Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Nghiên cứu tác động cuả Quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Công ty BHDK Khu vực Tây Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.5 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Cháy, nổ hàng năm gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng, làm hàng trăm người
chết và bị thương. Cháy có thể xảy ra bất cứ khi nào, ở đâu và với bất cứ ai. Con
người dù luôn có ý thức phòng cháy nhưng vẫn không thể xoá bỏ hoàn toàn nguy cơ
cháy, nổ. Hậu quả do cháy thường rất lớn, đôi khi mang tính chất thảm hoạ.
Để đối phó với cháy, nổ con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác
nhau như hạn chế sử dụng vật liệu dễ cháy , thực hiện PCCC...Tuy nhiên để đối phó
với hậu quả do cháy gây ra, bảo hiểm được coi là hữu hiệu hơn cả. Bảo hiểm cháy ra
đời từ rất sớm (thế kỷ 17) và cho đến nay nó luôn là nghiệp vụ không thể thiếu tại tất
cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trên thế giới.
Nghị định 130/2006/NĐ-CP của chính phủ ngày 8 tháng 11 năm 2006 Quy
định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ra đời đã góp phần hoàn thiện hơn nữa các văn
bản pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm. Nghị định 130/2006/NĐ-CP đã - đang và sẽ có
rất nhiều ảnh hưởng đến hoạt đồng của thị trường bảo hiểm cháy, nổ Việt Nam như
cầu về sản phẩm này sẽ gia tăng, nhu cầu về thoả mãn dịch vụ có chất lượng cao tăng,
ý thức của khách hàng về bảo hiểm thay đổi, doanh thu của các Công ty bảo hiểm phi
nhân thọ tăng...
Em lựa chọn đề tài “Nghiên cứu tác động cuả Quy định chế độ bảo hiểm
cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Công ty
BHDK Khu vực Tây Bắc” với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về nghiệp vụ bảo
hiểm cháy, về tác động của Nghị định 130/2006/NĐ-CP đến thị trường bảo hiểm Việt
Nam, và đặc biệt là đến Công ty BHDK Tây Bắc- đơn vị em thực tâp trong 4 tháng
qua. Trong quá trình nghiên cứu, em cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh
quá trình chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh thu và uy tín của BHDK Tây Bắc.
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ một chuyên đề thực tập tốt nghiệp,
trong phạm vi hoạt động của BHDK Tây Bắc.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm phương pháp thống kê,
tổng hợp phân tích, và so sánh.
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Bố cục của đề tài gồm 3 phần:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM CHÁY, NỔ.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI
CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TRIỂN KHAI TỐT NHẤT NGHIỆP
VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC
SAU NGHỊ ĐỊNH SỐ 130/2006/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ
Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới Th.s Nguyễn Ngọc Hương và các chuyên
viên tại BHDK Tây Bắc đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện.
Hà Nội, tháng 4 năm 2007.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM
BẢO HIỂM CHÁY, NỔ
1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM.
1.1.1 Lý luận chung về bảo hiểm.
Nhu cầu an toàn đối với con người là vĩnh cửu, lúc nào con người cũng tìm
cách bảo về bản thân và tài sản của mình trước những bất hạnh của số phận. Bảo
hiểm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phòng vệ chính đáng này. Qua quá trình phát
triển của bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm thương mại, chúng ta nhận thấy, ban đầu
bảo hiểm chỉ mang tính chất sơ khai, tự phát với phạm vi nhỏ hẹp. Do nhu cầu
thực tiễn, dần dần các khái niệm về bảo hiểm cũng đã được hình thành và phát
triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, có nhiều khái niệm về bảo
hiểm, nó tuỳ thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực bao gồm luật, kinh tế học,
lịch sử học, khoa học thực tế, lý thuyết rủi ro và xã hội học mà các khái niệm có
nhiều điểm khác nhau. Khái niệm về bảo hiểm, luôn bao gồm cả bảo hiểm thương
mại và bảo hiểm xã hội, bởi hai hình thức này chỉ phân biệt bởi tính thương mại

(kinh doanh rủi ro)và tính xã hội (cân bằng thu chi). Dưới đây, xin trình bày một
số định nghĩa về bảo hiểm đang được thừa nhận trên thế giới, tại các quốc gia các
nghiệp đoàn, và các công ty bảo hiểm.
Theo Uỷ ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa Kỳ
thì: "Bảo hiểm là sự tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những
rủi ro gây ra cho NBH khi họ cam kết bồi thường những tổn thất này, cung cấp các
quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan
đến rủi ro”
Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: "Bảo hiểm là sự thoả thuận qua
đó một bên (Người bảo hiểm ) hứa sẽ thanh toán cho bên kia (NĐBH hay
NTGBH) một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây tổn thất tài chính cho người bảo
hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn thất này được chuyển giao từ NTGBH
đến người bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, NBH đòi NĐBH
một khoản tiền, đó là phí bảo hiểm”
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Khái niệm được sử dụng tại một số trường đại học và thị trường bảo hiểm
Châu Á: "Bảo hiểm là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một người hay một số ít
người cho nhiều người có cùng khả năng chịu rủi ro nào đó thông qua việc tổ chức
ra một quỹ tài chính tập trung huy động từ các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm
dưới dạng phí bảo hiểm, để bồi thường hoặc bù đắp những tổn thất do những rủi
ro đó gây ra”
Khi xem xét bảo hiểm từ khía cạnh những bên liên quan khác nhau đến
hợp đồng bảo hiểm, bảo hiểm được định nghĩa như sau:
Từ phía người được bảo hiểm, bảo hiểm là tổ chức hợp lý một nhóm người
có chung một loại rủi ro có thể xảy ra. Các khoản đóng góp về tài chính của họ
cho phép bồi thường những thiệt hại mà một số người trong nhóm phải gánh chịu
khi có tổn thất. Nhờ có bảo hiểm mà tổn thất sẽ nhẹ đi nếu chia sẻ cho nhiều người
và là gánh nặng nếu một vài người phải gánh chịu tất cả.

Trên giác độ của người cung cấp dịch vụ bảo hiểm, ở đây là các doanh
nghiệp bảo hiểm, bảo hiểm là hoạt động kinh doanh mà trong đó, người bảo hiểm
sẽ chấp nhận những rủi ro đối với tài sản hoặc con người của người được bảo
hiểm trên cơ sở người được bảo hiểm thanh toán một khoản phí nhất định.
Một cách tổng quát, bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó một bên là người
đựơc bảo hiểm chấp nhận trả một khoản phí gọi là phí bảo hiểm cho chính mình
hoặc cho người thứ ba khác để trong trường hợp có rủi ro xảy ra nằm trong phạm
vi bảo hiểm sẽ được trả mọt khoản bồi thường từ người bảo hiểm, là người chịu
trách nhiệm với những rủi ro đã cam kết và đền bù thiệt hại theo luật thống kê.
Tất cả những định nghĩa khác nhau về bảo hiểm, tựu chung lại đều làm bật
lên bản chất của bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro giữa nhà bảo hiểm và người
tham gia bảo hiểm trên cơ sở một quỹ tiền tệ tập trung. Vậy rủi ro chính là một
trong những yếu tố góp phần cơ bản cho sự hình thành, ra đời và phát triển của
bảo hiểm.
Khái niệm rủi ro liên quan đến sự không chắc chắn, và rủi ro luôn được
hiểu là sự không chắc chắn liên quan đến việc xảy ra một tổn thất. Rủi ro luôn bao
gồm trong nó yếu tố không may mắn và không lường trước được, về khả năng xảy
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

ra của nó, về thời gian và không gian xảy ra, về mức độ nghiêm trọng của rủi ro và
hậu quả của nó.
Có rất nhiều nguyên nhân để xảy ra rủi ro, nhưng có thể tập hợp rủi ro vào
ba nhóm chính:
Thứ nhất là nhóm các rủi ro do thiên tai gây ra như bão, lũ lụt, hạn hán,
động đất, sét, lốc, sương muối, dịch bệnh, sóng thần...làm ảnh hưởng đến đời sống
và sức khoẻ của con người.
Thứ hai là nhóm rủi do do biến động cuả khoa học và công nghệ.
Thứ ba, là nhóm rủi ro môi trường xã hội, những rủi ro này chịu tác động
cuả nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như ốm

đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hoả hoạn....
Bất kể nguyên nhân gì, khi xảy ra rủi ro thường gây ra cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài
sản, làm ngưng trệ hoạt động sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh
nghiệp cá nhân, và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế- xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu
quả của rủi ro gây ra - đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện
pháp tài trợ rủi ro.
Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro:
Tránh né rủi ro tức là tìm ra phương thức hành động khác không có dấu
hiệu của bất cứ yếu tố nào có thể dấn tới rủi ro
Ngăn ngừa tổn thất được sử dụng để đưa ra các hành động làm giảm tổn
thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra khi không thể né tránh được dù đã
tìm mọi cách.
Nhóm biện pháp tài trợ rủi ro. Biện pháp tài trợ rủi ro gồm các biện pháp
chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. (Đây là các biện pháp phải được thực hiện trước khi
rủi ro xảy ra, nhằm mục đích giảm thiểu hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, nếu có).
+ Chấp nhận rủi ro, tức là người gặp rủi ro tự chấp nhận khoản tổn thất.
Còn gọi là tự bảo hiểm. Có hai hình thức chấp nhận rủi ro, gồm chấp nhận một
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

cách chủ động và chấp nhận thụ động. Hiệu quả của hai hình thức này không cao
do rơi vào tình huống thụ động, sử dụng không hiệu quả đồng vốn, hoặc sai lệch
trong tính toán lập quỹ dự phòng...
+Bảo hiểm: bảo hiểm ngày nay đã trở thành một lựa chọn không thể thiếu
trong hầu hết các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như các cá
nhân.Do nó khắc phục được hầu hết các nhược điểm của các biện pháp khác. Bảo
hiểm chính là sự lựa chọn tối ưu của các chương trình quản lý rủi ro. Rủi ro được

chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm sang nhà bảo hiểm. Người tham gia bảo
hiểm nhận được sự tư vấn cho các chương trình kiểm soát rủi ro và đề phòng hạn
chế tổn thất, nhận được khoản tiền bồi thường nhanh chóng, đủ, kịp thời khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra..
Ngày nay, với những lợi ích thiết thực của bảo hiểm đối với mọi thành
viên, đơn vị tham gia bảo hiểm, khái niệm bảo hiểm đã trở nên ngày một gắn bó
và gần gũi với con người, với các đơn vị sản xuất kinh doanh.
1.1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm.
Như tất cả các ngành khác, bảo hiểm ra đời do nhu cầu khách quan của đời
sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, giúp đỡ, chia sẻ hoạn nạn
khi rủi ro, tổn thất xảy ra như đã trình bày trên đây.
Bảo hiểm có nguồn gốc rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại mà
thậm chí cho đến bây giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện khi
nào. Từ thời nguyên thuỷ loài người sống bằng nghề săn bắn, họ đã biết dự trữ
những gì săn bắt được. Đến một giai đoạn phát triển hơn, trong những cộng đồng
dân cư nhỏ, hoặc trong một gia đình, nhóm gia đình đã hình thành một khối lượng
lương thực dự trữ nhất định, được dùng tương trợ lẫn nhau khi mùa màng thất bát.
Đây là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Đến thế kỷ XV, khi châu Âu thực hiện những chuyến khai phá tới Châu Á
và Châu Mỹ, mở đường cho cuộc cách mạngg thương mại, ý tưởng về thành lập
một quỹ chung để đối phó với rủi ro đã hình thành khá rõ ràng. Việc tìm ra châu
lục mới, vùng đất mới, tạo ra hoạt động thương mại giữa những nơi này phát triển
ngày một nhanh chóng. Đặc biệt là hình thức vận chuyển bằng đường biển. Theo
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368

dó, bảo hiểm, nhất là bảo hiểm hàng hải cũng phát triển theo. Bởi lẽ, những người
chủ hàng, những người bỏ vốn đầu tư vào những chuyến đi mạo hiểm đó nhận
thấy cần phải chia sẻ những rủi ro để tránh tình trạng một số nhà đầu tư bị mất
trắng khoản đầu tư của mình do những con tàu gặp nạn trên biển, hoặc bị biến mất

một cách bí ẩn. Để đáp ứng nhu cầu này, nhu cầu chia nhỏ tổn thất, người ta đã có
hai phương án. Cách thứ nhất là thành lập một liên doanh có vốn cổ phần, theo đó,
một nhóm đầu tư cùng đầu tư vào một đội thuyền chở hàng chung, cùng chia sẻ
rủi ro khi tổn thất và phân chia lợi nhuận mà liên doanh thu được (Phuơng án này
rất gần với hình thức các chủ hàng trên con đường tơ lụa nổi tiếng đã chia nhỏ
hàng hoá của mình thành hàng trăm phần nhỏ, mỗi lạc đà sẽ chở một lượng hàng
mà trong đó bao gồm nhiều phần hàng hoá của các chủ hàng khác nhau. Lạc đà
nào bị cướp, tổn thất được chia đều cho các chủ hàng, mỗi người tổn thất một
phần nhỏ trong tổng số hàng.). Cách thứ hai là bảo hiểm, theo cách này các nhà
buôn và các chủ tàu thuyền chấp nhận trả một khoản tiền nhất định cho một cá
nhân hay tổ chức, người mà đảm bảo rằng nếu hàng hoá hoặc tàu thuyền của họ bị
tổn thất do một số nguyên nhân nhất định nào đó họ sẽ được trả một khoản tiền để
bù đắp thiệt hại xảy ra.
Bảo hiểm hàng hải là lĩnh vực ra đời sớm nhất. Năm 1347, hợp đồng bảo
hiểm hàng hải đầu tiên được phát hành tại Genoa-Ý. Năm 1424, công ty bảo hiểm
đầu tiên, Marietime Insurance Company ra đời. Năm 1583, xuất hiện hợp đồng
bảo hiểm, mà cho đến nay được coi là cổ xưa nhất. Năm 1667, sau vụ cháy khủng
khiếp tại London, làm hơn 13000 ngôi nhà bị cháy, hàng nghìn người thiệt mạng
vào năm 1666, công ty bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên trên thế giới có tên “Fire
Office” hoạt động tại Anh. Sau bảo hiểm hoả hoạn là các quỹ bảo hiểm nhân thọ
cũng xuất hiện từ nhu cầu của cuộc sống, nhu cầu được chăm lo cho tương lai.
Từ cuối thế ký 19, cuộc đại cách mạng khoa học kỹ thuật trên toàn thế giới
diễn ra sôi động, mang lại nhiều thành tựu, làm xuất hiện nhiều ngành nghề kinh
doanh mới. Cùng với đó là sự gia tăng nhanh chóng các rủi ro có nguyên nhân
xuất phát từ nhóm rủi ro do biến động của khoa học công nghệ. Đây là điều kiện
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368

thuận lợi đẩy mạnh sự phát triển bảo hiểm với những sản phẩm như bảo hiểm ôtô,
máy bay, xây dựng lắp đặt...

Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm là một sự đáp ứng đòi hỏi khách quan
của cuộc sống đối với những biến động về tài chính do các sự cố bất ngờ gây ra.
Tham gia bảo hiểm tạo điều kiện khôi phục nhanh chóng thiệt hại, góp phần sớm
ổn định cuộc sống và sản xuất. Ngành bảo hiểm tại tất cả các quốc gia trên thế
giới đóng vai trò không thể thay thế trong các trung gian tài chính, góp một phần
lớn vào sự vững mạnh của thị trường tài chính và sự ổn định của nền kinh tế quốc
dân.
1.1.3 Chức năng, vai trò, tác dụng của bảo hiểm.
Mục đích của bảo hiểm: là đem lại sự an tâm, an toàn về mặt tài chính cho
người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro có thể xảy ra.
Chức năng của bảo hiểm :xây dựng quỹ tài chính an toàn, tăng trưởng ổn
định, bồi thường đúng đủ, kịp thời.
Vai trò của bảo hiểm :được biết đến một cách tổng quát nhất, như là một
công cụ an toàn thực hiện chức năng bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho xã hội.
Cụ thể:
 Đối với từng người dân: Bảo hiểm đảm bảo về mặt tài chính nhằm
khắc phục hậu quả bất ngờ khi gặp phải rủi ro liên quan đến tính mạng, tình trạng
sức khoẻ và tài sản mà họ sở hữu.
 Đối với các doanh nghiệp: Tham gia bảo hiểm là chuyển giao rủi ro,
ổn định sản xuất, nhanh chóng khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra bằng STBT.
 Đối với ngân hàng thương mại: Bảo hiểm là nhà đầu tư lớn, sử dụng
nhiều dịch vụ tín dụng, và đưa lại nhiều hợp đồng tín dụng không cần bảo lãnh
của ngân hàng.
 Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp: hỗ trợ đắc lực cho nhà nông
khôi phục sản xuất khi gặp rủi ro, thiên tai, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông
hàng hoá nông nghiệp không bị ngưng trệ gián đoạn.
 Hoạt động bảo hiểm phát triển còn góp phần cải thiện môi trường đầu
tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp tác kinh
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368


tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác hoạt động
bảo hiểm còn mang về cho kinh té quốc dân một khoản ngoại tệ đáng kể.
 Bảo hiểm là nhà tư vấn quản trị rủi ro hàng đầu trong xã hội. Doanh
nghiệp bảo hiểm vì lợi ích của bản thân, xã hội, người tham gia bảo hiểm...coi
trọng xây dựng các công trình đề phòng hạn chế tổn thất.
 Thị trường bảo hiểm:, Là một trung gian tài chính bên cạnh ngân
hàng, thị trường chứng khoán.
Tác dụng của bảo hiểm: Bảo hiểm có rất nhiều tác dụng khác nhau:
 Dàn trải tổn thất (phân tán rủi ro
 Bảo vệ: Tham gia bảo hiểm là bảo vệ cho tính mạng tình trạng sức
khoẻ và tài sản trước nguy cơ xảy ra tổn thất.
 Đề phòng hạn chế tổn thất
 Ổn định đời sống sản xuất kinh của người được bảo hiểm.
 Tạo sự an tâm về mặt tinh thần cho người tham gia bảo hiểm.
 Kích thích tiết kiệm
 Đầu tư phát triển kinh tế
 Đẩy mạnh tín dụng
 Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Với những lợi ích kể trên, bảo hiểm đã ra đời từ rất lâu và ngày càng phát triển.
1.1.4 Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm thương mại phải tuân thủ theo các nguyên tắc chung
sau đây:
Nguyên tắc 1: Phải tuân theo luật hợp đồng.
Hợp đồng là căn cứ pháp lý để giải quyết những vấn đề pháp lý về sau.Các
hợp đồng bảo hiểm nhất thiết phải là các văn bản pháp lý thể hiện những quy định
cơ bản của luật pháp.
Nguyên tắc 2: Lựa chọn rủi ro.
Nhà bảo hiểm được lựa chọn các rủi ro được bảo hiểm, chỉ rủi ro không ai
lường trước được mới được chấp nhận. Thậm chí với những rủi ro bất ngờ nhà

bảo hiểm cũng có thể từ chối bảo hiểm hay chỉ chấp nhận một hay một số rủi ro
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368

trong đó để tiến hành bảo hiểm.
Nguyên tắc 2: Nguyên tắc phân tán rủi ro.
Sau khi chấp nhận rủi ro của bên tham gia bảo hiểm, đến lượt mình, nhà
bảo hiểm cũng có thể gặp phải rủi ro và rất dễ dẫn đến tình trạng phá sản Để tránh
phá sản, đảm bảo hoạt động kinh doanh, nhà bảo hiểm phải tiến hành phân tán rủi
ro hai cách:
+ Đồng bảo hiểm
+Tái bảo hiểm
Nguyên tắc 3: Nguyên tắc có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với
người mua bảo hiểm.
Quyền lợi được bảo hiểm tức là chủ thể tham gia mua bảo hiểm phải
chứng minh được mối liên hệ đối với đối tượng được bảo hiểm. Thông thường,
quyền lợi được bảo hiểm liên quan tới tài sản, trách nhiệm, con người...
Nguyên tắc 4: Số đông bù số ít.
. Chỉ có số đông người tham gia bảo hiểm thì mới có cơ sở hình thành quỹ
bảo hiểm đủ lớn, rủi ro mới thực sự được san sẻ. …
Nguyên tắc 5: Nguyên tắc tín nhiệm tuyệt đối.
Khách hàng và nhà bảo hiểm tin tưởng tuyệt đối vào sự trung thực của hai
bên trong cung cấp thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm.
Nguyên tắc 6: Nguyên tắc bồi thường.
Được áp dụng trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản, trách nhiệm. Theo đó,
số tiền bồi thường không thể lớn hơn quyền lợi bảo hiểm mà họ có.
Nguyên tắc thế quyền:
Tránh trường hợp người gây thiệt hại không thể tiến hành bồi thường cho
người bị hại, và trường hợp số tiền bồi thường nhận được của người đựơc bảo
hiểm lớn hơn tổn thất thực tế, người ta áp dụng nguyên tắc này. Nhà bảo hiểm

được phép thế quyền (thay quyền) người được bảo hiểm đòi tổn thất thuộc phần
trách nhiệm của người gây thiệt hại.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nguyên tắc 8: Đóng góp bồi thường. Trong trường hợp, một tổn thất được
bảo hiểm bằng nhiều đơn bảo hiểm, bảo hiểm trùng, các doanh nghiệp cùng tham
gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng góp bồi thường khi tài sản bị tổn thất.
Nguyên tắc 9: Nguyên nhân trực tiếp, được hiểu là nguyên nhân đủ mạnh
và có tác dụng làm chuyển động cả một chuỗi sự kiện dẫn đến một kết quả mà
không cần có sự can thiệp cuả bất kỳ một lực nào khác phát sinh và phát huy tác
dụng từ một nguồn độc lập nào khác. Nguyên nhân trực tiếp không nhất thiết là
nguyên nhân đầu tiên hay cuối cùng, nhưng nó phải là nguyên nhân chủ yếu.
1.1.5. Phân loại bảo hiểm.:
1.1.5.1 Theo đối tượng bảo hiểm:
+Bảo hiểm xã hội.
+Bảo hiểm y tế.
+Bảo hiểm thất nghiệp.
+ Bảo hiểm thương mại.
1.1.5.2 Theo tính chất rủi ro hoặc theo luật kinh doanh bảo hiểm:
+Bảo hiểm nhân thọ
+Bảo hiểm phi nhân thọ.
(Bảo hiểm cháy nổ nằm trong mảng bảo hiểm phi nhân thọ, là loại nghiệp
vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi
nhân thọ)
.1.1.5.3 Theo kỹ thuật quản lý quỹ tài chính:
+Bảo hiểm quản lý theo kỹ thuật phân chia.
+Bảo hiểm quản lý theo kỹ thuật tồn tích.
Cách phân chia thứ hai, sử dụng phổ biến hơn cả.
1.2. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ.

1.2.1 Cháy và sự cần thiết của bảo hiểm cháy.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm cháy, tuy nhiên theo luật
PCCC hiện nay cháy được hiểu là trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được
có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi trường.( Điều 3-Luật
PCCC)
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy
lớn, nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đôla. Các vụ cháy không chỉ xảy ra ở các nước
có nền kinh tế chậm phát triển mà còn xảy ra ở các nước có nền kinh tế phát triển
như Anh, Pháp, Mỹ..nơi mà nền khoa học, công nghệ đã đạt đến đỉnh cao của sự
hiện đại và an toàn thì cháy vẫn xảy ra ngày một tăng cả về số lượng và mức độ
nghiêm trọng. Mỹ môĩ năm có khoảng 2.4 triêụ vụ cháy, làm chết trên 300
000 người và thiệt hại 1.8 tỷ đôla. Ở Viêt Nam xảy ra rất nhiều vụ cháy khác nhau,
Giá trị thiệt hại lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân cũng
như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cho đến thời điểm năm 2007, tình hình cháy nổ tại Việt Nam được thống
kê như sau:
Năm 1962-1991: Tổng số vụ cháy xảy ra là 566 036 vụ cháy, thiệt hại vật
chất 948 tỷ đồng, làm chết 2574 người, các vụ cháy lớn ngày một gia tăng.
Năm 1990: Số vụ cháy đã xảy ra là 902 vụ, làm chết và bị thương 380
người, thiệt hại 11,5 tỷ đồng.
Năm 1992-1993 tổng số vụ cháy là 1710 vụ, làm chết 213 người, bị
thương 348 người, thiệt hại 114, 76 tỷ đồng.
Từ năm 1996 đến 2003, tổng số vụ cháy xảy ra là 8015 vụ, bình quân 1003
vụ mỗi năm, thiệt hại trên 1000 tỷ đồng, cháy lớn chiếm 2.47% tổng số vụ cháy
nhưng thiệt hại lại chiếm tới 67.25% tổng thiệt hại. Thiệt hại về tài sản giai đoạn
này, tăng gấp 20 lần so với cả giai đoạn 1986 đến 1995. Trong số các vụ cháy,
phần lớn xảy ra ở đô thị, đến 62%. Về đối tượng gây cháy, 70,1% xuất phát từ

thành phần kinh tế tư nhân, và nhà dân.
Ngày 14-7-1994: Vụ cháy chợ đồng Xuân Hà Nội, thiệt hại 14 tỷ đồng ,
2364 hộ kinh doanh bị thiệt hại.
Ngày 26-06-1996: Cháy kho xăng dầu 131 Thuỷ Nguyên, thiệt hại 31 tỷ
đồng.
Ngày 18-11-1996: Cháy công ty giầy Đồng Nai, thiệt hại 12 tỷ đồng.
Năm 2001, vụ cháy tại Vising Pack thiệt hại trên 1,4 triệu $.
12

×