Những tư tưởng cơ bản cuả Phật - đà đều được nhắc lại
trong các kinh sách, nhưng có khi chúng được luận giải nhiều cách khác nhau và
10
vì vậy ngày nay có nhiều trường phái khác nhau, hình thành một hệ thống triết lí
hết sức phức tạp.
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam
1.2.1 Quá trình Phật Giáo du nhập vào Việt Nam
Phật Giáo du nhập vào Viêt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên.
Phật Giáo đến với Việt Nam qua hai con đường:
Con đường trực tiếp là qua đường biển, lợi dụng được luồng gió thổi định
kì vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở Đông nam Á, những
thương nhân Ấn Độ đã tới các vùng này để buôn bán. Trong các chuyến đi này
các thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho đoàn
và các vị tăng này nhờ đó mà truyền bá đạo Phật vào Đông Nam Á. Giao Châu
tiêu biểu bấy giờ là Luy Lâu, trụ sở quận Giao Chỉ, đã sớm trở thành một trung
tâm phật giáo quan trọng vì là nơi nghỉ chân giao lưu của các thương thuyền. Do
tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên
âm trực tiếp thành "Bụt", từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian.
Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu Thừa, Bụt được coi như một
vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-

5, do ảnh hưởng của Đại Thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được
thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán , từ Buddha được phiên âm thành "Phật
đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".
Con đường gián tiếp: Qua các vị cao tăng Trung Quốc trong quá trình
hành hương về đất Phật qua đường bộ còn gọi là con đường tơ lụa con đường
này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ hoặc phía Trung Á,
một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa
mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà. Cũng có thể các thương
nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông Mekong, sông Hồng, sông
Đà mà vào Việt Nam. Cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói
rõ: "Các thương nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang
qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng
11
tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm
trên một nhánh của con sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng
Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương
quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có
thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất
Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
1.2.2 Quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Nó đã ăn sâu bám rễ trong
đời sống nhân dân Việt Nam.
Giai đoạn từ cuối thế kỷ I đến thế kỷ X, đạo Phật đã từng bước hình thành
và khẳng định vị trí, vai trò trong đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc. Đến
thời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh và trở thành Quốc giáo ảnh
hưởng tới mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời Hậu Lê, Nho giáo nổi lên với
vai trò Quốc giáo giữ địa vị chính yếu về tư tưởng, chính trị, đạo đức khiến Phật
giáo đi vào suy thoái.
Đến đầu thế kỷ XVII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật,
chỉnh đốn xây chùa mang lại nhưng bước tiến mới cho đạo Phật nhưng vì một

số nguyên nhân chủ quan và khách quan nên phong trào không đạt được nhưng
bước tiến quan trọng dần đi vào thoái trào.
Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa nhưng Phật
giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với
những đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Hiện nay, Phật giáo Việt Nam tuy có một số khác biệt giữa Đại Thừa ở
miền Bắc và Tiểu Thừa ở Miền Nam về giáo lý, giáo luật nhưng đều thóng nhất
ở phương châm “ đạo pháp - dân tộc và chủ nghĩa xã hội ” góp phần giáo dục
đạo đức con người, xây dựng đất nước hòa bình, phát triển.Phật giáo có khoảng
8 tín đồ Phật Tử - là tôn giáo có đông tín đồ nhất Việt Nam hiện nay.
12
1.2.3 Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ
thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ
pháp: Mây, Mưa, Sấm, Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được “Phật hóa”.
Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật
Pháp Lôi, Phật Pháp Điện. Trên thực tế, các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo
tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẽ
đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn,
khuôn mặt đầy long từ mẫn.v.v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau
tạo nên các ngôi chùa “tiền Phật, hậu thần” hay “ tiền Phật, hậu Mẫu”. Người
Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc,
… vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bát bia hậu, bát nhang cho các
linh hồn đã khuất. Điều này đã giải thích tại sao Phật giáo đã hưng thịnh cùng
đất nước.
Phật giáo Việt Nam có sự dung hòa giữa các tôn giáo
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công
nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi
tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên “Tam giáo đồng nguyên” (cả ba tôn

giáo có cùng một gốc) và “Tam giáo đồng quy” (cả ba tôn giáo có cùng mục
đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể
xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế
kỷ, hình ảnh “Tam giáo tổ sư” với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái,
Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào trong tâm tức mọi người Việt.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo
khác để hình thành Đạo Cao Đài vào tháng 10 năm 1926 với quan điểm là
“Thiên tân hợp nhất” và “Vạn giáo nhất lý”.
Phật giáo Việt Nam có sự dung hòa giữa các tông phái
13
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam đã trộn
lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị
thiền sư đời Lý Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,… đều giỏi pháp
thuật và có tài thần nông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như
là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc vô cùng phong phú các loại tượng Phật, Bồ
Tát, La Hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng
kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật
Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh
Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng còn có
áo nâu, áo lam.
Phật giáo Việt Nam mang tính hài hòa âm dương
Sau tính tổng hợp thì hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác
của lối tư duy nông nhiệp, nó ảnh hưởng đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật
giáo Việt Nam thiên về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành
“Phật ông – Phật bà”. Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là
vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải.
Ngoài ra, người Việt còn có những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật
Mẫu, (tên khác là Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện ( tên

khác là Phật Bà Chùa Hương, Bà Chúa Ba).
Phật giáo Việt Nam mang tính linh hoạt
Phật giáo Việt Nam còn một đặc điểm đó là rất linh hoạt, mà các nhà Phật
thường gọi là “tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên” . Điều này
có nghĩa là tùy vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo
theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật.
Ngoài ra, Phật ở Việt Nam còn mang dáng dấp hiền hòa và dân dã: ông
Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),…
14
Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ
nữ Việt Nam.
Ngoài những đặc điểm cơ bản trên thì Phật giáo Việt Nam còn có đặc
điểm sau: Phật giáo Việt Nam có thể dung hòa với các thể chế chính trị xã hội,
Phật giáo Việt Nam dung hòa tín ngưỡng đa thần trong thờ Phật.
Tiểu kết chương 1
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con
người, từng cộng đồng xã hội. Trong đó Phật giáo ra đời là một trào lưu tôn giáo
tràn đầy đức tính từ bi, trí tuệ dũng cảm, bình đẳng, vô ngã, vị tha…
Với giáo lí cơ bản của Phật giáo thể hiện ở: Luật Nhân Quả, Luân Hồi, Vô
Thường, Vô Ngã và Tứ Diệu Đế. Phật giáo đã được truyền bá vào Việt Nam và
đã dần đi sâu vào tiềm thức của mỗi một người con dân đất Việt.
15
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT NHÂN
QUẢ, NGHIỆP BÁO CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI QUAN NIỆM,
THÁI ĐỘ SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
2.1 Nội dung cơ bản của thuyết nhân quả của Phật giáo
2.1.1 Khái niệm thuyết nhân quả
Giáo lý Phật giáo cho rằng: “Nhân” là nguyên nhân, “Quả” là kết quả.
Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực
phát động, Quả là sự hìnhthành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai

trạng thái nối tiếp nhau mà có. Nếu không có nhân thì không có quả, nếu không
có quả thì không có nhân.
Trong thế giới tương quan của hiện tượng, mỗi hiện hữu đều có nguyên
của nó. Nguyên nhân của sự có mặt của các hiện hữu gọi là nhân và hiện hữu gọ
là quả. Mỗi hiện tượng vừa là kết quả vừa là nguyên nhân. Tương quan nhân
thành quả ấy gọi là tương quan duyên sinh.
2.1.2 Nội dung của thuyết nhân quả
Nhân thế nào thì quả thế ấy: Một người chủ nông trại nọ muốn mình thu
hoạch được nhiều đậu thì tất nhiên phải gieo trồng hạt giống đậu.
Một nhân không thể sinh ra quả: sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp
của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào, có thể tự tác thành kết
quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác.
Trong nhân có quả, trong quả có nhân: trong nhân đã có sẵn mầm mống
của quả. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ
thì nó là quả nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và quả là sự tiếp nối
và đắp đổi cho nhau.
Sự chuyển biến từ nhân thành quả có lúc nhanh nhưng cũng có lúc chậm,
chứ không phải bao giờ cũng đồng nhất trong một khoảng thời gian nhất định.
Vì thế các nhà nghiên cứu đã phân loại nhân quả thành nhân quả đồng thời và
nhân quả khác thời.
16
Theo thuyết này, con người sở dĩ có thân hình ngày nay đều là do trước
đây đã gieo “nhân”. Gieo nhân tốt đẹp thì đượchlà do trước đây đã gieo “Nhân”.
Gieo Nhân tốt đẹp thì được hưởng quả tốt, gieo nhân xấu thì được quả xấu.
2.1.3 Biểu hiện của thuyết nhân quả
Nhân quả thể hiện qua ba phạm trù thời gian, gọi là hiện báo, sanh báo và
hậu báo. Hiện báo là kết quả trổ ngay trong hiện kiếp, có thể ngay tức khắc,
hoặc một ngày, một tháng, một năm, nhiều năm…trong một đời này. Sanh báo là
kết quả trổ ở kiếp sau khi vừa thọ nhận một thân mới. Vì vậy, có những người
tạo việc lành bây giờ mà vẫn gặp điều không tốt vì nhơn ác đã tạo từ kiếp trước.

Hậu báo là khi mình tạo việc lành hay việc dữ ở kiếp này, quả không trổ liền ở
kiếp này hay kiếp tiếp theo mà nhiều kiếp về sau mới trổ, vì duyên chưa đủ. Y
cứ về lý nhân quả mà nói ba thời, ba khía cạnh của nhân quả.
Nhà Phật có nói: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến kết quả của nó”. Con
người chúng ta làm việc đôi khi do bản năng, tính háo thắng hoặc thiếu suy nghĩ
mà không lường trước những hậu quả của nó. Phần lớn những sự thất bại trong
công việc đều do những yếu tố chủ quan trên mà ra. Vì vậy, áp dụng đạo lý nhân
quả vào các công việc xã hội, chúng ta sẽ có được những thành công trong lao
động. Người hiểu luật nhân quả sẽ không cho phép mình suy nghĩ, nói năng và
làm việc xấu. Nếu mọi người ai cũng được vậy thì đất nước sẽ văn minh, xã hội
có văn hoá, gia đình sẽ hạnh phúc. Vì thế, giáo dục con người biết suy nghĩ tốt,
làm việc lành là một nhiệm vụ cao cả và thiết yếu.
Những ai có niềm tin xác tín về nhân quả, thiện ác, dĩ nhiên khi suy nghĩ,
nói năng hay hành động gì đều phải có thái độ thận trọng. Một tách nước trà lỡ
đổ xuống đất, muốn lấy lên lại không dễ. Một ý nghĩ, lời nói, hành động xấu ác
buông ra lỡ lầm, mang lại một hậu quả ghê gớm khôn lường. Một bài kệ nói về
nhân quả như sau:
“Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
17
Dục tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị.”
Tạm dịch:
“Muốn biết nhân đời trước
Xem thọ nhận đời này
Muốn biết quả đời sau
Xem tạo tác đời này.”
Cái thông dụng trong cuộc sống này, chánh báo và y báo của mình, xem
thử mình mang thân như thế nào, con người có hạnh phúc hay không, nghèo hay
giàu, ngu hay trí… cứ nghiệm lại mà biết rằng nhân đời trước mình tạo là nhân

gì. Một cái ăn, một cái uống, một cái mặc cũng đều do tạo nhơn lành hay dữ ở
kiếp trước. Muốn biết kết quả kiếp sau ra sao, nơi kiếp này hãy suy xét sự tạo
tác của thân - khẩu - ý của mình ra sao. Nếu chúng ta có chánh kiến về nhân quả
sẽ có thể biết được quá khứ, hiện tại, vị lai của mình và người như thế nào, từ đó
quyết chí tiến tu để mỗi ngày được thăng hoa hơn trên lộ trình tu tập.
Qua thuyết nhân quả của Đạo Phật cho chúng ta thấy có sự tái sanh, luân
hồi, có quả báo khổ vui trong các kiếp sống. Các vị Đạt Lai Lạt Ma bên Tây
Tạng đã nói đến thuyết tái sinh, đi tìm hậu thân và các cõi sống. Thân ngũ uẩn
của chúng ta đều do nghiệp lực mỗi người vẽ ra mà có sự sai biệt về hình dáng,
tính cách, hoàn cảnh. Cho nên, mình là Thượng đế của chính mình, tự tạo ra
hoàn cảnh chánh báo và y báo cho chính mình. Người hiểu đạo lý, niềm tin này
làm cho họ tự ý thức dè dặt, thận trọng trong mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của
mình, chuyên tu ba nghiệp cho được thanh tịnh, ngõ hầu chuyển hóa bản thân,
gia đình và xã hội đều dứt ác hành thiện.
2.2 Nội dung cơ bản của thuyết nghiệp báo
2.2.1 Khái niệm thuyết nghiệp báo
Cơ sở trực tiếp của đạo đức Phật giáo là thuyết Nghiệp báo. Đây là luật
Nhân quả của đạo Phật được học thuyết này triển khai, áp dụng để nghiên cứu
sâu vào lĩnh vực của đời sống của con người.
18
Phật giáo hiện nay chưa có sự thống nhất về khái niệm “Nghiệp”
(Karma), trong khi nghiệp là một tiêu chí rất quan trọng để lý giải các chuẩn
mực đạo đức cũng như hành vi đạo đức của Phật giáo. Qua nghiên cứu và so
sánh quan niệm của các học giả để thâu tóm thì nên hiểu Nghiệp là thế này:
Nghiệp là một khái niệm thuộc về đời sống của con người nói riêng và chúng
sinh nói chung, dùng để chỉ cái vừa ở bên trong, vừa ở bên cạnh của hành động,
là nhân chứng giống như hình với bóng của hành động, đi theo hành động để trở
thành kết quả của hành động.
Chính vì gieo nghiệp thiện ác khác nhau mà con người sinh ra có thân
hình, đời sống khác nhau để lãnh nhận Quả báo của sự gieo đó.

2.2.2 Nội dung thuyết nghiệp báo
Nội dung của Nghiệp báo quát rất rộng về cả mặt không gian, thời gian,
đặc điểm tính chất rất phức tạp…Cái quan trọng ở đây là do quả báo của nghiệp
từ sự vay trả, nó “giống” như là một cuốn sổ ghi công nợ của ta, cho nên chủ
yếu con người hoặc chúng sinh phải tái sinh để tự giải quyết cái công nợ, cái của
nợ ấy của mình. Đó là sự chiêu cảm quả khổ hay sướng…của mỗi con người
hay chúng sinh nói chung. Tư tưởng này cũng na ná như Hồi giáo khi Thượng
đế Allah phán truyền: “Và ta cột vào sổ của mỗi người (quyển sổ) hành động
của y, vào ngày Phán Xử Cuối Cùng Ta sẽ mang Quyển sổ (đó) đến mở sẵn cho
y đọc”
Thông thường, nói đến nghiệp là nói đến vấn đề thiện, ác trong vòng sinh
diệt và tương tục của đời sống con người. Thông qua việc tác nghiệp (thiện hay
ác) mà con người tự xây dựng cho mình một định nghiệp – một đời sống khổ
đâu hay hạnh phúc. Nhưng khổ đâu hay hạnh phúc là những cảm nhận của riêng
mỗi con người khác nhau và nó là những pháp sinh diệt, tương tục trên cơ sở
tâm lý khác nhau. Vì thế, sẽ không có một khuôn mẫu ước lệ nào có thể quy ước
một cách đầy đủ về nghiệp. Tuy nhiên, cơ sở của nghiệp là tâm (ý), do đó, khảo
sát về nghiệp chính là khảo sát về cuội nguồn của tâm.
19
2.2.3 Biểu hiện của nghiệp báo
Nghiệp báo hoạt đọng theo ba mặt: thân, lời, ý. Nó sản sinh ra bao loại
hậu quả: xấu, không xấu, trung tính. Một số biểu hiện của nghiệp báo mà ai
cũng có thể vướng vào nếu có cách sống gây nghiệp báo.
Hiện báo nghiệp: là sự báo ứng ngay trong đời sống hiện tại, ví như sống thất
nhân tâm hôm nay, thì không lâu sau đó một thời gian sẽ bị người khác ứng xử
như thế. Sự báo ứng này, không cần phải đợi đến kiếp sau. Quả báo này gọi là
hiện báo hay họa báo. Trong dân gian Việt Nam có câu thành ngữ nói về loại
quả báo này: “ Đời xưa trả bão thì chầy, đời nay trả bão một giây nhãn tiền”.
Sinh báo nghiệp: sinh báo là gây nghiệp trong đời sống này đến đời sống kế
tiếp sau mới chịu trả bó. Kinh Phật nói : “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem

sự sống ở kiếp này. Muốn biết kiếp sau ta sống ra sao, hãy xem xét bản thân
mình sống thế nào trong hiện tại”.
Hậu báo nghiệp: Hậu báo là quả báo, khi gây nghiệp ở kiếp này, nhưng báo
ứng đến lâu và rất lâu sau đó, có khi sau ba, bốn, trăm, nghàn năm sau mới tới,
thậm chí đến vô lượng kiếp sau khi hội tụ đủ nhân duyên mới chịu quả báo.
Định báo nghiệp: đây là quả báo người gây nghiệp trước đó nhất định phải
gánh chịu, không tránh được.
Cộng báo nghiệp: Cộng báo hay còn cộng nghiệp. Quả báo này thể hiện cùng
một lúc nhiều người, một nhóm người, thậm chí cả một cộng đồng người phải
gánh chịu. Ví như một gia đình, có người cha bị bệnh nằm bệnh viện, thì cả nhà:
con cháu phải vất vả thay nhau chăm sóc.
Biệt báo nghiệp: Đây là quả báo tới từng cá thể, từng người.
Cận tử báo nghiệp: là quả báo đến lúc lâm chung. Khi một người nào đó tuổi
cao sắp ra đi, khi họ hồi tưởng lại thấy bản thân có nghiệp thiện, nghiệp bất
thiện từ các kiếp, thậm chí ngay trong đời sống hiện tại hiền diện đến.
20
2.3 Những tác động và ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo đối với
quan niệm, thái độ sống của người Việt Nam
Những tác động và ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo đối với
quan niệm, thái độ sống của người Việt Nam được thể hiện qua:
2.3.1 Tác động đến quan niệm ứng xử nhân sinh
Ảnh hưởng của thuyết nhân quả đến nhân sinh quan người Việt được biểu
hiện qua cách đối nhân xử thế trong đời sống ngày thường: “Người làm thiện
gặp tốt, kẻ làm ác gặp dữ”. Mỗi người dân Việt Nam luôn đồng cảm với nỗi đau
của người khác và sẵn sàng: “nhường cơm sẻ áo” cho nhau với tinh thần “lá
lành đùm lá rách”. Tư tưởng thương người như thể thương thân được nhân dân
giữ gìn và truyền lại cho nhiều thế hệ sau. Ngoài ra tinh thần nhân văn hướng
thiện trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta, cùng với tấm long vị tha,
khoan dung nhân hậu làm cho con người Việt Nam trở nên gần gũi, đất nước
Việt Nam thân thiện.

2.3.2. Thể hiện qua phong tục tín ngưỡng
* Ảnh hưởng qua tục phóng sanh, bố thí.
Hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của nếp sống văn hóa
này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo, tục lệ phóng sinh và bố thí
đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân. Đến ngày rằm và mùng một,
người Việt thường mua chim cá… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng sinh.
Trong nhân quả ba đời của Phật có răn rằng: “Kiếp trước mở chuồng phóng sinh
thả chim, đời nay đông con nhiều cháu”, hay là “Kiếp trước hay phóng sinh thả
cá, đời nay sống lâu”. Cái quan niệm về nhân quả trong đạo Phật này đã in sâu
vào trong tiềm thức của mỗi một con người, chính vì thế mà người ta dù theo
Phật hay không theo Phật cũng đều hướng tâm tới việc yêu thương muôn loài.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lễ bố thí luôn hiện hữu
trong đời sống tinh thần của người Việt. Người dân cũng thích làm phước, bố thí
và sẵn sang giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn. Bởi lẽ, người ta quan niệm rằng
21
việc gì cũng có cái nhân quả của nó, giúp đỡ kẻ khó ăn mày là tu nhân tích đức
cho con cháu về sau. Phật dạy: “Kiếp trước cơm gạo bố thí người nghèo, đời
nay có ăn, có mặc”. Chính vì quan niệm nhân quả này mà người ta cũng hướng
tới cái việc thiện nhiều hơn. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại ngày nay thì những
biểu hiện mang tính chất hình thức này ngày càng bị thu hẹp. Thay vào đó người
ta tham gia vào những đợt cứu trợ đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh
sống khó khăn đúng với truyền thống đạo lí của dân tộc:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
• Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trăng mặt trời thông suốt nhau, cho nên tổ tiên, thần thánh có
thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với
các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các vị
tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bồ tát và ngày sám hối, người tín đồ

về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm.
Theo quan niệm của Phật giáo và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của thuyết nhân
quả, thì những người con dân dù theo Phật hay không theo Phật thì người ta vẫn
luôn có niềm tin rằng làm việc thiện sẽ gặp điều thiện, làm việc ác sẽ gặp điều
ác. Chính vì thế mà khi những người không may khi mắc phải những sai lầm thì
người ta sẽ về chùa để sám hối, sửa đổi nhân tâm. Những quan điểm này xuất
phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa.
Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm mùng một, người ta cũng
sắm đèn nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên ông bà, thể hiện
lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và thể hiện hành vi tu tâm dưỡng
tính của họ.
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn đã trở thành một nét
phong tục lâu đời của tổ tiên. Đi chùa lễ Phật vào những ngày lễ hội lớn trong
22
năm bắt đầu từ Phật giáo như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ tắm Phật… thực sự đã
trở thành ngày hội văn hóa của người dân. Những ngày lễ lớn như trên của Phật
giáo đã là chất keo gắn người dân với nhau, ảnh hưởng ngày càng sâu đậm trong
nhân dân.
Có thể nói phong tục tập quán ở Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát
triển đã chịu tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc,
trong đó Phật giáo chiếm một phần quan trọng trong việc định hình và duy trì
một số tập tục dân gian vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên không phải
tất cả các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo đều là tốt cả mà trong đó có
những tập tục phải chắt lọc lại như tục xin xăm bói quẻ, cúng sao hạn, coi ngày
giờ, đốt vàng mã để phù hợp với chính pháp. Đó là nhiệm vụ cũng như trách
nhiệm của những nhà truyền giáo.
2.3.3 Thể hiện qua đời sống, lời ăn tiếng nói hàng ngày
Đạo Phật đã đến với Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên. Do vậy,
những tư tưởng, triết lý Phật giáo đã có những ảnh hưởng hết sức to lớn đến đời
sống văn hóa dân tộc Việt Nam. Giáo lý nhân quả của Đạo Phật có những ảnh

hưởng rất sâu đậm vào đất nước và con người Việt Nam trên nhiều phương diện
khác nhau. Giáo lý ấy đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với
mọi người Việt Nam. Mọi người dù là những tín đồ Phật giáo hay đơn thuần chỉ
là những người ngoài cuộc, nhưng khi nói đến nhân quả dường như tất cả đều
tin tưởng và chấp nhận. Điều đó đã được thể hiện rõ nét qua lời ăn tiếng nói của
mọi người dân Việt.
Trong cuộc sống xã hội ngày càng phát triển như hiện nay, đời sống ngày
càng nâng cao thì lời ăn tiếng nói là một sức mạnh vô song. Ta thấy có người khi
nói dù chỉ một lời nói ai nghe cũng ưa, cũng thương mến, có cảm tình, tin tưởng
và cũng đều nghe là làm theo. Cũng có người khi nói làm cho người nghe khó
chịu, bực bội. Do vậy lời ăn tiếng nói hàng ngày mang đạm tính chất của nhân
quả và nghiệp báo trong Đạo Phật. Lời ăn tiếng nói phải đúng phép để tránh
nghiệp dữ do lời nói gây ra.
23
Lời nói có tác động lợi hoăc hại, tốt hoặc xấu có thể sảy ra ngay sau tức
thì, cũng có thể để lại hậu quả cho sau này hoặc kiếp sau. Lời nói có thể là
nghiệp lành nếu lời nói gây ra những hậu quả tốt làm lợi cho người khác hoặc
cho cộng đồng. Lời nói có thể là nghiệp ác nếu lời nói gây ra những hậu quả xấu
làm hại cho người khác hoặc làm hại cho cộng đồng.
Lời nói được thể hiện trong các quan hệ giao lưu giữa gia đình, bạn bè,
hàng xóm, láng giềng, quan hệ làm ăn, buôn bán, quan hệ chủ tớ, quan hệ giao
lưu với các tổ chức, đoàn thể chính quyền… Trong quan hệ đó, có khi chỉ cần
một lời nói mà làm hỏng việc lớn, có khi chỉ cần một câu nói mà bị vạ lây, bị
kiện tụng, thậm chí là bị tù tội chỉ vì người nghe không vừa tai, nên đặt điều vu
cáo. Tai họa xảy ra thường là do lời nói gây lên tác hại.
Trong quan hệ gia đình : Người con không được ăn nói hỗn láo với cha
mẹ, không được nặng lời, đôc ác với cha mẹ. Đạo lý làm con phải phụng dưỡng
cha mẹ không chỉ hành động chăm sóc đời sống mà cả lời ăn tiếng nói hàng
ngày cũng tuân theo đạo lý làm con. Trong xã hội Việt nam hiện nay, cuộc sống
theo cơ chế thị trường, đời sống con người ngày được nâng cao và lối sống vô

tâm, ích kỷ của giới trẻ. Người con ngày nay quan tâm đến cha mẹ ít hơn. Nhiều
vấn đề xã hội nảy sinh như nghiện hút, trộm cướp, ăn chơi đua đòi, ảnh hưởng
bởi thói hư tật xấu … Do vậy lời ăn tiếng nói của họ đã làm tổn thương tình cảm
trong lòng cha mẹ, thậm chí còn có những thái độ đuổi bố mẹ ra khỏi nhà, đánh
đập bố mẹ với những lời nói độc ác, cay đắng. Họ quên mất rằng những lời nói,
những hành động đó đã tạo cho họ quả báo từ chính những người con của họ sau
này và đã tạo ra cho họ một nghiệp ác rất sâu nặng, một tội ác lớn nhất trong
cuộc đời người. Cha mẹ là những người sinh thành ra ta, mất bao công sức chăm
lo, dạy bảo chúng ta nên người, công ơn đó không bao giờ trả hết. Tội bất hiếu
mà trong nhiều kinh Phật đã nói: đó là tội đọa vào địa ngục Vô gián địa ngục A
Tỳ nghìn đời, nghìn kiếp.
Con người sống với nhau thường nói lời dối trá lẫn nhau, làm tổn thương
nhau và gây hậu quả nghiêm trọng. Luật nhân quả và nghiệp báo đã phản ánh
24
sâu sắc trong những lời nói dối. Có nhiều loại nói dối : Nói dối vì đùa vui, nói
dối với mục đích lừa phỉnh, nói dối để khoe khoang , nói dối vì sợ hãi khiếp
nhược, nói dối để thu lợi bất chính…
Tùy theo mục đích của nói dối mà tạo ra nghiệp tôi nặng nhẹ khác nhau.
Những trường hợp nói dối với mục đích cứu khổ, độ sinh, giải cứu nguy nan
tính mạng cho chúng sinh cho người và vật thì mới không phạm tội.
Người hay nói dối không ác ý mà chỉ có tính đùa vui gây ra nghiệp quả
không tốt vì nó làm cho họ quen với thói xấu ấy làm cho những người xung
quanh không tin ở lời nói của họ nữa dù đôi khi họ nói thật. Người hay nói dối
chỉ là đùa vui cũng tạo ra nghiệp ác
Người nói dối vì sợ hãi khiếp nhược thường là người thiếu bản lĩnh, không có
chí khí, thiếu nghị lực, họ thường làm cho họ quen tính che giấu tội lỗi và không chịu
sửa chữa, làm cho người xung quanh không tôn trọng và tin tưởng.
Người nói dối vì khoe khoang thường là kẻ ham danh, thích địa vị, thích
mọi người nể phục mình, cho mình là thông minh tài giỏi hơn người .
Người nói dối vì vụ lợi thường là kẻ tham lam, thích tiền tài, ham giàu

một cách không chính đáng, làm giàu không bằng sức lao động và tài năng trí óc
của mình. Họ ham lợi chỉ vì lợi nhuận mà mắc tội nói dối tội lừa lọc.
Mỗi lời nói của chúng ta nói ra là một kết quả mà chúng ta nhận được.nếu
chúng ta luôn nói đúng, giữ đúng lời nói và làm những gì mình nói thì chúng ta
đã đạt được một kết quả cao chính đáng với sức lao động của mình. Luôn tôn
trọng lời nói của cha mẹ, và mọi người xung quanh thì sẽ tạo cho ta một cuộc
sống yên vui và hạnh phúc và được mọi người kính nể.
Lời nói khi được nói ra thì cần phải có trách nhiệm. Trong cuộc sống
ngoài những lời nói trong quan hệ ngoại giao bình thường giữa con người với
con người, còn có những lời nói của những người có trách nhiệm vơi vận mệnh
của một cá nhân một tập thể, một địa vị, hoặc với cả một đất nước. Những lời
nói của những người như thế phải có chính pháp mới đạt được thành tựu mong
25

×