Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Khai thác, xây dựng và sử dụng bài tập chương sóng ánh sáng vật lý 12 theo hướng củng cố, hệ thống hóa kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên giáo dục thường xuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.34 KB, 74 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo
sau đại học, khoa vật lý trường ĐH Vinh - ĐH Sài Gòn đã tận tình hướng dẫn,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khóa học.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
hướng dẫn, PGS. TS Lê Phước Lượng.
Xin chân thành cảm ơn PGS. TS Phạm Thị Phú cùng các thầy cô trong
Khoa Vật lý đã có sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến quí báu cho đề tài.
Chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, thầy cô giáo và các em học viên TT.
GDTX quận Tân Phú đã giúp đỡ tôi trong khi thực nghiệm sư phạm.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, đồng nghiệp đã
dành nhiều sự giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu
và hoàn thành đề tài này.
Tác giả
Nguyễn Chí Trung
Trang 70
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức
và bồi dưỡng năng lực tự học thông qua hoạt động giải bài tập vật lý 4
1.1 Năng lực tự học 4
1.1.1 Năng lực 4
1.1.2. Tự học 4
1.1.3 Năng lực tự học 7
1.1.4 Vai trò của năng lực tự học trong việc phát triển tư duy của học viên 7
1.2 Bài tập vật lý 8
1.2.1 Khái niệm bài tập vật lý 8
1.2.2 Phân loại các bài tập vật lý 9
1.2.3. Các bước chung để giải bài tập vật lý 11
1.3 Vai trò của bài tập vật lý trong việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức 13


1.3.1 Vai trò của việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức trong dạy học vật lý 13
1.3.2 Vai trò của bài tập vật lý trong việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức 14
1.4 Vai trò của bài tập vật lý trong việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên
15
1.4.1 Các kỹ năng cần rèn luyện trong quá trình tự học của học viên giáo dục
thường xuyên 15
1.4.2 Phương pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên giáo dục thường xuyên
thông qua hoạt động giải bài tập vật lý 17
1.4.3 Vai trò của bài tập vật lý trong việc rèn luyện các kỹ năng tự học của học viên
giáo dục thường xuyên 22
1.5 Tăng cường sử dụng bài tập vật lý theo hướng củng cố, hệ thống hóa kiến thức
và bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên giáo dục thường xuyên 23
1.5.1 Trong bước đặt vấn đề 23
1.5.2 Trong hình thành kiến thức mới 23
1.5.3 Trong bước củng cố, hệ thống hóa kiến thức 23
1.5.4 Trong bài tập về nhà 23
Trang 71
1.5.5 Trong Kiểm tra-Đánh giá 24
Kết luận chương 1 25
Chương 2. Khai thác, xây dựng và sử dụng bài tập theo hướng củng cố, hệ
thống hóa kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự học trong dạy học chương “Sóng ánh
sáng” - Vật lý 12 26
2.1 Đặc điểm của chương “Sóng ánh sáng” 26
2.1.1 Vai trò và vị trí chương “Sóng ánh sáng” 26
2.1.2 Mục tiêu, nội dung dạy học chương “Sóng ánh sáng” 27
2.1.3 Cấu trúc logic chương “Sóng ánh sáng” 28
2.2 Thực trạng dạy học chương “Sóng ánh sáng” - Vật lý 12 28
2.2.1 Những thuận lợi và khó khăn của giáo viên và học sinh khi dạy và học chương
“Sóng ánh sáng” 28
2.2.1.1 Thuận lợi 28

2.2.1.2 Khó khăn 29
2.2.2 Thực trạng việc sử dụng các bài tập trong dạy học chương “Sóng ánh sáng”
của giáo viên hiện nay 29
2.3 Khai thác, xây dựng bài tập chương “Sóng ánh sáng” theo hướng củng cố,
hệ thống hóa kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên 30
2.3.1 Mục tiêu 30
2.3.2 Một số yêu cầu khi soạn thảo bài tập 30
2.3.3 Các nguyên tắc chung khi xây dựng các bài tập 30
2.3.4 Phương pháp soạn thảo bài tập 31
2.4 Phân loại bài tập chương “Sóng ánh sáng” 31
2.5 Một số giáo án dạy học chương “Sóng ánh sáng” 41
2.5.1 Giáo án 1 41
2.5.2 Giáo án 2 47
2.5.3 Giáo án 3 53
Kết luận chương 2 59
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm 60
3.1 Mục đích 60
3.2 Nhiệm vụ 60
3.3 Đối tượng 60

Trang 72
3.4 Phương pháp 60
3.5 Tiến hành thực nghiệm sư phạm 61
3.6 Đánh giá thực nghiệm sư phạm 61
3.6.1 Đánh giá định tính 61
3.6.2 Đánh giá định lượng 62
3.6.3 Kiểm định giả thuyết thống kê 65
Kết luận chương 3 68
KẾT LUẬN CHUNG 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

PHỤ LỤC
Trang 73
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước hết
sức quan tâm. Đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học nói riêng là
một trong những yêu cầu bức thiết của toàn xã hội đối với ngành giáo dục nước ta hiện
nay.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo đã khẳng định:
“phải đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học ”. Từ định hướng chiến lược này, trong
những năm qua ngành giáo dục đã có những chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, quản
lý, tạo ra những chuyển biến và mang lại kết quả nhất định. Cho đến nay nhiều văn bản
chỉ đạo mới của Đảng, Chính phủ và Bộ Giáo dục - Đào tạo vẫn tiếp tục khẳng định lại
định hướng đó.
Luật Giáo dục (năm 2005) tiếp tục chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh ”
Thực trạng sử dụng bài tập vật lý trong dạy học vật lý ở trường phổ thông, đặc biệt
là đối tượng học viên ở các trung tâm giáo dục thường xuyên là: đa số giáo viên sử dụng
các bài tập vật lý nhìn từ góc độ lý luận và phương pháp dạy học vật lý còn nhiều bất cập,
rập khuôn theo sách giáo khoa; vì thế hiệu quả học tập của học viên chưa cao, không phát
huy được vai trò rèn luyện kỹ năng phân tích, giải bài tập và bồi dưỡng năng lực tự học
của học sinh.
Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Khai thác, xây dựng
và sử dụng bài tập chương “Sóng ánh sáng” - Vật lý 12 theo hướng củng cố, hệ

thống hóa kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên giáo dục thường
xuyên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trang 74
Khai thác, xây dựng và sử dụng các bài tập vật lý chương “Sóng ánh sáng” - vật lý
12 nhằm giúp học viên giáo dục thường xuyên củng cố, hệ thống hóa kiến thức và bồi
dưỡng năng lực tự học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng:
- Quá trình dạy học vật lý ở trung tâm giáo dục thường xuyên;
- Các bài tập vật lý lớp 12.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: Các bài tập chương “Sóng Ánh Sáng” - Vật lý 12 ở trung
tâm giáo dục thường xuyên.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu khai thác, xây dựng và sử dụng các bài tập theo hướng củng cố, hệ thống hóa
kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự học đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học, sư phạm
theo đề xuất thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học vật lý ở Trung tâm GDTX.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu thực trạng sử dụng bài tập trong dạy học vật lý nói chung và
chương “Sóng Ánh Sáng” – Vật lý 12 ở Trung tâm giáo dục thường xuyên nói riêng;
5.2 Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc dạy học các bài tập vật lý;
5.3 Nghiên cứu mục tiêu, nội dung kiến thức, kỹ năng chương “Sóng Ánh Sáng” -
Vật lý 12;
5.4 Khai thác, xây dựng các bài tập vật lý chương “Sóng Ánh Sáng” - Vật lý 12 và
xây dựng các phương án giảng dạy với các bài tập này;
5.5 Soạn thảo tiến trình dạy học một số kiến thức chương " Sóng ánh sáng " - Vật
lý lớp 12 theo hướng củng cố, hệ thống hóa kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự học;
5.6 Thực nghiệm sư phạm nhằm xác định mức độ phù hợp, tính khả thi và tính hiệu
quả của các giáo án đã xây dựng với các bài tập theo hướng củng cố, hệ thống hóa kiến
thức và bồi dưỡng năng lực tự học (tại Trung tâm giáo dục thường xuyên Tân Phú).

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ GD&ĐT về đổi
mới và nâng cao chất lượng dạy học;
Trang 75
- Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập, các tài liệu
khác để phân tích cấu trúc logic, nội dung của các kiến thức dạy học chương “Sóng ánh
sáng” - Vật lý 12;
- Nghiên cứu các loại bài tập vật lý và các phương pháp giải của chúng.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
- Điều tra thực trạng sử dụng bài tập trong dạy học chương “Sóng ánh sáng” - Vật
lý 12;
- Khai thác, xây dựng các bài tập theo hướng nói trên và phương án giảng dạy với
các bài tập này của chương “Sóng Ánh Sáng” - Vật lý 12;
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra giả thuyết khoa học của đề tài;
- Xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm bằng phương pháp thống kê toán học.
7. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Về lý luận: Góp phần làm sáng tỏ thêm khả năng khai thác, xây dựng và sử dụng
các bài tập vật lý theo hướng củng cố, hệ thống hóa kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự
học cho học viên ở các Trung tâm giáo dục thường xuyên.
- Về thực tiễn: Xây dựng được một số bài tập nhằm giúp học viên củng cố, hệ
thống hóa kiến thức và bồi dưỡng năng lực tự học.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CỦNG CỐ, HỆ THỐNG
HOÁ KIẾN THỨC VÀ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÝ
1.1 Năng lực tự học
1.1.1 Năng lực
- Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức.

- Năng lực là những khả năng và kỹ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải
quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội …và khả năng
vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những
tình huống linh hoạt “ (WEINERT 2001)
1.1.2 Tự học
Khái niệm về tự học (Self Directed Learning – SDL) bắt nguồn từ việc giáo dục cho
người trưởng thành, là một giải pháp thực hiện bởi học viên người lớn ở tiểu học và trung
Trang 76
học. Hiện nay, việc định nghĩa về tự học đã có nhiều thay đổi nhưng tựu trung lại có một
số quan điểm sau: Theo Bolhuis và Garrison thì “Tự học là sự tích hợp của việc tự quản lí
với tự kiểm soát của người học, đó là quá trình mà người học tự theo dõi, đánh giá và
điều chỉnh chiến lược nhận thức của mình. Người học là chủ thể trong sự hợp tác chặt
chẽ của GV và các bạn học cùng lớp”.
Tác giả GS. Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng với các phẩm chất của mình, rồi cả
động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết
mới nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá
nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính bản thân người học tiến hành
ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã
được qui định”.
Nguyễn Kỳ viết “Tự học nghĩa là người học tích cực chủ động tự mình tìm ra bằng
hành động của mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, học bạn, học thầy và học
mọi người. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của người tự nghiên cứu,
xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình để nhận biết vấn đề, thu thập
xử lí thông tin cũ, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, thử nghiệm các giải
pháp…”.
Như vậy có thể hiểu, tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ
xảo…, kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người nói chung và của chính bản thân người học.
Đó là hoạt động nhận thức mang tính tích cực, chủ động, tự giác, phát huy cao độ vai trò

của người học với sự hợp tác của thầy cô, bạn bè và các điều kiện học tập.
Có nhiều cách tự học khác nhau như :
- Tự học giáp mặt: Những hoạt động học như nghe giảng, ghi chép bài, thảo luận
nhóm, làm việc với sách, làm thí nghiệm, quan sát…của HV, được HV thực hiện một
cách chủ động, tích cực thì đều được gọi là hoạt động tự học, hoạt động này diễn ra ngay
trong quá trình dạy học với sự điều khiển trực tiếp của GV đứng lớp nên gọi là tự học
giáp mặt.
- Tự học không giáp mặt: Đó là sự tự học không có sự điều khiển trực tiếp của GV
mà do HV tự mình độc lập tiến hành với sự hỗ trợ của các phương tiện học tập để tự
Trang 77
mình chiếm lĩnh tri thức và tự mình đạt được các mục đích, nhiệm vụ học tập. Tự học
loại này có thể tồn tại ở ba mức:
+ Tự học mức cao: Người học tự học qua sách, qua các phương tiện thông tin.
Người học tự học tập một cách độc lập hoàn toàn.
+ Tự học với sự hướng dẫn (hay điều khiển từ xa): Người học có sách giáo khoa, có
các tài liệu hướng dẫn học tập hay có sự hướng dẫn thông qua các phương tiện thông tin
như băng ghi hình, ghi tiếng, ti-vi, mạng, các phần mềm dạy học…Sự hướng dẫn tự học
chủ yếu là sự hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh tri thức, hướng dẫn phương pháp
học tập, hướng dẫn tra cứu, hướng dẫn thí nghiệm. Dưới sự hướng dẫn từ xa ấy, người
học tự mình tiến hành các hành động học tập để hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Hiện
nay hình thức tự học này rất được khuyến khích nhưng chất lượng của nó là vấn đề cần
quan tâm.
+ Tự học có sự hướng dẫn trên lớp của thầy: HV nhận nhiệm vụ và tự học ở nhà để
tự mình hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Có thể gọi hình thức này là tự học có hướng
dẫn hay tự học sau giờ lên lớp. Đối với người học nói chung và đối với HV nói riêng thì
tự học có vai trò rất quan trọng, tự học là chìa khóa tiến vào thế kỉ XXI, một thế kỉ với
quan niệm học suốt đời, xã hội học tập. Tự học là phương châm cơ bản, là mục tiêu chiến
lược của giáo dục Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung:
- Tự học đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng kiến thức và hiệu
quả học tập Khi tự học, người học phải vận dụng các năng lực trí tuệ tới mức tối đa để tự

mình giải quyết vấn đề. Điều này đòi hỏi người học tự tìm tòi, đào sâu suy nghĩ, động
não…từ đó tạo điều kiện cho việc thấu hiểu kiến thức sâu sắc hơn. Lê-nin đã viết:
“Không có sự lao động tự lực thì không thể tìm thấy chân lí trong bất kì vấn đề hệ trọng
nào và ai sợ tốn công sức thì không sao tìm ra sự thật được”.
- Tự học là nội lực của người học, đóng vai trò cốt lõi của hoạt động học. Như đã
nói, kết quả của tự học bao giờ cũng là sự chiếm lĩnh kiến thức, biến kiến thức chung của
nhân loại thành kiến thức riêng của mình. Người biết tự học là người có khả năng thu
thập và xử lí thông tin, biết vận dụng thông tin và biết tự kiểm tra, đánh giá hoạt động
học tập của mình.Vì thế, người biết tự học là người có khả năng tự giải quyết vấn đề tốt,
có khả năng tự làm giàu kiến thức cho mình.
- Tự học góp phần rèn luyện kĩ năng, cách học. Khi tự học, các thao tác tư duy và
thao tác chân tay được lặp đi lặp lại nhiều lần góp phần hình thành kĩ năng, phương pháp
Trang 78
học cho người học. Tự học là cốt lõi của cách học. Bác Hồ đã từng nói: “Về cách học
phải lấy tự học làm cốt”.
- Tự học có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tư duy. Khi tự học, người học
phải sử dụng các thao tác tư duy để giải quyết vấn đề, vì thế tư duy được rèn luyện một
cách thường xuyên. Các nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao cùng với lượng kiến thức, kĩ
năng, năng lực thu được ngày càng nhiều sẽ góp phần nâng cao dần khả năng tư duy của
HV.
- Tự học có vai trò to lớn trong sự sinh tồn của mỗi người. Ngày nay nguồn cung
cấp thông tin rất đa dạng và phong phú, từ sách, mạng internet, băng, đĩa CD… nên nếu
có kĩ năng tự học tốt thì sẽ tận dụng được nguồn thông tin phong phú, đa dạng đó trong
việc thu nhận khiến thức cho mỗi cá nhân. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện
nay, tự học có vai trò quan trong hơn bao giờ hết, tự học là điều kiện quyết định sự thành
công của mỗi người. Một triết gia đã từng nói: “Anh đang tư duy nghĩa là anh đang tồn
tại”. Vì thế con người muốn tồn tại đúng nghĩa thì phải tự học, tự học là tự cứu lấy mình.
- Trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy trong giáo dục thì vai trò của
người học đã có sự thay đổi, họ trở thành người giữ vai trò trung tâm, là chủ thể tích cực
chủ động sáng tạo của quá trình học tập. Bên cạnh việc học ở lớp dưới sự hướng dẫn của

giáo viên thì người học còn phải tự nghiên cứu, tự tìm hiểu khám phá để lĩnh hội tri thức.
Không những thế, về mặt tâm lý học cũng cho thấy việc tự học sẽ làm cho người học
phát huy được hết nội lực đem lại hiệu quả hơn trong quá trình học tập
- Tự học không những giúp học sinh không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả
học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mà còn trang bị cho các em năng lực, hứng thú,
thói quen, có phương pháp tự học thường xuyên và suốt đời. Qua đó giúp các em rèn
luyện đức tính tự lập, ít phụ thuộc vào người khác đặc biệt là thầy cô ở trường. Từ đó
chất lượng học tập của các em sẽ được đánh giá thực chất hơn. Có thể nói kinh nghiệm tự
học của các em thường do người lớn truyền lại, do nhận biết được trong quan hệ giữa
giáo viên và học sinh hoặc do thể nghiệm của bản thân, do tiếp thu qua sách, báo Kinh
nghiệm tuy không có tính chất hệ thống, đôi khi còn thiếu tính chính xác, nhưng vẫn là
cơ sở, điều kiện rất cần thiết cho mọi hoạt động của các em. Kinh nghiệm càng phong
phú thì hoạt động càng dễ dàng đạt được hiệu quả cao.
1.1.3 Năng lực tự học
Trang 79
- Năng lực tự học là thuộc tính riêng lẻ của mỗi cá nhân người học, nhờ được thuộc
tính này mà con người hoàn thành tốt đẹp một hoạt động nào đó, mặc dù bỏ ra ít sức lao
động mà vẫn đạt hiệu quả cao.
- Năng lực tự học là khả năng mỗi cá nhân tự hoàn thiện thông qua rèn luyện , trang
bị, bổ sung kiến thức cho mình thông qua bằng nhiều hình thức phương tiện.
- Năng lực tự học môn vật lý của học sinh thể hiện ở chỗ bản thân mỗi học sinh biết
tự quan sát phân tích, biết dự đoán, kiểm chứng ….trên cơ sở đó rút ra kết luận, hình
thành định luật vật lí. Đồng thời tự hoàn thiện kiến thức học tại lớp, vận dụng để giải
thích được hiện tượng vật lý trong thực tế, cũng như giải các bài tập theo yêu cầu của
chương trình, bên cạnh đó còn biết đề xuất những vấn đề vương mắc trong học tập, cũng
như một số hiện tượng vật lý thường gặp trong thực tế.
- Năng lực tự học của học sinh còn thể hiện ở chỗ tự kiểm tra những kiến thức kỹ
năng của mình, thông qua đó các em tự bổ sung những kiến thức còn thiếu.
1.1.4 Vai trò của năng lực tự học trong việc phát triển tư duy của học viên
1.1.4.1 Phát huy năng lực của học chính là phát huy nội lực của học

- Để có được kiến thức học viên phải trải qua học tập : Học ở trường, học ở lớp, học
ở nhà, học ở bạn bè, học ờ mọi người… Nhưng kiến thức ấy chưa trở thành tài sản riêng
của học viên. Ở TT. GDTX các kiến thức vật lý học chủ yếu ở giờ trên lớp, qua việc học
tập học viên tích luỹ dần kiến thức cũng như kỹ năng cơ bản,biến kiến thức đã học thành
của riêng cho mình để vận dụng và giải quyết một số vấn đề có liên quan trong quá trình
khám phá ra kiến thức mới,hoặc giải quyết những vấn đề nâng cao. Để có được điều đó
học viên phải có phẩm chất năng tự học.
- Trong thực tế việc học của học viên hiện nay chủ yếu là do ngoại lực tác động
vào đó là: của gia đình, của xã hội của, của bạn bè …. Do đó học viên có tư tưởng trông
chờ ỷ lại, học viên không tự mình làm hoặc không muốn làm chỉ nhờ vào sự truyền thụ
của GV “thầy làm sẵn ” Điều đó thường gặp trong thực tế nếu giao bài tập hơi khác so
với bài thầy đã làm, học viên thường lúng túng không tự mình tìm ra hướng giải,hoặc
cách gải, hoặc học tự mình không thể tiến hành.
- Để khắc phục vấn đề trên thì phải phát huy nội lực của học viên là khâu then
chốt quyết định hiệu quả học tập của học viên . Do đó phát huy nội lực của học viên có ý
nghĩa rất quan trọng giúp học tự chiếm lĩnh kiến thức mới .
Trang 80
1.1.4.2 Phát huy năng lực tự học của học viên là khả năng giúp cho học viên tự
học, tự rèn, tự nâng cao vì:
Học viên sau quá trình học tập tiếp thu kiến thức trên lớp các em phải tự thấm
hiểu và vận dụng được kiến thức đã học muốn vậy đòi hỏi học viên phải tự cân đối thời
gian học tập ở trường và thời gian học tập ở nhà trên cơ sở đó các em tự rèn luyện, tự
trang bị, tự bổ sung kiến thức, kỹ năng cơ bản cần thiết. Tự đào sâu mở rộng kiến thức, tự
hệ thống tổng hợp hoá kiến thức giúp các em hiểu kỹ, hiểu sâu, nắm chắc kiến thức đã
học phục vụ hữu ích cho việc ôn tập kiểm tra. Thông qua đó hình thành cho học những
thói quen, giúp cho học viên yêu học tập và ý thức được học tập là một nhu cầu cần
thiết, từ đó tự hình thành cho các em có động cơ và thái độ học tập đúng đắn .
Tóm lại : Phát huy năng lực tự học của học không có nghĩa là khoán trắng cho học
viên, để cho học tự tìm hiểu SGK, tự vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn đề nào đó
. Song đối với người thầy phải chủ đạo cố vấn, thiết kế, xây dựng chương trình kế

hoạch, điều hành tổ chức hoạt động một cách phù hợp, giúp học viên khám phá lĩnh hội,
tiếp thu kiến thức theo một con đường và thời gian ngắn nhất.
1.2 Bài tập vật lý
1.2.1 Khái niệm bài tập vật lý
Bài tập vật lý là một yêu cầu đặt ra cho người học, được người học giải quyết dựa
trên cơ sở các lập luận lôgic, nhờ các phép tính toán, các thí nghiệm, dựa trên những kiến
thức về khái niệm, định luật và các thuyết vật lý.
Nội dung của bài tập phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Nội dung của bài tập phải gắn với tài liệu thuộc chương trình đang học.
+ Hiện tượng đang được nghiên cứu phải được áp dụng phổ biến trong thực tiển.
+ Bài tập đưa ra phải là những vấn đề gần gũi với thực tế.
+ Không những nội dung mà hình thức của bài tập cũng phải gắn với các điều kiện
thường gặp trong cuộc sống. Trong các bài tập không có sẵn dữ kiện mà phải tìm dữ kiện
cần thiết ở các sơ đồ, bản vẽ kỹ thuật, ở các sách báo tra cứu hoặc từ thí nghiệm. Bài tập
về hiện tượng vật lý trong viên hoạt hằng ngày cũng có một ý nghĩa to lớn. Bài tập vật lý
là một phương tiện để giáo dục người học. Tác dụng giáo dục của bài tập vật lý còn thể
hiện ở chỗ: chúng là phương tiện hiệu quả để rèn luyện đức tính kiên trì, vượt khó, ý chí
và nhân cách của người học. Việc giải bài tập vật lý có thể mang đến cho người học niềm
phấn khởi sáng tạo, tăng thêm sự yêu thích bộ môn, tăng cường hứng thú học tập. Bài tập
Trang 81
vật lý cũng là phương tiện kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo của
người học. Đồng thời nó cũng là công cụ giúp người học ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến
thức.
1.2.2 Phân loại các bài tập vật lý
Số lượng các bài tập Vật lí sử dụng trong thực tiễn dạy học hiện nay rất lớn, vì vậy
cần có sự phân loại sao cho có tính tương dối thống nhất về mặt lí luận cũng như thực
tiễn cho phép người giáo viên lựa chọn và sử dụng hợp lí các bài tập Vật lí trong dạy học.
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng mà ta có nhiều cách phân loại bài tập vật lý khác
nhau: Phân loại theo mục đích, phân loại theo nội dung, phân loại theo cách giải, phân
loại theo mức độ khó dễ.

1.2.2.1 Phân loại theo nội dung
Có thể chia làm hai loại:
- Bài tập có nội dung lịch sử Đó là những bài tập, những câu hỏi chứa đựng những
kiến thức có đặc điểm lịch sử, những dữ liệu về thí nghiệm, về những phát minh, sáng
chế hoặc về những câu chuyện có tính chất lịch sử.
- Bài tập có nội dung cụ thể và trừu tượng Bài tập có nội dung cụ thể là bài tập trong
đó dữ liệu của đầu bài là cụ thể và người học có thể tự giải chúng dựa vào vốn kiến thức
cơ bản đã có. Ưu điểm chính của bài tập cụ thể là tính trực quan cao và gắn vào đời sống.
Bài tập có nội dung trừu tượng là những bài tập mà dữ liệu đã cho là không cụ thể, nét
nổi bật của bài tập trừu tượng là bản chất vật lý được nêu bật lên, nó được tách ra không
lẫn lộn với các chi tiết không cơ bản.
- Bài tập có nội dung theo phân môn. Trong vật lý học người ta phân ra các chuyên
ngành nhỏ để nghiên cứu và bài tập cũng được xếp loại theo các phân môn.
- Bài tập có nội dung kỹ thuật tổng hợp. Đó là các bài tập mà số liệu dữ kiện gắn với
các số liệu thực tế trong các ngành kỹ thuật, công nghiệp, các bài tập này có ứng dụng
thực tế.
1.2.2.2 Phân loại theo cách giải
Có thể chia ra thành hai loại:
- Bài tập định tính: Đây là loại bài tập mà việc giải không đòi hỏi phải làm một phép
tính nào hoặc chỉ là những phép tính đơn giản có thể nhẩm được. Muốn giải bài tập này
phải dựa vào khái niệm, những định luật vật lý đã học, xây dựng những suy luận lôgic, để
xác lập mối liên hệ phụ thuộc vào bản chất giữa các đại lượng vật lý.Bài tập định tính có
Trang 82
tác dụng lớn trong việc củng cố những kiến thức đã học, giúp đào sâu hơn bản chất của
hiện tượng vật lý, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống, rèn
luyện năng lực quan sát, bồi dưỡng tư duy lôgic. Vì vậy đây là loại bài tập có giá trị cao,
ngày càng được sử dụng nhiều hơn.
- Bài tập định lượng: Là bài tập mà khi giải nó phải thực hiện một loạt các phép tính
và thường được phân ra làm hai loại: bài tập tập dượt và bài tập tổng hợp. Bài tập tập
dượt là loại bài tập tính toán đơn giản, muốn giải chỉ cần vận dụng một vài định luật, một

vài công thức, loại này giúp củng cố các kiến thức vừa học đồng thời giúp nắm kỹ hơn
kiến thức và cách vận dụng nó. Bài tập tổng hợp là loại bài tập tính toán phức tạp, muốn
giải phải vận dụng nhiều khái niệm, nhiều công thức, loại này có tác dụng đặc biệt trong
việc mở rộng, đào sâu kiến thức giữa các phần khác nhau của chương trình, đồng thời nó
giúp người học biết tự mình lựa chọn những định luật, công thức cần thiết trong các định
luật và các công thức đã học. Tóm lại: Bài tập vật lý rất đa dạng, vì thế vấn đề phân loại
được các bài tập của một phân môn là rất cần thiết để có thể học tốt phân môn đó.
1.2.2.3 Phân loại theo trình độ phát triển tư duy
Có thể phân ra thành ba bậc của quá trình nhận thức.
- Bài tập nhận biết, tái hiện, tái tạo lại Đó là những bài tập đòi hỏi người học nhận ra
được, nhớ lại được những kiến thức đã học, đã được nêu trong tài liệu. Đó là những câu
hỏi về khái niệm, về định luật, về thuyết vật lý hoặc về các ứng dụng vật lý.
- Bài tập hiểu, áp dụng Với các bài tập này thì những đại lượng đã cho có mối liên
hệ trực tiếp với đại lượng phải tìm thông qua một công thức, một phương trình nào đó mà
người học đã học. Bài tập loại này đòi hỏi người học nhận lại, nhớ lại mối liên hệ giữa
các đại lượng đã cho và các đại lượng phải tìm. Tiến trình luận giải ở dây đơn giản chỉ là
một phương trình một ẩn số hoặc là giải thích một tính chất nào đó dựa vào đặc điểm,
vào các tính chất vật lý đã học. Sử dụng giải thích một hiện tượng vật lý, rèn luyện kỹ
năng sử dụng thuật ngữ vật lý.
- Bài tập vận dụng linh hoạt Loại bài tập này được sử dụng sau khi người học đã
nghiên cứu tài liệu mới, nó có tác dụng củng cố, khắc sâu kiến thức đã lãnh hội được
đồng thời nó bổ khuyết những gì mà trong giờ nghiên cứu tài liệu mới người học còn mơ
hồ, còn hiểu sai. Với bài tập vận dụng linh hoạt đòi hỏi phải có khả năng vận dụng phối
hợp những kiến thức mới học với những kiến thức trước đó. Việc giải bài tập vận dụng
linh hoạt phải phát triển ở người học tư duy logic, tư duy phân tích tổng hợp, đồng thời
Trang 83
thấy được mối liên hệ biện chứng giữa các kiến thức đã học. Chính những bài tập vận
dụng linh hoạt là cầu nối kiến thức trong sách vở với những vấn đề trong thực tế đời sống
và trong kỹ thuật.
1.2.3 Các bước chung để giải bài tập vật lý

1.2.3.1 Hoạt động giải bài tập vật lý
Mục tiêu cần đạt tới khi giải một bài toán vật lý là tìm được câu trả lời đúng đắn,
giải đáp được vấn đề đặt ra một cách có căn cứ khoa học chặt chẽ. Quá trình giải một bài
toán thực chất là tìm hiểu điều kiện của bài toán, xem xét hiện tượng vật lý được đề cập
và dựa trên các kiến thức về vật lý, tính toán để nghĩ tới mối liên hệ có thể của cái đã cho
và cái cần tìm sao cho thấy được cái phải tìm có mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với
cái đã cho, từ đó đi đến chỉ rõ được mối liên hệ tường minh trực tiếp của cái phải tìm với
cái vơi cái đã biết nghĩa là đã tìm được lời giải đáp cho bài toán đặt ra. Hoạt động giải bài
toán vật lý có hai phần việc cơ bản quan trọng là:
+ Việc xác lập các mối liên hệ cơ bản, cụ thể dựa trên sự vận dụng kiến thức vật lý
vào điều kiện cụ thể của bài toán đã cho.
+ Sự tiếp tục luận giải, tính toán, đi từ mối liên hệ đã xác lập được đến kết quả cuối
cùng của việc giải đáp vấn đề được đặt ra trong bài toán đã cho. Sự nắm vững lời giải
một bài toán vật lý phải thể hiện ở khả năng trả lời được câu hỏi: Việc giải bài toán này
cần xác lập được mối liên hệ nào? Sự xác lập các mới liên hệ cơ bản này dựa trên sự vận
dụng kiến thức vật lý nào? Vào điều kiện cụ thể gì của bài toán? Đối với bài tập định
tính, ta không phải tính toán phức tạp nhưng vẫn cần phải có suy luận lôgic từng bước đi
để đến kết luận cuối cùng.
1.2.3.2 Phương pháp giải bài tập vật lý
Xét về tính chất của các thao tác tư duy khi giải các bài tập vật lý người ta thường
dùng hai phương pháp sau.
Phương pháp phân tích Theo phương pháp này điểm xuất phát là các đại lượng cần
tìm. Người giải phải tìm xem đại lượng chưa biết này có liên quan gì với các đại lượng
vật lý khác, và khi biết được sự liên hệ này thì biểu diễn nó thành những công thức tương
ứng, cứ làm như thế cho tới khi nào biểu diễn được hoàn toàn đại lượng cần tìm bằng
những đại lượng đã biết thì bài toán đã được giải xong.
Trang 84
Như vậy phương pháp này thực chất là đi phân tích một bài toán phức tạp thành
những bài toán đơn giản hơn rồi dựa vào những quy tắc tìm lời giải mà lần lược giải các
bài tập này, từ đó đi đến lời giải cho bài toán phức tạp trên.

Phương pháp tổng hợp Theo phương pháp này suy luận không bắt đầu từ đại lượng
cần tìm mà bắt đầu từ các đại lượng đã biết, có nêu trong đề bài. Dùng công thức liên hệ
các đại lượng này với các đại lượng đã biết, ta đi dần đến công thức cuối cùng.
Nhìn chung, việc giải bài tập vật lý phải dùng chung hai phương pháp phân tích và
tổng hợp. Phép giải bắt đầu bằng phân tích các điều kiện của bài toán để hiểu đề bài và
phải có sự tổng hợp kèm theo ngay để kiểm tra ngay lại mức độ đúng đắn của các sự
phân tích ấy. Muốn lập được kế hoạch giải phải đi sâu phân tích nội dung vật lý của bài
tập, tổng hợp những dữ kiện đã cho với những quy luật vật lý đã biết ta mới xây dựng
được lời giải và kết quả cuối cùng.
1.2.3.3 Các bước chung giải bài toán vật lý
Từ phân tích về thực chất hoạt động giải bài toán, ta có thể đưa ra một cách khái
quát các bước chung của tiến trình giải một bài toán vật lý và hoạt động chính trong các
bước đó là.
Bước 1: Tìm hiểu đầu bài.
- Đọc, ghi ngắn gọn các dữ liệu xuất hiện và các đại lượng phải tìm.
- Mô tả lại tình huống đã nêu trong đầu bài, vẽ hình minh họa.
- Nếu đề bài yêu cầu thì phải dùng đồ thị hoặc làm thí nghiệm để thu được các dữ
liệu cần thiết.
Bước 2: Xác lập những mối liên hệ cơ bản của các dữ liệu xuất phát và các cái phải
tìm.
- Đối chiếu các dữ liệu xuất phát và các cái phải tìm, xem xét bản chất vật lý của
những tình huống đã cho để nghĩ đến kiến thức, các định luật, các công thức có liên quan.
- Xác lập các mối liên hệ cơ bản, cụ thể của các dữ kiện xuất phát từ cái phải tìm.
- Tìm kiếm, lựa chọn các mối liên hệ tối thiểu cần thiết sao cho thấy được mối liên
hệ giữa cái phải tìm với các dữ liệu xuất phát, từ đó có thể rút ra cái cần tìm
Bước 3: Rút ra kết luận cần tìm
- Từ các mối liên hệ cần thiết đã xác lập, tiếp tục luận giải, tính toán để rút ra kết
quả cần tìm.
Bước 4: Kiểm tra xác nhận kết quả
Trang 85

Để có thể xác nhận kết quả cần tìm, cần kiểm tra lại việc giải theo một hoặc một số
cách sau đây?
- kiểm tra xem đã tính toán đúng chưa
- Kiểm tra xem thư nguyên có phù hợp hay chưa
- Kiểm tra kết quả bằng thực nghiệm xem có phù hợp hay chưa
- Giải bài toán theo các cách khác xem có giống kết quả hay không
Tuy nhiên trong nhiều bài tập, không nhất thiết phải tách bạch một cách cứng nhắc
giữa bước 2 và bước 3. Tùy từng bài toán mà ta có thể kết hợp hai bước này trong tiến
hành luận giải.
1.3 Vai trò của bài tập vật lý trong việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức
1.3.1 Vai trò của việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức trong dạy học vật lý
Trong quá trình giảng dạy, việc củng cố và hệ thống hoá kiến thức là một vấn đề rất
quan trọng, có thể là củng cố, hệ thống một kì, cả năm hoặc một chương với mục đích là:
- Trên cơ sở củng cố, hệ thống hóa kiến thức thầy vạch lại cho học viên thấy sự liên
quan logic giữa các kiến thức đã học. Thấy được những vấn đề cơ bản nổi lên trên chuỗi
các kiến thức trong chương, hoặc trong phần giáo trình. Chính vì vậy củng cố, hệ thống
hóa kiến thức không phải chỉ là nhắc lại kiến thức một cách đơn giản mà phải làm nổi rõ
vấn đề quan trọng, những điểm cần ghi nhớ hay nói cách khác ôn tập có sự nâng cao.
- Từ mục đích, yêu cầu của củng cố, hệ thống hóa kiến thức, thêm nữa thời gian quy
định cho công việc này lại rất ít cộng với tình hình thực tại của các lớp học viên, để cho
việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức có kết quả đòi hỏi phải chuẩn bị rất công phu.
1.3.2 Vai trò của bài tập vật lý trong việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức
Việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức không chỉ giúp học viên hiểu được một cách
sâu sắc và đầy đủ những kiến thức quy định trong chương trình mà còn giúp các em vận
dụng những kiến thức đó để giải quyết những nhiệm vụ của học tập và những vấn đề mà
thực tiễn đã đặt ra. Muốn đạt được diều đó, phải thường xuyên rèn luyện cho học viên
những kỹ năng, kỹ xảo vận dụng kiến thức vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng vận dụng
kiến thức trong bài tập và trong thực tiễn đời sống chính là thước do mức độ sâu sắc và
vững vàn của những kiến thức mà học viên đã thu nhận được. Bài tập vật lý với chức
năng là một phương pháp dạy học có một vị trí đặc biệt trong dạy học vật lý ở trường phổ

thông.
Trang 86
Trước hết, vật lý là một môn khoa học giúp học viên nắm dược qui luật vận động
của thế giới vật chất và bài tập vật lý giúp học viên hiểu rõ những qui luật ấy, biết phân
tích và vận dụng những qui luật ấy vào thực tiễn. Trong nhiều trường hợp mặt dù người
giáo viên có trình bày tài liệu một cách mạch lạc, hợp lôgíc, phát biểu định luật chính
xác, làm thí nghiệm đúng yêu cầu, qui tắc và có kết quả chính xác thì đó chỉ là điều kiện
cần chứ chưa đủ để học viên hiểu và nắm sâu sắc kiến thức . Chỉ thông qua việc giải các
bài tập vật lý dưới hình thức này hay hình thức khác nhằm tạo điều kiện cho học viên vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì kiến thức đó mới trở nên
sâu sắc và hoàn thiện.
Trong quá trình giải quyết các tình huống cụ thể do các bài tập vật lý đặt ra, học
viên phải sử dụng các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa ,
trừu tượng hóa …để giải quyết vấn đề, do đó tư duy của học viên có điều kiện để phát
triển. Vì vậy có thể nói bài tập vật lý là một phương tiện rất tốt để phát triển tư duy, óc
tưởng tượng, khả năng độc lập trong suy nghĩ và hành động, tính kiên trì trong việc khắc
phục những khó khăn trong cuộc sống của học viên.
Bài tập vật lý là cơ hội để giáo viên đề cập đến những kiến thức mà trong giờ học lý
thuyết chưa có điều kiện để đề cập qua đó nhằm củng cố, hệ thống hóa kiến thức cho học
viên.
Đặc biệt, để giải được các bài tập vật lý dưới hình thức trắc nghiệm khách quan
học viên ngoài việc nhớ lại các kiến thức một cách tổng hợp, chính xác ở nhiều phần,
nhiều chương, nhiều cấp học thì học viên cần phải rèn luyện cho mình tính phản ứng
nhanh trong từng tình huống cụ thể, bên cạnh đó học viên phải giải thật nhiều các dạng
bài tập khác nhau để có được kiến thức tổng hợp, chính xác và khoa học
1.4 Vai trò của bài tập vật lý trong việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên
Vai trò và tác dụng của bài tập vật lý xét về mặt phát triển tính tự lực của người học
và nhất là rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã lĩnh hội được thì vai trò của bài tập
vật lý trong quá trình học tập có một giá trị rất lớn. Bài tập vật lý được sử dụng ở nhiều
khâu trong quá trình dạy học. Ở đây tính tích cực của người học và do đó chiều sâu và độ

vững chắc của kiến thức sẽ lớn nhất khi “tình huống có vấn đề” được tạo ra, trong nhiều
trường hợp nhờ tình huống này có thể làm xuất hiện một kiểu bài tập mà trong quá trình
giải người học sẽ phát hiện lại quy luật vật lý chứ không phải tiếp thu quy luật dưới hình
thức có sẵn. Bài tập là một phương tiện hình thành các khái niệm. Bài tập là một phương
Trang 87
tiện phát triển tư duy vật lý cho người học. Việc giải bài tập làm phát triển tư duy lôgic,
sự nhanh trí. Trong quá trình tư duy có sự phân tích và tổng hợp mối liên hệ giữa các đại
lượng vật lý đặc trưng. Bài tập là một phương tiện rèn luyện kỹ năng vận dụng các kiến
thức của người học vào thực tiễn. Đối với việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp bài tập vật lý
có ý nghĩa rất lớn, những bài tập này là một trong những phương tiện thuận lợi để người
học liên hệ lý thuyết với thực hành, học tập với đời sống.
1.4.1 Các kỹ năng cần rèn luyện trong quá trình tự học của học viên giáo dục
thường xuyên
Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến hoạt động
đó. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy nhiêu loại hình kỹ năng chuyên biệt. Các
nhà nghiên cứu đã phân chia các kỹ năng tự học theo nhiều cách khác nhau. Theo nhóm
nghiên cứu ở Khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, kỹ năng tự học
có thể được phân thành 4 nhóm, đó là nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng thiết kế
(lập kế hoạch), nhóm kỹ năng thực hiện kế hoạch và nhóm kỹ năng kiểm tra, đánh giá,
rút kinh nghiệm. Tác giả Vũ Trọng Rỹ thì cho rằng kỹ năng tự học của học sinh nói
chung và của học viên GDTX nói riêng gồm 4 nhóm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực
hành, kỹ năng tổ chức, kỹ năng kiểm tra đánh giá.
Tiếp thu những quan điểm trên, chúng tôi phân chia hoạt động tự học bao gồm các
nhóm kỹ năng cơ bản sau:
Trang 88
1.4.1.1 Kỹ năng định hướng
Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ sở định
hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử dụng
nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng nhận thức đối tượng,

vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Để có được cơ sở định
hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi:
- Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với gia đình và
xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao…
- Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt qua loa
- Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản thân.
1.4.1.2 Kỹ năng lập kế hoạch học tập
Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung và
phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học tập. Trên cơ
sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức một
cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một số điểm sau:
- Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể là kế
hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế hoạch phải
được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.
- Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định được
cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó.
1.4.1.3 Kỹ năng thực hiện kế hoạch
Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần có một số kỹ
năng sau:
- Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem
truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm… Trong hoạt động này rất cần có sự
tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt.
- Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn
ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này
có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược,
tổng hợp, so sánh…
Trang 89
- Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức khoa

học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình
huống, viết bài thu hoạch…
- Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri
thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối
cùng của quá trình tiếp nhận tri thức.
1.4.1.4 Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh giá
được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình chưa
làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng tự kiểm tra, đánh
giá, học sinh cần:
- Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu hỏi, dự
kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời trước nhóm hoặc
trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục.
- Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
- Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau đó
tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm…
1.4.2 Phương pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học viên giáo dục thường
xuyên thông qua hoạt động giải bài tập vật lý
1.4.2.1 Giải pháp chung
Phát huy tiềm năng giáo dục
- Tiềm năng kiến thức :
Mỗi đơn vị kiến thức cung cấp cho học viên (Nội dung của SGK) thường ẩn chứa
nhiều tiềm năng giáo dục. Thông qua việc tiếp nhận kiến thức học viên được giáo dục về
tư tưởng, giáo dục về thế giới quan nhân viên quan duy vật biện chứng, Điều đó thể hiện
khi hình thành cho học viên những định nghĩa , định luật vật lý. Bên cạnh đó còn giáo
dục cho các em những văn hoá khoa học: Tính đúng đắn, chính xác, gọn gàng, chặt chẽ ,
xúc tích….
- Tiềm năng của học :
+ Thông thường chúng ta thường nói “để học tốt phải có tố chất tốt” ( ý nói là trí
thông minh ).

Trang 90
+ Trí thông minh là một phẩm chất tổng hợp của trí tuệ nói chung và là một phẩm
chất của trí tuệ nói riêng . Khoa học tâm lý đã chứng minh được rằng trí thông minh của
trẻ một phần là do bẩm viên nhưng cần phải thông qua môi trường giáo dục mới phát
triển tối đa khả năng sẳn có đó .
+ Cốt lõi trí thông minh là phẩm chất tư duy tích cực, độc lập sáng tạo linh hoạt
trước những vấn đề thực tiễn hay lý luận và và sự liên quan chặt chẽ của nó với trình độ
văn hoá của mỗi người.
+ Trong bản thân mỗi con người ( HV ) thường tiêm ẩn một khả năng “thiên phú”
do đó việc giảng dạy của giáo viên phải biết khai thác “kích thích” vào đúng chỗ để đánh
thức cái tiềm ẩn còn ngủ quên ấy.
Do đó trong quá trình giảng dậy vật lý giáo viên phải biết khơi dậy, kích thích được
trí tò mò, năng lực sáng tạo, lòng say mê học tập bộ môn, từ đó học viên tin tưởng vào
khả năng học tập của mình .
Tuy nhiên “trí thông minh phát triển tốt” cần phải được rèn luyện trong môi trường
giáo dục . Chắc chắn rằng, sẽ còn có học viên hạn chế bởi “tố chất” thì trong quá trình
giảng dạy người thầy phải biết động viên, khích lệ và hướng dẫn cho các em có kế hoạch
học tập, yêu cầu rèn luyện thích hợp để đạt được hiệu quả nhất định điều đó ông cha ta
đúc kết “cần cù bù khả năng”.
1.4.2.2 . Những giải pháp cụ thể
a. Đối với giáo viên
- Nắm vững toàn bộ những hệ thống kiến thức chương trình của mình giảng dạy .
Truyền thụ kiến thức một cách chính xác đầy đủ trong tiết dạy phải làm bật được trọng
tâm của bài dạy . Chú ý đào sâu và mở rộng kiến thức .
- Làm chủ được từng đơn vị kiến thức bài dạy . Sử dụng nhuần nhuyễn và linh hoạt
các phương pháp dạy học để phát huy được tính chủ động tiếp nhận kiến thức của học
viên , sử dụng đúng phương pháp đặc trưng của bộ môn, của bài học. Khơi dậy tốt ba đối
tượng học viên
- Bản thân thân của mỗi giáo viên không ngừng tự học tập tự trau dồi tay nghề .
Đồng thời là một tấm gương trong học tập để cho học viên noi theo . Nắm chắc học lực

của từng đối tượng học viên
- Về kỹ năng sư phạm: Lời nói trong quá trình giảng dạy môn vật lí giáo viên dùng
lới nói để diễn tả phân tích hiên tượng , phát biểu định luật, định nghĩa …hoặc hướng dẫn
Trang 91
học viên. Lời nói của giáo viên có tác dụng quyết định đến nhận thực của học viên do đó
lời nói phải chính xác, rành mạch gọn gàng đầy đủ. Giọng nói , nhịp điệu phải thích hợp
để lôi cuốn được người nghe
- Thí nghiệm thực hành: Đối với môn vật lý thông thường kết luận , định luật , ….
Điều rút ra từ kết quả thí nghiệm. Do đó kỹ năng hướng dẫn làm thí nghiệm của giáo
viên là hết sức quan trọng, là điều kiện cần và đủ để học viên làm thí nghiệm thành công
từ đó thuyết phục hấp dẫn cho học viên thông qua đó học hình thành kỹ năng và nắm bắt
kiến thức một cách cách chắc chắn và bền vững. Quyết định thành công của một bài lên
lớp đối với môn vật lý.
- Gieo vấn đề: Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình giảng dạy để học viên suy
nghĩ , tìm tòi và thấy có nhu cầu bức xúc cần phải giải quyết vấn đề mà người thầy đề ra,
từ đó kích thích sự ham hỏi , ham khám phá một vấn đề mới mà mình chưa biết. Đặt vấn
đề thường được dùng khi giới thiệu bài mới , chuyển ý từ các phần, hoặc từ thí nghiệm
giáo viên gieo vấn đề yêu cầu học viên phải tự giải quyết vấn đề đó.
- Sử dụng các dụng cụ phương tiện dạy học: Giáo viên phải hướng dẫn được học
viên biết sử dụng các dụng cụ dạy học , các em phải biết làm được thí nghiệm .
+ Ví dụ học phải biết mắc được mạch điện theo sơ đồ , biết các dụng cụ đo như
ampe kế, vôn kế, sử dụng thước, sử dụng cân, sử dụng bình chia độ …
+ Khi học viên tự làm thí nghiệm sẽ giúp các em nắm vững được kiến thức, đồng
thời kích thích sự tưởng tượng, hứng thú cũng như say mê trong việc nghiên cưú khoa
học.
+ Trong điều kiện hiện nay trước chương trình SGK mới nói chung đồ dùng khá
đầy đủ, đôi lúc đồ dùng giáo viên chưa được làm quen. Vậy để khai thác đồ dùng dạy
học có hiểu quả giáo viên cần phải nghiêm túc nghiên cứu đồ dùng trước, nếu làm được
như vậy thì kết quả thí nghiệm trong một giờ lên lớp sẽ đạt hiệu quả. Bên cạnh kỹ năng
làm thí nghiệm giáo viên cần trao dồi các kỹ năng khác như: xử lí các tình huống sư

phạm, xử lí các tình huống nảy viên trong giờ dạy, cách trình bày bảng
b. Đối với giờ dạy trên lớp
Muốn phát huy khả năng tự học của học viên vấn đề bài soạn của giáo viên có ý
nghĩa hết sức quan trong nó thể hiện ở chỗ:
- Định hướng việc tíêp thu kiến thức của từng đối tượng học viên : Muốn vậy giáo
viên cần phải nắm vững các đối tượng học viên trên cơ sở đó thiết kế bài giảng phù hợp.
Trang 92
Nội dung bài soạn cần phải có hệ thống câu hỏi mang tính tư duy của học viên, phù hợp
với ba đối tượng học viên trong lớp.
- Rèn luyện cho học viên các kỹ năng cần thiết như : Kỹ năng tự học , tự tìm ra kiến
thức mới và cách giải quyết kiến thức mới
- Bật rõ kiến thức trọng tâm , đào sâu mở rông kiến thức bài dạy.
- Nâng cao hiệu quả giờ dạy
c. Với học viên
Để tiếp thu kiến thức tốt trong các giờ học đòi hỏi mỗi hoc phải chuẩn bị bài ở nhà:
- Nắm vững kiến thức đã học cũng như hệ thống kiến thức đã học. Học viên cần
tiếp nhận kiến thức có hệ thống và hình thành dần những kỹ năng trong học tập bao gồm:
Phương pháp học tập bộ môn, nghiên cứu thí nghiệm, kỹ năng giải bài tập
- Nếu không nắm kiến thức cũ thì không thể tiếp nhận có hiệu quả kiến thức mới .
Để khắc phục trình trạng học viên hổng kiến thức từ các lớp dưới giáo viên cần phải khơi
lại cho học viên như: Các khái niệm vật lý, định luật vật lý,công thức vật lý, kiến thức về
toán học ….một cách thường xuyên. Trên cơ sở đó, yêu cầu học viên nghiêm túc thực
hiện theo hướng dẫn và yêu cầu của giáo viên .
- Thực chất giảng dạy vật lý trung học ở TT. GDTX là giáo viên giới thiệu thông
báo, hướng dẫn những con đường đi tìm kiến thức mới trên nền kiến thức trước đó, từ tiết
trước hoặc từ các lớp dưới mà các em đã được học…
- Vậy yêu cầu đối với học viên phải tự mình hệ thống kiến thức đã có, nắm chắc
những khái niệm, định nghĩa định luật. Có như vậy, các em mới đủ lực tự học, tự nghiên
cứu tự khám phá kiến thức mới .
- Nghiên cứu SGK: Đọc và nghiên cứu nội dung nội dung của bài học là khâu rất

quan trọng, giúp HV tự mình tìm hiểu trước nội dung cần học. Qua việc nghiên cứ trước
SGK giúp học viên có thể phát hiện được kiến thức mới đồng thới sẽ nảy viên những thắc
mắc, những vấn đề cần tìm hiểu để có yêu cầu tự giải quyết vấn đề đó.
Đọc SGK thể hiện ở hai bước: đọc ở nhà, đọc ở lớp. Khó khăn của dạng này giáo
viên không thể kiểm tra được, học viên không tự lọc ra được những vấn đề quan trọng
khi đọc, đôi khi học viên lại chú ý những thứ yếu và đi ra ngoài tầm mắt những luận đề
cơ bản. Để việc tạo điều kiện cho học viên tự đọc sách có hiểu quả, giáo viên cần đưa ra
câu hỏi, những vấn đề có liên quan đến bài học, đồng thời đưa ra câu hỏi mới phù hợp
trước khi đọc sách chứ không phải sau khi đọc. Từ đó định hướng cho học viên vấn đề
Trang 93
chủ yếu trong bài học. Như vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần tập cho học viên
nghiên cứu tư liệu và dần dần học viên đạt được kỹ năng làm việc với sách một cách
hoàn toàn độc lập chứ không còn trông chờ vào yêu cầu của giáo viên. Trên cơ sở đó học
viên tìm thấy điều căn bản trong sách phát hiện được sự tương quan giữa các đơn vị kiến
thức theo một hệ thống lôgic.
- Trong thực tế trên thị trường có rất nhiều tài liệu tham khảo cho học viên tự đọc,
các em không biết chọn tài liệu nào là phù hợp do đó giáo viên cần hướng dẫn giớ thiệu
cho học viên đọc tài liệu tham khảo nào phục vục cho việc bổ ích cho học tập tránh tình
trạng loạn sách .
d. Hướng dẫn làm việc ở nhà
Làm việc ở nhà là một trong những yếu tố cần thiết nhằm giúp cho tự củng cố, tự
đào sâu, tự mở rộng, tự khám phá kiến thức. Những công việc tự học ở nhà của học đối
với môn vật lý đó là ôn tập nắm vững kiến thức đã học ở trên lớp, hệ thống hóa kiến thức
đã học, lập bảng biểu, lập bảng báo cáo thí nghiệm cho bài sau , vận dụng kiến thức đã
học để giải bài tập do giáo viên yêu cầu, đối với học viên khá , giỏi cần phải đưa ra bài
tập khó – bài tập nâng cao. Với mỗi học viên việc học tập ở nhà còn thể hiện ở chỗ tự
làm lại thí nghiệm đã làm trên lớp, biết tìm hiểu dụng cụ làm thí nghiệm và cách tiến
hành làm cho bài sau sắp học thông qua nội dung kênh hình hướng dẫn trong sách.
Để học viên làm việc ở nhà có hiệu quả giáo viên phải có những hướng dẫn, yêu
cầu cụ thể, tránh yêu cầu chung chung, hình thức, đồng thời phải thường xuyên kiểm tra

việc học viên chuẩn bị bài ở nhà và khuyến khích kịp thời những học viên thực hiện tốt
trước lớp. Đối với học viên: Cần có kế hoạch một cách khoa học sắp xếp thời gian học
tập một cách thích hợp để học tập tốt các bộ môn khác, phân chia cụ thể thời gian nào
học môn gì? làm việc gì? tất cả việc đó thể hiện trên thời gian biểu học ở nhà của học
viên. Việc học tập ở nhà của học viên giáo viên rất khó kiểm tra theo dõi do đó cần phải
thường xuyên nhắc nhở, giao việc và kiểm tra một cách liên tục để các em hình thành
thói quen ý thức tự học tự nghiên cứu, phối hợp với giáo viên bộ môn, với phụ huynh học
viên, với cán sự lớp để theo dõi đôn đốc và có kế hoạch điều chỉnh kịp thời, uốn nắn và
xây dựng nề nếp học tập của học viên .
- Yêu cầu đối với học viên
+ Có góc học tập ở nhà
+ Có đầy đủ tài liệu , dụng cụ , phương tiện học tập.
Trang 94

×