Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

TUYỂN tập đề THI HSG NGỮ văn lớp 8 có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.19 KB, 51 trang )

PHÒNG GD & ĐT SÔNG LÔ
TRƯỜNG T.H.C.S HOÀNG
HOA THÁM
ĐỀ THI CHỌN H.S.G LỚP 8(VÒNG 1)
NĂM HỌC : 2012-2013
MÔN : NGỮ VĂN
Thời gian : 120 phút(Không kể thời gian giao đề)
ĐỀ BÀI
Câu 1 : (3 điểm)
Đọc câu chuyện sau và nêu suy nghĩ của em bằng một đoạn văn khoảng 10 câu:
Có người cha mắc bệnh rất nặng. Ông gọi hai người con trai đến bên giường và ân
cần nhắc nhở: “Sau khi cha qua đời,hai con cần phân chia tài sản một cách thỏa đáng,
đừng vì chuyện đó mà cãi nhau nhé!”
Hai anh em hứa sẽ làm theo lời cha . Khi cha qua đời họ phân chia tài sản làm đôi.
Nhưng sau đó người anh cho rằng người em chia không công bằng và cuộc tranh cãi nổ
ra. Một ông già thông thái đã dạy cho họ cách chia công bằng nhất: Đem tất cả đồ đạc ra
cưa đôi thành hai phần bằng nhau tuyệt đối. Hai anh em đã đồng ý.
Kết cục tài sản đã được chia công bằng tuyệt đối nhưng đó chỉ là đống đồ bỏ đi.
.
Câu 2 : (2 điểm) Có ý kiến cho rằng : "Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ ( Ngữ văn 8, tập 2 )
tràn đầy cảm xúc lãng mạn".Em hãy cho biết cảm xúc lãng mạn được thể hiện trong bài
thơ như thế nào ?
Câu 3: (5 điểm)
Trong tác phẩm “Lão Hạc”, Nam Cao viết:
“…Chao ôi ! Đối với những người sống quanh ta , nếu ta không cố mà tìm hiểu họ,
thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để cho ta tàn
nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương…
cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng
, buồn đau, ích kỉ che lấp mất…”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Từ các nhân vật: Lão Hạc,ông giáo, vợ ông
giáo ,Binh Tư trong tác phẩm “Lão Hạc” ,em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.


Hết
Giám thị coi thi không giải thích gì thêm
PHÒNG GD & ĐT SÔNG LÔ
TRƯỜNG T.H.C.S HOÀNG
HOA THÁM
HƯỚNG DẪN CHẤM – BIỂU ĐIỂM
KÌ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 8 (VÒNG 1)
NĂM HỌC : 2012 - 2013
MÔN : NGỮ VĂN
Thời gian : 120 phút (Không kể thời gian giao đề)
1
.HƯỚNG DẪN CHẤM – BIỂU ĐIỂM
CÂU YÊU CẦU-NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Câu 1 :
(3điểm)
- Trên đời này không tồn tại sự công bằng tuyệt đối. Nếu lúc nào cũng tìm
kiếm sự công bằng thì kết cục chẳng ai được lợi gì.
- Sự công bằng chỉ tồn tại trong trái tim chúng ta . Trong bất cứ chuyện gì
đừng nên tính toán quá chi li.
- Nhường nhịn chính là tạo nên sự công bằng tuyệt đối
Câu 2 :
(2 điểm)
Nêu được nội dung cơ bản sau:
- Bài thơ “Nhớ rừng” là bài thơ hay của Thế Lữ, nhưng cũng là bài thơ hay
của phong trào Thơ Mới. Điểm nổi bật của tâm hồn lãng mạn là giàu mộng
tưởng, khát vọng và cảm xúc. Người nghệ sỹ lãng mạn Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám-1945 cảm thấy cô đơn, tù túng trong xã hội bấy giờ nhưng
bất lực, họ chỉ còn biết tìm cách thoát li thực tại ấy bằng chìm đắm vào trong
đời sống nội tâm tràn đầy cảm xúc. Tâm hồn lãng mạn ưa thích sự độc đáo,
phi thường, ghét khuôn khổ, gò bó và sự tầm thường. Nó có hứng thú giãi bầy

những cảm xúc thiết tha mãnh liệt, nhất là nỗi buồn đau.
- Cảm xúc lãng mạn trong bài thơ nhớ rừng được thể hiện khá rõ ở những
khía cạnh sau: (1điểm).
+ Hướng về thế giới mộng tưởng lớn lao, phi thường tráng lệ bằng một cảm
giác trào dâng mãnh liệt. Thế giới ấy hoàn toàn đối lập với thực tại tầm
thường, giả dối. Trong baì thơ, thế giới mộng tưởng chính là cảnh đại ngàn
hùng vĩ và kèm theo đó là cảnh oai hùng của chúa sơn lâm.
+ Diễn tả thấm thía nỗi đau trong tinh thần bi tráng, tức là nỗi uất ức xót xa
của hòm thiêng khi sa cơ lỡ vận.
Câu 3:
(5điểm)
A.Yêu cầu chung:
Thể loại: Giải thích kết hợp chứng minh.
Nội dung:Cách nhìn, đánh giá con người cần có sự cảm thông, trân
trọng con người.
Yêu cầu cụ thể
1.Mở bài:
-Dẫn dắt vấn đề:Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội nên
việc đánh giá con người phải có sự tìm hiểu cụ thể.
-Đặt vấn đề:Cách nhìn, đánh giá con người qua câu nói trên.
2.Thân bài(4 điểm)
a. Giải thích nội dung của đoạn văn:
+ Lời độc thoại của nhân vật “Ông giáo”- thông qua nhân vật này- tác giả
Nam Cao thể hiện cách nhìn, đánh giá đầy sự cảm thông, trân trọng con
người:
2
- Phải đem hết tấm lòng của mình, đặt mình vào hoàn cảnh của họ để cố
mà tìm hiểu, xem xét con người ở mọi bình diện thì mới có được cái nhìn đầy
đủ, chắt gạn được những nét phẩm chất đáng quý của họ, nếu chỉ nhìn phiến
diện thì sẽ có ác cảm hoặc những kết luận sai lầm về bản chất của con người.

b. Chứng minh ý kiến trên qua các nhân vật:
+ Lão Hạc: Thông qua cái nhìn của các nhân vật (trước hết là ông giáo),
lão Hạc hiện lên với những việc làm, hành động bề ngoài có vẻ gàn dở, lẩm
cẩm
- Bán một con chó mà cứ đắn đo, suy nghĩ mãi. Lão Hạc sang nhà ông giáo
nói chuyện nhiều lần về điều này làm cho ông giáo có lúc cảm thấy “nhàm
rồi”.
- Bán chó rồi thì đau đớn, xãt xa, dằn vặt như mình vừa phạm tội ác gì lớn
lắm.
- Gửi tiền, giao vườn cho ông giáo giữ hộ, chấp nhận sống cùng cực, đói
khổ: ăn sung, rau má, khoai, củ chuối…
- Từ chối gần như hách dịch mọi sự gióp đỡ.
- Xin bả chó.
+ Vợ ông giáo: nhìn thấy ở lão Hạc một tính cách gàn dở “Cho lão chết !
Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ ! Lão làm lão khổ chứ ai…”, vô cùng bực
tức khi nhìn thấy sự rỗi hơi của ông giáo khi ông đề nghị giúp đỡ lão Hạc
“Thị gạt phắt đi”.
+ Binh Tư: Từ bản tính của mình, khi nghe lão Hạc xin bả chó, hắn vội kết
luận ngay “Lão…cũng ra phết chứ chả vừa đâu”.
+ Ông giáo có những lúc không hiểu lão Hạc: “Làm quái gì một con chó
mà lão có vẻ băn khoăn quá thế ?”, thậm chí ông cũng chua chát thốt lên khi
nghe Binh Tư kể chuyện lão Hạc xin bả chó về để “cho nó xơi một bữa…lão
với tôi uống rượu”: “Cuộc đời cứ mỗi ngày càng thêm đáng buồn…”
Nhưng ông giáo là người cã tri thức, có kinh nghiệm sống, có cái nhìn đầy
cảm thông với con người, lại chịu quan sát, tìm hiểu, suy ngẫm nên phát hiện
ra được chiều sâu của con người qua những biểu hiện bề ngoài:
- Ông cảm thông và hiểu vì sao lão Hạc lại không muốn bán chó: Nó là
một người bạn của lão, một kỉ vật của con trai lão; ông hiểu và an ủi, sẻ chia
với nỗi đau đớn, dằn vặt của lão Hạc khi lão khóc thương con chó và tự xỉ vả
mình. Quan trọng hơn, ông phát hiện ra nguyên nhân sâu xa của việc gửi tiền,

gửi vườn, xin bả chã, cái chết tức tưởi của lão Hạc: Tất cả là vì con, vì lòng tự
trọng cao quý. ông giáo nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn của lão Hạc ẩn giấu đằng
sau những biểu hiện bề ngoài có vẻ gàn dở, lập dị.
- Ông hiểu và cảm thông được với thái độ, hành động của vợ mình: Vì quá
khổ mà trở nên lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau đồng loại “…Vợ tôi không
ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một ngưêi đau chân cã lóc nào quên được cái
chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu ? cái bản tính tốt của
3
ngưêi ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất…” . ông biết
vậy nên “Chỉ buồn chứ không nì giận”.
→ Ông giáo là nhân vật trung tâm dẫn dắt câu chuyện, từ việc miêu tả các
nhân vật mà quan sát, suy ngẫm để rồi rót ra những kết luận cã tính chiêm
nghiệm hết sức đóng đắn và nhân bản về con người. Có thể nói tác giả đã hóa
thân vào nhân vật này để đưa ra những nhận xét, đánh giá chứa chan tinh thần
nhân đạo về cuộc đời , con người. Đây là một quan niệm hết sức tiến bộđịnh
hướng cho những sáng tác của nhà văn sau này.
3.Kết bài:
-Khẳng định tính triết lí của câu nói trên. Đó cùng là quan niệm sống,tình
cảm của tác giả.
-Suy nghĩ của bản thân em
ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN LỚP 8
Thời gian làm bài: 150 phút (không kể thời gian phát đề)
A. VĂN – TIẾNG VIỆT (6 điểm):
Câu 1: (2,0 điểm)
Qua ba văn bản truyện ký Việt Nam: “Trong lòng mẹ”, “Tức nước vỡ bờ” và “Lão
Hạc”, em thấy có những đặc điểm gì giống và khác nhau ? Hãy phân tích để làm sáng tỏ.
Câu 2: (2,0 điểm)
Cho đoạn văn:
“Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt
chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít.

Lão hu hu khóc ”.
(Trích Lão Hạc, Nam Cao)
a. Tìm câu ghép trong đoạn văn trên. Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế trong
câu đó.
b. Chỉ rõ từ tượng hình, từ tượng thanh và phân tích giá trị biểu hiện (tác dụng) của
các từ tượng hình, tượng thanh trong đoạn văn đó.
Câu 3: (2,0 điểm)
Tóm tắt phần trích Lão Hạc bằng một đoạn văn khoảng từ 8 đến 10 dòng.
HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN LỚP 8
A. VĂN – TIẾNG VIỆT (6 điểm):
Câu 1: (2,0 điểm)
4
a. Giống nhau: (1,0 điểm)
- Thời gian sáng tác: Cùng giai đoạn 1930 – 1945. - Phương thức biểu đạt: tự sự.
- Nội dung: Cả 3 văn bản đều phản ánh cuộc sống khổ cực của con người trong xã
hội đương thời chứa chan tinh thần nhân đạo. - Nghệ thuật: Đều có lối viết chân thực, gần
gũi, sinh động.
b. Khác nhau: (1,0 điểm)
- Thể loại: Mỗi văn bản viết theo một thể loại: Trong lòng mẹ (Hồi kí), Lão Hạc
(Truyện ngắn), Tức nước vỡ bờ (Tiểu thuyết)
- Đều biểu đạt phương thức tự sự nhưng mỗi văn bản yếu tố miêu tả, biểu cảm có sự
đậm nhạt khác nhau. - Mỗi văn bản viết về những con người với số phận và những nỗi khổ
riêng.
Câu 2: (2,0 điểm)
a/ - Câu ghép: Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như
con nít. (0,5 điểm)
- Quan hệ ý nghĩa giữa 2 vế câu: quan hệ bổ sung hoặc đồng thời. (0,5 điểm)
b/ - Từ tượng hình: móm mém (0,25 điểm)
- Từ tượng thanh: hu hu (0,25 điểm)
- Giá trị biểu hiện (tác dụng): Gợi tả hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động có giá trị biểu

cảm cao. (0,5 điểm)
Câu 3: (2,0 điểm)
Đoạn văn tham khảo:
Lão Hạc có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó vàng. Con trai lão phải
đi phu đồn điền cao su, lão chỉ còn lại con chó vàng làm bạn tâm tình. Vì muốn giữ lại mảnh
vườn cho con, lão đã gạt nước mắt bán cậu vàng. Tất cả số tiền dành dụm được lão gửi ông
giáo và nhờ ông giáo trông coi mảnh vườn. Cuộc sống ngày một khó khăn, lão kiếm được gì
ăn nấy và khéo léo từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo. Một hôm, lão xin Binh Tư ít bã chó,
nói là sẽ đánh bả một con chó và ngỏ ý rủ Binh Tư uống rượu. Ông giáo rất ngạc nhiên và rất
buồn khi nghe Binh Tư kể lại. Nhưng khi tận mắt chứng kiến cái chết đau đớn, quằn quại của
lão Hạc thì ông giáo mới hiểu. Cả làng đều bất ngờ trước cái chết đó. Chỉ có Binh Tư và ông
giáo hiểu vì sao lão Hạc chết tức tưởi như vậy!
ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN - LỚP 8
Câu 1: (4 điểm)
Nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết:
“… Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu ”
(Ông đồ)
a. Phương thức biểu đạt của đoạn thơ ?
5
b. Xác định các trường từ vựng có trong đoạn thơ ?
c. Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật sử dụng trong đoạn thơ. Phân tích giá trị biểu đạt
của chúng ?
Câu 2: (4 điểm)
Cảm nhận của em về sức mạnh của nghệ thuật hội họa trong “Chiếc lá cuối cùng”
của nhà văn Ô hen ri.
Câu 3: (12 điểm)
Bằng những hiểu biết về các văn bản truyện đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 8,

em hãy chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ngợi ca tình yêu thương giữa con
người với con người.

HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN: NGỮ VĂN - LỚP 8
Câu 1: (4 điểm)
a. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm (0,25 điểm)
b. Các trường từ vựng:
- Vật dụng: giấy, mực, nghiên (0,25 điểm)
- Tình cảm: buồn, sầu (0,25 điểm)
- Màu sắc: đỏ, thắm (0,25 điểm)
c. Các biện pháp nghệ thuật sử dụng trong đoạn thơ: Điệp ngữ (mỗi); câu hỏi tu từ
(Người thuê viết nay đâu?); nhân hoá (giấy-buồn, mực-sầu). (1 điểm)
Phân tích có các ý: (2,0 điểm)
- Sự sửng sốt trước sự thay đổi quá bất ngờ mỗi năm mỗi vắng.
- Hình ảnh ông đồ già tiều tụy, lặng lẽ bên góc phố, người trên phố vẫn đông nhưng
chỗ ông ngồi thì vắng vẻ, thưa thớt người thuê viết.
- Một câu hỏi nghi vấn có từ nghi vấn nhưng không một lời giải đáp, hồi âm tan loãng
vào không gian hun hút - tâm trạng xót xa ngao ngán.
- Cái buồn, cái sầu như ngấm vào cảnh vật (giấy, nghiên), những vật vô tri vô giác ấy
cũng buồn cùng ông, như có linh hồn cảm thấy cô đơn lạc lõng…
Câu 2: (4 điểm)
- Giới thiệu khái quát đoạn trích “Chiếc lá cuối cùng”. (1 điểm)
- Lòng yêu nghề đã gắn kết cuộc sống của ba họa sĩ nghèo: Cụ Bơ-men, Xiu và
Giôn-xi. Tuy không cùng tuổi tác nhưng họ có trách nhiệm với nhau trong công việc cũng
như trong cuộc sống hằng ngày (cụ Bơ- men tuy già yếu nhưng vẫn ngồi làm mẫu vẽ cho
hai hoạ sĩ trẻ; Xiu lo lắng chăm sóc Giôn-xi khi cô đau ốm).
(1,5 điểm)
- Cụ Bơ men: Nhà hội hoạ không thành đạt trong nghề nghiệp, tuổi già vẫn kiên trì
làm người mẫu. Vì tình cảm cũng như trách nhiệm cứu đồng nghiệp cụ đã vẽ “Chiếc lá
cuối cùng” giữa mưa gió, rét buốt.

(1 điểm)
6
- “Chiếc lá cuối cùng” trở thành kiệt tác vì nó như liều thần dược đã cứu được Giôn
xi.
(0,5 điểm)
Câu 3: (12 điểm)
* Yêu cầu chung:
a. Thể loại: Sử dụng thao tác lập luận chứng minh. HS cần thực hiện tốt các kĩ năng
làm văn nghị luận đã được học ở lớp 7 và lớp 8: dựng đoạn, nêu và phân tích dẫn chứng,
vận dụng kết hợp đưa các yếu tố miêu tả, tự sự và biểu cảm vào bài văn nghị luận.
b. Nội dung: Văn học của dân tộc ta luôn đề cao tình yêu thương giữa người với
người.
- HS cần nắm vững nội dung ý nghĩa và tìm dẫn chứng phù hợp với nội dung vấn đề
cần giải quyết.
- Hệ thống các dẫn chứng tìm được sắp xếp theo từng phạm vi nội dung, tránh lan
man, trùng lặp.
- Dẫn chứng lấy trong các văn bản truyện đã học ở chương trình Ngữ văn 8, chủ yếu
là phần văn học hiện thực.
c. Về hình thức: Bài viết có bố cục chặt chẽ, đủ ba phần; dẫn chứng chính xác; văn
viết trong sáng, có cảm xúc; không mắc lỗi chính tả và lỗi diễn đạt; trình bày sạch sẽ, chữ
viết rõ ràng.
* Yêu cầu cụ thể:
a) Mở bài: (1,5 điểm)
- Có thể nêu mục đích của văn chương (văn chương hướng người đọc đến với sự hiểu
biết và tình yêu thương).
- Giới thiệu vấn đề cần giải quyết.
b) Thân bài: (8 điểm)
Tình yêu thương giữa người với người thể hiện qua nhiều mối quan hệ xã hội.
- Tình cảm xóm giềng:
+ Bà lão láng giềng với vợ chồng chị Dậu (Tức nước vỡ bờ - Ngô Tất Tố).

+ Ông giáo với lão Hạc (Lão Hạc - Nam Cao).
- Tình cảm gia đình:
+ Tình cảm vợ chồng: Chị Dậu ân cần chăm sóc chồng chu đáo, quên mình bảo vệ
chồng (Tức nước vỡ bờ - Ngô Tất Tố).
+ Tình cảm cha mẹ và con cái:
• Người mẹ âu yếm đưa con đến trường (Tôi đi học - Thanh Tịnh); Lão Hạc thương
con (Lão Hạc - Nam Cao).
• Con trai lão Hạc thương cha (Lão Hạc - Nam Cao); bé Hồng thông cảm, bênh vực,
bảo vệ mẹ (Trong lòng mẹ - Nguyên Hồng).
c) Kết bài: (1,5 điểm)
Nêu tác dụng của văn chương (khơi dậy tình cảm nhân ái cho con người để con người
sống tốt đẹp hơn).
7
* Hình thức: (1 điểm) Có đủ bố cục 3 phần, kết cấu chặt chẽ, liên hệ hợp lí, dẫn
chứng chính xác; văn viết trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, chữ
viết đẹp.
ĐỀ KHẢO SÁT HỌC SINH GIỎI CẤP HUYỆN
Bảo vệ môi trường thiên nhiên (bầu không khí, nguồn nước, cây xanh ) chính là bảo vệ
nguồn sống của chúng ta. Em hãy chứng minh. Yêu cầu:
- Biết làm bài văn nghị luận, bố cục rõ ràng, mạch lạc, kết cấu hợp lý;
- Văn phong trong sáng. không dùng từ sai, câu đúng ngữ pháp
Biểu điểm:
a. Đặt vấn đề: (1.0 đ)
Giới thiệu về môi trường thiên nhiên (nguồn sống ) và sự cần thiết phải bảo vệ nó.
b. Giải quyết vấn đề: (4.0 đ)
- Bảo vệ bầu không khí trong lành trước tác hại của khói, bụi, khí thải (làm thủng
tầng ô-zôn)
- Bảo vệ nguồn nước sạch trước sự tác hại của rác sinh hoạt, chất thải công nghiệp
(làm bẩn nguồn nước)
- Bảo vệ cây xanh trước sự tàn phá của con người, thiên tai (làm thay đổi hệ sinh

thái: chim thú bị huỷ diệt, sông ngòi sẽ khô cạn, trái đất sẽ nóng lên, lụt lội, hạn
hán )
c. Kết thúc vấn đề: (1.0 đ)
Mỗi chúng ta phải có ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường thiên nhiên chính là bảo
vệ nguồn sống của chúng ta
ĐỀ GIAO LƯU HỌC SINH GIỎI LỚP 8
Câu 1: (2 điểm)
Viết đoạn văn có độ dài từ 20 đến 25 dòng trình bày ý kiến của em về câu hỏi sau:
Có thật cần đến đoạn kết truyện như của tác giả An-đéc-xen (đoạn trích “Cô bé bán
diêm”) không? Nếu kết thúc ở câu “Họ đã về chầu thượng đế” thì có làm giảm cái hay của
truyện không? Vì sao?
Câu 4: (4 điểm)
Cảm nhận về nhân vật tên cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích “Tắt đèn”
của Ngô Tất Tố (Ngữ văn 8, tập một- NXBGD-2011).
HƯỚNG DẪN CHẤM GIAO LƯU HSG LỚP 8
Câu 1: (2 điểm)
1.Yêu cầu về kĩ năng:
Hiểu đề bài, trình bày bằng một đoạn văn chặt chẽ rõ ràng, lập luận chắc chắn, có sức
thuyết phục. Diễn đạt lưu loát, có cảm xúc.
2.Yêu cầu về nội dung:
Học sinh có thể trình bày bằng những trình tự khác nhau, nhưng phải thể hiện được sự
suy ngẫm cơ bản sau đây:
8
-Với tấm lòng nhân ái của nhà văn, thì đoạn kết truyện được coi là rất cần thiết. Nếu
kết thúc ở câu “Họ đã về chầu thượng đế” thì ý nghĩa của truyện sẽ bị giảm đi (0,25 điểm)
- Người đọc không thấy được sự đối lập giữa một bên là hình ảnh cô bé bán diêm ngây
thơ, hồn nhiên đẹp đẽ như tiên đồng ngọc nữ với một bên gió lạnh của ngày đầu năm. Và
người đọc cũng không thấy được sự đối lập giữa một bên là thái độ lạnh lùng thờ ơ của
mọi người khi chứng kiến cảnh thương tâm này (cô bé rất cô đơn: mồ côi bố nghiệt ngã, vô
tình) (0,5 điểm)

- Đoạn kết của truyện đã phơi bày cả một xã hội vô tình, lạnh lùng trước cái chết của
một đứa trẻ nghèo mô côi (0,25 điểm)
-Đoạn kết truyện còn cho thấy cái nhìn đầy cảm thông cùng tấm lòng nhân hậu và lãng
mạn của tác giả viết lại câu chuyện thương tâm này khiến người đọc bớt đi cảm giác bi
thương để đưa tiễn cô bé lên trời với niềm vui, hy vọng chợt bùng, lóe sáng sau những lần
đánh diêm (0,5 điểm)
- Cái hay của đoạn kết: người đọc chứng kiến cả xã hội Đan Mạch đương thời tàn nhẫn
thiếu tính thương từ đó lên án, cho thấy tấm lòng nhân ái của nhà văn (0,5 điểm
Câu 4 (4 điểm)
1. Yêu cầu về kĩ năng:
- Hiểu đúng yêu cầu của đề bài, biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục chặt
chẽ, diễn đạt trong sáng, dẫn chứng chọn lọc, không mắc các lỗi chính tả dùng từ đặt câu.
Biết vận dụng các thao tác nghị luận.
2. Yêu cầu về nội dung:
Học sinh có thể sắp xếp theo nhiều cách khác nhau, nhưng cơ bản đáp ứng được các
ý sau:
-Ở làng Đông Xá, cai lệ được coi là tên tay sai đắc lực của quan phủ, giúp bọn lý
dịch tróc nã những người chưa nộp đủ tiền sưu. Cai lệ như một hung thần tha hồ trói, tha
hồ bắt bớ, tha hồ tác oai tác quái, làm mưa làm bão trong mùa sưu thuế đối với những
người dân cùng (0,5 điểm)
-Cai lệ là tên tay sai chuyên nghiệp mạt hạng của quan huyện, quan phủ, nhưng về
đến làng Đông Xá nhờ bóng chủ, hắn tha hồ đánh trói, hung dữ, độc ác, tàn nhẫn, táng tận
lương tâm, chỉ như một cái máy làm theo lệnh quan thầy. Đánh, trói, bắt người là nghề của
hắn (0,5 điểm)
- Ngôn ngữ cửa miệng của cai lệ là quát, thét, chửi, mắng, hầm hè. Cử chỉ, hành
động thô bạo vũ phu: ví dụ như “Sầm sập tiến vào, trợn ngược hai mắt, giật phắt cái thừng
sầm sập chạy tới, bịch mấy bịch, tát đánh bốp, sấn đến, nhảy vào…” (0,5 điểm)
- Cai lệ bỏ ngoài tai những lời van xin thảm thiết, tiếng kêu khóc của trẻ, chẳng làm
hắn mảy may động lòng. Tình cảnh lê bê lệt bệt đến ngất xỉu của anh Dậu, hắn cũng chẳng
coi vào đâu. Hắn như một công cụ bằng sắt vô tri vô giác, chỉ có một mục đích duy nhất

phải thực hiện bằng được là trói bắt anh Dậu ra đình theo lệnh của quan. (0,5 điểm)
- Thế nhưng hắn không thể ngờ lại bị thảm bại nhanh chóng và bấ
ngờ đến thế trước người đàn bà lực điền. Chỉ biết cai lệ chỏng quèo trên mặt đất, miệng
vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu. Đây là chi tiết được chuẩn bị từ đoạn
9
trước: Tiếng thét khàn khàn của người hút sái cũ. Cũng là chi tiết gây nhiều khoái cảm cho
người đọc, hả hê sau bao đau thương tê tái của chị Dậu. Tiếng thét của cai lệ còn chứng tỏ
một điều cà cuống chết đến đít vẫn còn cay của tên đại diện cho chính quyền thực dân
phong kiến mạt hạng chỉ quen bắt nạt, đe dọa, áp bức những người nhút nhát, cam chịu,
còn thực lực thì rất yếu ớt, hèn kém và đáng cười. (1 điểm)
- Có thể nói, tuy chỉ xuất hiện trong một vài đoạn văn ngắn, nhưng hình ảnh tên cai
lệ cùng với tên người nhà lý trưởng đã hiện lên rất sinh động, sắc nét, đậm chất hài dưới
ngòi bút hiện thực của Ngô Tất Tố (0,5 điểm)
§ÒTHI HäC SINH GiáI
Câu 1:( 2đ) Vận dụng các kiến thức đã học về trường từ vựng để phân tích cái
hay trong cách dùng từ ở bài thơ sau:
Áo đỏ em đi giữa phố đông
Cây xanh như cũng ánh theo hồng
Em đi lửa cháy trong bao mắt
Anh đứng thành tro,em biết không?
(Vũ Quần Phương – Áo đỏ)

Câu 2:( 2đ) Vì sao bức tranh “ Chiếc lá cuối cùng ” của cụ Bơ- men trong truyện ngắn
cùng tên của O Hen- ri là kiệt tác nghệ thuật?
Câu 3( 6đ) Khi trở về, người con trai lão Hạc đã được nghe ông giáo kể về cuộc sống
của cha và những tâm nguyện của ông trước khi chết. Em hãy tưởng tượng mình là con trai
lão Hạc để kể lại tâm trạng khi trở về quê và bày tỏ tình cảm của mình với người cha.
ĐÁP ÁN ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI
Câu 1: (2đ)
Tác giả sử dụng 2 trường từ vựng:

+Trường từ vựng về màu sắc : đỏ - hồng – ánh }
+Trường từ vựng chỉ về lửa : lửa cháy to. }(0,5đ)
Các từ trong hai trường từ vựng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên vẻ đẹp của đoạn thơ.
Màu áo đỏ của cô gái thắp lên trong mắt chàng trai ( nhiều người khác) ngọn lửa. Ngọn
lửa đó lan tỏa tronh người anh, làm anh say đắm, ngất ngây, và lan tỏa cả không gian, làm
không gian cũng biến sắc (cây xanh cũng ánh hồng). (1đ)
Xây dựng hình ảnh gây ấn tượng mạnh với người đọc .Nó miêu tả một tình yêu mãnh liệt,
cháy bỏng,đắm say…( ngoài ra bài thơ còn sử dụng một số phép đối. (0,5đ)

Câu 2: (2đ)
- Kiệt tác nghệ thuật là một sản phẩm nghệ thuật (ở đây là lĩnh vực hội họa) có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao, đem lại niềm vui, khoái cảm thẩm mỹ cho người xem, người đọc,
người nghe.“Chiếc lá cuối cùng” hội tụ đủ các tiêu chí khái quát đó nên bức tranh này của
cụ Bơ- men xứng đáng là một kiệt tác. (0,5đ)
10
- Vì: + bức tranh rất đẹp, rất giống với con mắt chuyên môn của hai họa sĩ trẻ (Giôn- xi
và Xiu) cũng không nhận ra. Nó có giá trị nhân sinh cao. Tác phẩm chứa đựng sự sống,
toát ra sự lay động tâm hồn, tình cảm của người xem và thức tỉnh họ… Góp phần cứu sống
một người ( Giôn- xi) hoàn thành trong điều kiện sáng tác khó khăn (mưa tuyết, ánh sáng
yếu,đứng trên thang cao…) (0,5đ)
+ Cứu được một người nhưng cướp đi một người –người đã sinh ra nó. Cụ Bơ - men đã
hiến dâng sự sống của mình để giành được sự sống,tuổi trẻ cho Giôn –xi. Nó không chỉ vẽ
bằng bút lông,màu sắc mà còn bằng cả tình yêu thương, đức hi sinh thầm lặng cao quí của
cụ Bơ-men. Nó cho thấy một qui luật nghiệt ngã của nghệ thuật. Kiệt tác là hiếm hoi, ngoài
ý muốn, có giá trị nhân sinh và nhệ thuật cao. Nên kiệt tác hướng tới phục vụ cuộc sống
con người… ( 1 đ)
Câu 3 ( 6 đ)
• Yêu cầu: - Đúng thể loại tự sự tưởng ,có yếu tố miêu tả, biểu cảm.
- Có bố cục 3 phần chặt chẽ.
- Xác lập các tình tiết câu chuyện,các doạn thoại hợp lí ( giữa con trai lão Hạc và

ông giáo).
- Chuyện kể hấp dẫn có những tình tiết bất ngờ nhưng có lý làm cho người đọc
tin…
• Nội dung cần đạt : ( một số gợi ý)
• Mở truyện: - Ngày trở về sau thời gian bao lâu ở dồn điền?
-Cảm xúc trên đường về ( không biết bố thế nào,mong muốn mau về làng )
-Mãi suy nghĩ ,ngỡ ngàng khi bước về làng cũ, cảm xúc ban đầu như thế nào? ( 1đ)
* Phát triển truyện: - Hồi ức những kỷ niệm về những ngày tháng ở nhà: cảnh sống
kham khổ với rau chuối vẫn ấm áp hương vị quê hương…( 0,5đ)
-Ngôi nhà hiện ra với những gì quen thuộc, bờ rào, mái nhà tranh ,cây rơm…
- Tình huống bất ngờ: cỏ vườn quá tốt; căn nhà heo vắng; không thấy bóng dáng của thầy?
Cậu vàng đâu không chạy ra đón? Ngạc nhiên như thế nào trước cảnh tượng đó? Tâm
trạng bồn chồn lo lắng ra sao?
- Đẩy cửa bước vào… nhà cột chặt cửa…gọi mãi không ai mở cửa…(1,5 đ)
- Chạy sang nhà ông giáo( bạn thân của thầy ngày trước) bao lo lắng suy nghĩ;bao câu hỏi
đặt ra trong đầu… (0,5 đ)
- Hốt hoảng gọi …. Chạy thẳng vào nhà gặp ông giáo… hỏi han ( phần này là trọng tâm
cần xây dựng được cuộc đối thoại giữa hai người, qua lời ông giáo kể và sự hỏi han của
con trai lão Hạc) để làm rõ cuộc sống và tâm nguyện của lão Hạc trước khi chết. Tình cảm
lão dành cho con như thế nào?
Sự trông mong ,chờ đợi và hy vọng của lão đối với con như thế nào
- Ông giáo trao lại cho con trai lão Hạc những gì mà lão gửi lại…( 2,0 đ)
* Kết truyện:- Cảm xúc của con trai lão Hạc bộc lộ :xót xa, đau đớn, thẫn thờ Trở về
nhà…
11
-Thắp lên bàn thờ cha nén hương… nhìn ra mãnh vườn … Nước mắt nhạt nhòa…bóng
hình cha hiện về mờ ảo… chạy ra vườn trong bóng hoàng hôn.( 1 đ)
ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI
Câu 1: (6 điểm)
a. Tìm ba động từ cùng thuộc một phạm vi nghĩa, trong đó một từ có nghĩa rộng và hai

từ có nghĩa hẹp hơn trong đoạn trích sau:
“Xe chạy, chầm chậm… Mẹ tôi cầm nón vẫy tôi, vài giây sau, tôi đuổi kịp. Tôi thở
hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu cả chân lại. Mẹ tôi vừa kéo tay tôi,
xoa đầu tôi hỏi, thì tôi òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Mẹ tôi cũng sụt sùi theo […].”
(Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
b. Trong đoạn thơ sau, tác giả đã chuyển các từ in đậm từ trường từ vựng nào sang
trường từ vựng nào?
“Ruộng rẫy là chiến trường,
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nông là chiến sĩ,
Hậu phương thi đua với tiền phương.”
(Hồ Chí Minh)
c. Phân biệt biện pháp tu từ nói quá với nói khoác.
Câu 2: (14 điểm)
Có ý kiến cho rằng: “Đọc một tác phẩm văn chương, sau mỗi trang sách, ta đọc
được cả nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của tác giả về số phận con người.”
Dựa vào hai văn bản: Lão Hạc (Nam Cao) và Cô bé bán diêm (An – đéc – xen), em
hãy làm sáng tỏ nỗi niềm đó.

Hướng dẫn chấm
Câu 1: (6 điểm):
a. Tìm ba động từ cùng thuộc một phạm vi nghĩa: (1,5 đ)
-Động từ có nghĩa rộng: khóc (0,5 đ)
-Động từ có nghĩa hẹp: nức nở (0,5 đ)
sụt sùi (0,5 đ)
b. Chuyển trường từ vựng: (2,0 đ)
- Ruộng rẫy (nông nghiệp)  Chiến trường (quân sự) (0,5 đ)
- Cuốc cày (nông nghiệp)  Vũ khí (quân sự) (0,5 đ)
- Nhà nông (nông nghiệp)  Chiến sĩ (quân sự) (0,5 đ)
 Tác giả chuyển từ trường “quân sự” sang trường “nông nghiệp”. (0,5 đ)

c. Phân biệt biện pháp tu từ nói quá với nói khoác: (2,5 đ)
*Giống nhau: (1,0 đ)
-Nói quá và nói khoác đều là phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng.
*Khác nhau: (1,5 đ)
12
-Núi quỏ: L bin phỏp tu t nhm mc ớch nhn mnh, gõy n tng, tng sc biu cm.
(0,75 )
-Núi khoỏc: Nhm lm cho ngi nghe tin vo nhng iu khụng cú thc. Núi khoỏc l
hnh ng cú tỏc ng tiờu cc. (0,75 )
Cõu 2: (14 im).
A.Yêu cầu chung :
- Kiểu bài : Nghị luận chứng minh
- Vấn đề cần chứng minh : Nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của tác giả về số phận con ngời.
- Phạm vi dẫn chứng : Hai văn bản: Lão Hạc (Nam Cao) và Cô bé bán diêm ( An-đéc-xen)
B.Yêu cầu cụ thể :
I. Mở bài: (2,0 điểm)
- Dẫn dắt vấn đề : Vai trò, nhiệm vụ của văn chơng : Phản ánh cuộc sống thông qua cách
nhìn,cách cảm của mỗi nhà văn về cuộc đời, con ngời.
- Nêu vấn đề : trích ý kiến
- Giới hạn phạm vi dẫn chứng : Hai văn bản Lão Hạc (Nam Cao) và Cô bé bán diêm (An-
đéc-xen)
II. Thân bài : (10 điểm)
Thí sinh lần lợt chứng minh các luận điểm sau:
1. Những băn khoăn trăn trở của Nam Cao về số phận những ngời nông dân qua
truyện ngắn Lão Hạc: (4,0 điểm)
a.Nhân vật lão Hạc:
- Sống lơng thiện, trung thực, có nhân cách cao quí nhng số phận lại nghèo khổ, bất hạnh.
+ Sống mòn mỏi, cơ cực : D/C
+ Chết thê thảm, dữ dội, đau đớn : D/C
- Những băn khoăn thể hiện qua triết lí về con ngời của lão Hạc : "Nếu kiếp chó là kiếp

khổ may ra có sớng hơn kiếp ngời nh kiếp tôi chẳng hạn"
- Triết lí của ông giáo : Cuộc đời cha hẳn theo một nghĩa khác.
b. Nhân vật con trai lão Hạc : Điển hình cho số phận không lối thoát của tầng lớp thanh
niên nông thôn D/C
2. Những băn khoăn trăn trở của Nam Cao về số phận của những trí thức nghèo
trong xã hội: (2,0 điểm)
- Ông giáo là ngời có nhiều chữ nghĩa, có nhân cách đáng trọng nhng phải sống trong
cảnh nghèo túng : bán những cuốn sách
3. Những băn khoăn cuae An-đéc-xen về số phận của những trẻ em nghèo trong xã
hội: (2,0 điểm)
- Cô bé bán diêm khổ về vật chất : D/C
- Cô bé bán diêm khổ về tinh thần, thiếu tình thơng, sự quan tâm của gia đình và xã hội :
D/C
4. Đánh giá chung : (2,0 điểm)
- Khắc họa những số phận bi kịch giá trị hiện thực sâu sắc
13
- Đồng cảm, chia sẻ, cất lên tiếng nói đòi quyền sống cho con ngời tinh thần nhân đạo
cao cả.
III. Kết bài : ( 2,0 điểm)
- Khẳng định lại vấn đề
- Liên hệ
C. Biểu điểm:
1. 12,0 14,0 điểm: Đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của đề, lập luận chặt chẽ, hàm súc.
Không vi phạm các lỗi về diễn đạt, chính tả
2. 9,0 11,0 điểm: Đáp ứng trên 2/3 các yêu cầu của đề, lập luận khá chặt chẽ, khá hàm
súc. Vi phạm rất nhỏ các lỗi về diễn đạt, chính tả
3. 6,0 8,0 điểm: Đáp ứng 1/2 các yêu cầu của đề, lập luận đôi lúc thiếu chặt chẽ, diễn
đạt thiếu hàm súc. Vi phạm khá nhiều các lỗi về diễn đạt và chính tả.
4. 3,0 5,0 điểm: Đáp ứng dới 1/2 các yêu cầu của đề, lập luận thiếu chặt chẽ, mạch văn
thiếu tính hàm súc. Vi phạm rất nhiều lỗi về diễn đạt và chính tả.

5. 1,0 2,0 điểm: Không nắm vững kiểu bài, bố cục rời rạc, không nắm đợc các yêu cầu của
đề, diễn đạt lan man Vi phạm rất nhiều lỗi về diễn đạt và chính tả.
6. 0,0 0,5 điểm: Không hiểu đề, lạc đề.
:
CU 2 : (1 im) Phõn tớch giỏ tr biu t ca cỏc t : gi, xa, c trong nhng cõu th
sau :
Mi nm hoa o n
Li thy ụng gi
Nm nay o li n,
Khụng thy ụng xa.
Nhng ngi muụn nm c
Hn õu bõy gi ?
(Trớch ễng - V ỡnh Liờn)
PHN II: Bi lm vn (7 im)
Bng nhng hiu bit v cỏc vn bn truyn ó hc chng trỡnh Ng vn lp 8,
em hóy chng minh rng vn hc ca dõn tc ta luụn ca ngi tỡnh yờu thng gia ngi
vi ngi.
Cõu 2 : 1 im
_ Cỏc t gi, xa,c trong cỏc cõu th ó cho cựng mt trng t vng,cựng ch mt i
tng : ụng (0,25im).
_ Gi cao tui , vn sng ang tn ti.
Xa- ó khut - thi quỏ kh trỏi ngha vi nay.
C - gn ngha vi xa, i lp vi mi- hin ti. (0,25im)
14
_ Ý nghĩa của các cách biểu đạt đó : Qua những từ này khiến cho người đọc cảm nhận
được sự vô thường, biến đổi, nỗi ngậm ngùi đầy thương cảm trước một lớp người đang
tàn tạ : ông đồ ( 0,5 điểm)

1.Yêu cầu cần đạt :
a. Thể loại : Sử dụng thao tác lập luận chứng minh.HS cần thực hiện tốt các kĩ năng

làm văn nghị luận đã được học ở lớp 7 và lớp 8 : dựng đoạn, nêu và phân tích dẫn
chứng,vận dụng kết hợp đưa các yếu tố miêu tả, tự sự và biểu cảm vào bài văn nghị luận.
b. Nội dung : Văn học của dân tộc ta luôn đề cao tình yêu thương giữa người với
người.
_ HS cần nắm vững nội dung ý nghĩa và tìm dẫn chứng phù hợp với nội dung vấn đề cần
giải quyết.
_ Hệ thống các dẫn chứng tìm được sắp xếp theo từng phạm vi nội dung, tránh lan man,
trùng lặp.
_ Dẫn chứng lấy trong các văn bản truyện đã học ở chương trình Ngữ văn 8,chủ yếu là
phần văn học hiện thực.
c. Về hình thức : Bài viết có bố cục chặt chẽ, đủ ba phần ; dẫn chứng chính xác ; văn
viết trong sáng, có cảm xúc ; không mắc lỗi chính tả và lỗi diễn đạt ; trình bày sạch sẽ, chữ
viết rõ ràng.
*Dàn ý tham khảo :
a) Mở bài :
_ Có thể nêu mục đích của văn chương ( văn chương hướng người đọc đến với sự hiểu
biết và tình yêu thương)
_ Giới thiệu vấn đề cần giải quyết.
b)Thân bài : Tình yêu thương giữa người với người thể hiện qua nhiều mối quan hệ xã
hội .
_ Tình cảm xóm giềng :
+ Bà lão láng giềng với vợ chồng chị Dậu ( Tức nước vỡ bờ- Ngô Tất Tố).
+ Ông giáo với lão Hạc( Lão Hạc – Nam Cao).
_ Tình cảm gia đình :
+ Tình cảm vợ chồng : Chị Dậu ân cần chăm sóc chồng chu đáo, quên mình bảo vệ
chồng (Tức nước vỡ bờ - Ngô Tất Tố).
+ Tình cảm cha mẹ và con cái :
• Người mẹ âu yếm đưa con đến trường ( Tôi đi học- Thanh Tịnh) ; Lão Hạc thương
con (Lão Hạc- Nam Cao).
• Con trai lão Hạc thương cha ( Lão Hạc- Nam Cao) ; bé Hồng thông cảm, bênh vực,

bảo vệ mẹ (Trong lòng mẹ- Nguyên Hồng).
c)Kết bài : Nêu tác dụng của văn chương ( khơi dậy tình cảm nhân ái cho con người để
con người sống tốt đẹp hơn).
15
Câu 2: (1,5điểm). Ngoài việc dùng để hỏi, câu nghi vấn còn có thể đợc dùng với những
mục đích gì? Cho ví dụ minh hoạ.
Câu 3: (2điểm). Có ý kiến cho rằng bài thơ Nhớ rừng - Ngữ văn 8, tập 2- tràn đầy cảm xúc
lãng mạn. Em hiểu thế nào là lãng mạn? Cảm xúc lãng mạn đợc thể hiện trong bài thơ Nhớ
rừng nh thế nào?
Câu 4: (4điểm) Ngời ấy (bạn, thầy, ngời thân ) sỗng mãi trong lòng tôi.
THI HC SINH GII CP HUYN
Cõu 2: (1,5im).
- Trong nhiu trng hp, cõu nghi vn khụng dựng hi m dựng cu khin, khng
nh, ph nh, e do, bc l tỡnh cm, cm xỳc.v khụng yờu cu ngi i thoi tr
li. (0,25).
- VD: (1,25).
+ Dựng vi mc ớch cu khin: Bn cú th k cho tụi nghe b phim va chiu trờn VTT
1

c khụng?
+ Dựng vi mc ớch khng nh: Mt ngi hng ngy ch cm ci lo lng vỡ mỡnh th
m khi xem truyn hay ngõm th cú th vui, bun, mng, gin cựng nhng ngi õu
õu, vỡ nhng chuyn õu õu, hỏ chng phi l chng c cho cỏi mónh lc l lựng ca
vn chng hay sao?
+ Dựng vi mc ớch ph nh: Võng, th tng tng mt qu bong búng khụng bao gi
v, khụng th bay mt, nú c cũn mói mt vt lỡ lm. ễi, nu th cũn õu l qu búng
bay?
+ Dựng vi mc ớch e do: Cai l khụng cho ch Du núi ht cõu, trn hai mt, hn
quỏt: - My nh núi cho cha my nghe y ? Su thu ca nh nc m dỏm m mm
xin kht!.

+ Dựng vi mc ớch bc l tỡnh cm cm xỳc: Nhng ngi muụn nm c. Hn õu
bõy gi?
Cõu 3: (2im). Nờu c ni dung c bn sau:
- Bi th Nh rng l bi th hay ca Th L, nhng cng l bi th hay ca phong tro
Th Mi. im ni bt ca tõm hn lóng mn l giu mng tng, khỏt vng v cm xỳc.
Ngi ngh s lóng mn Vit Nam trc cỏch mng thỏng Tỏm-1945 cm thy cụ n, tự
tỳng trong xó hi by gi nhng bt lc, h ch cũn bit tỡm cỏch thoỏt li thc ti y bng
chỡm m vo trong i sng ni tõm trn y cm xỳc. Tõm hn lóng mn a thớch s c
ỏo, phi thng, ghột khuụn kh, gũ bú v s tm thng. Nú cú hng thỳ giói by nhng
cm xỳc thit tha mónh lit, nht l ni bun au.
- Cm xỳc lóng mn trong bi th nh rng c th hin khỏ rừ nhng khớa cnh sau:
(1im).
+ Hng v th gii mng tng ln lao, phi thng trỏng l bng mt cm giỏc tro dõng
mónh lit. Th gii y hon ton i lp vi thc ti tm thng, gi di. Trong baỡ th,
16
thế giới mộng tưởng chính là cảnh đại ngàn hùng vĩ và kèm theo đó là cảnh oai hùng của
chúa sơn lâm.
+ Diễn tả thấm thía nỗi đau trong tinh thần bi tráng, tức là nỗi uất ức xót xa của hòm thiêng
khi sa cơ lỡ vận.
Câu 4: (4điểm). Dạng đề bài đặt ra yêu cầu:
- Đề tài được đề cập đến trong bài văn trong bài tự sự là khá phong phú, đa dạng, không gò
bó, áp đặt thoe những khuôn mẫu đã thành truyền thống, dễ gây nhàm chán.
- Cần tìm hiểu kĩ đầ bài để hiểu rõ yếu tố của từng vấn đề.
+ Hai chữ “người ấy” rất mơ hồ trong đề bài cần được xác định cụ thể khi viết: người ấy là
ai, có quan hệ thế nào với người kể chuyện?
+ Tuy nhiên “người ấy” không nhất thiết phải là một con người cụ thể bằng xương bằng
thịt mà có thể là một nhân vật văn học đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người kể.
Mặc dù đề bài mở ra cho người viết nhiều khả năng lựa chon nhưng cũng nên hướng
vào những người gần gũi thân thiết, có ảnh hưởng tích cực tới cuộc sống, tâm hồn tình cảm
người kể chuyện

+ “Sống mãi” cần đựơc hiểu: Không nhất thiết
người được kể không còn sống hay đã đi xa. Thực chất đây là cách nói chỉ mức độ sâu sắc
mà nhân vật đã để lại dấu ấn khó quên trong lòn, không kể là ở xa hay gần, còn sống hay
đã qua đời. Đó là những nhân vật có thể làm thay đổi nhận thức của người kể theo chiều
hướng tốt đẹp. Đó là những nhân vật có phẩm chất đáng quý khiến mọi người yêu quý trân
trọng.
I. Yêu cầu về hình thức. (1đ)
- Bài làm có bố cục 3 phần rõ ràng, trình bày sạch đẹp (0,25đ).
- Văn viết trôi chảy, có cảm xúc, hấp dẫn: Lỗi chính tả, ngữ pháp không đáng kể (0,75đ).
II. Yêu cầu về nội dung (3đ).
A. Mở bài: (0,25đ).
- Mối quan hệ xã hội của mỗi người theo nhiều hướng khác nhau.
- Giới thiệu nhân vật với ấn tượng sâu sắc của mình.
B. Thân bài: (2,5đ).
- Giới thiệu câu chuyện, trong đó có nhân vật với vai trò cảu họ với câu chuyện, với người
kể.
- Tả sơ bộ vài nét phác hoạ chân dung ngoại hình, tính tình nhân vật.
- Diễn biến câu chuyện, trình tự các chi tiết trong hành động của nhân vật để câu chuyện
phát triển (Xâydựng tình huống đặc sắc để câu chuyện có sự hấp dẫn, thú vị và có ý nghĩa).
- Kết thúc câu chuyện.
- Dư âm về nhân vật trong cảm nghĩ của người kể.
C. Kết bài. (0,2đ). ấn tượng sâu sắc của nhân vật đối với người kể chuyện mặc thời gian và
khoảng cách không gian.
häc sinh giái m«n ng÷ v¨n líp 8
C©u 2( 6 ®iÓm )
17
Nhận xét về một trong những cảm hứng của thơ ca lãng mạn Việt Nam có ý kiến cho
rằng: Văn học lãng mạn Việt Nam đầu thế kỷ XX ( 1930 1945) th ờng ca ngợi vẻ đẹp
của thiên nhiên. Qua các bài thơ đã học hoặc em biết , em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
Câu 2 (6điểm)

1. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận chứng minh một khía cạnh vấn đề trong một trào lu
văn học lãng mạn giai đoạn 1930 - 1945. Bài làm có kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn
đạt lu loát không mắc lỗi chính tả, dùng từ ngữ pháp, chữ viết cẩn thận rõ ràng.
2. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh biết khái quát tổng hợp vận dụng các dẫn chứng về thơ ca lãng mạn đã học
hoặc đợc biết để làm sáng tỏ một nhận định. Học sinh có thể trình bằng những cách khác
nhau song cần đạt đợc những yêu câu sau đây:
- Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca lãng mạn là những hình ảnh bình dị, thân thơng gắn bó
với cuộc sống lao động của con ngời. ( Quê hơng Tế Hanh)
- Đó là bức tranh thiên hùng vĩ, tráng lệ, bí ẩn của núi rừng. ( Nhớ rừng Thế Lữ)
- Thơ ca lãng mạn còn ca ngợi về mùa xuân Việt Nam rực rỡ, tuyệt đẹp làm say đắm lòng
ngời. ( Mùa xuân chín- Hàn Mặc Tử; Chợ tết - Đoàn văn Cừ )
Câu 2( 6 điểm )
Một số tác phẩm thơ văn cách mạng đã khắc hoạ hình tợng ngời chí sĩ yêu nớc đầu
thế kỷ XX, dù trong hoàn cảnh tù đầy gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn có t thế hiên ngang, khí
phách hào hùng và ý chí kiên định . Dựa vào các tác phẩm Cảm tác vào nhà ngục Quảng
Đông của Phan Bội Châu và tác phẩm Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh , em
hãy làm sáng tỏ điều đó.
Câu 2 (6điểm)
1. Yêu cầu về kỹ năng:
Biết cách làm bài văn nghị luận chứng minh văn học. Bài làm có kết cấu chặt chẽ, bố
cục rõ ràng, diễn đạt lu loát không mắc lỗi chính tả, dùng từ ngữ pháp, chữ viết cẩn thận rõ
ràng.
2. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh biết khái quát tổng hợp vận dụng các dẫn chứng từ hai bài thơ của Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh để làm sáng tỏ một nhận định về hình tợng ngời chí sĩ yêu nớc
đầu thế kỷ XX, dù trong hoàn cảnh tù đầy gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn có t thế hiên
ngang, khí phách hào hùng và ý chí kiên định . Học sinh có thể trình bằng những cách khác
nhau song cần đạt đợc những yêu câu sau đây:

- Đó là những con ngời thân bị tù đầy mà t thế vẫn hiên ngang, lẫm liệt, khí phách thật hào
hùng.
+ Với Phan Bội Châu thì nhà tù chỉ là chốn nghỉ chân của bậc phong lu, hoà kiệt trên đờng
sự nghiệp. Vào tù mà vẫn phong tháI đờng hoàng, ung dung nh chủ động nghỉ chân. Vào tù
mà vẫn hào kiêt, phong lu , hoàn cảnh ngục tù không làm thay đổi chất hào kiệt, phong lu
vốn là bản chất của con ngời họ.
18
+ Với Phan Châu Trinh thì ngời tù nh biến thành vị thần vũ trụ, còn lao dịch khổ sai thì
biến thành cuộc chinh phục dũng mãnh.
- Họ coi thờng hiểm nguy.
- Đó là những con ngời trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn kiên định ý chí.
a. M bi:
Gii thiu nhõn bộ Hng trong on trớch Trong lũng m vi hai c im:
- Nhng cay ng, ti cc thi th u;
- Tỡnh yờu thng chỏy bng i vi ngi m bt hnh.
b. Thõn bi:
Ln lt lm sỏng t tng lun im.
1. Nhng cay ng, ti cc ca bộ Hng
- B mt, m vỡ cựng tỳng quỏ, phi b con cỏi i tha hng cu thc, bộ Hng
sng b v gia s gh lnh, cay nghit ca h hng.
- B b cụ c ỏc gieo rc vo u úc nhng hoi nghi, nhng ý ngh xu xa, v
ngi m;
- B ngi cụ nhc m, hnh h, bộ Hng au n, c hng nghn khúc khụng ra
ting, ci di trong ting khúc
2. Tỡnh yờu thng mónh lit ca bộ Hng vi ngi m bt hnh
- Nhng ý ngh, cm xỳc ca chỳ bộ khi tr li ngi cụ
+ Nhn ra ý ngha cay c trong ging núi v trờn nột mt ca ngi cụ; khụng
mun tỡnh thng yờu v lũng kớnh mn m b nhng rp tõm tanh bn xõm phm
n
+ au n, ut c n cc im vỡ c tc ó hnh h, y a m: Giỏ nhng c

tc ó y a m tụi l mt vt nh hũn ỏ hay cc thy tinh, u mu g, tụi
quyt v ngay ly m cn, m nhai, m nghin cho kỡ nỏt vn mi thụi.
- Cm giỏc sung sng cc im khi trong lũng m
+ Chy ui theo chic xe. Va c ngi lờn xe cựng m ó ũa lờn khúc nc n.
+ Cm giỏc sung sng n cc im ca bộ Hng khi trong lũng m l hỡnh nh
v mt th gii ang bng n, ang hi sinh ca tỡnh mu t. Vỡ th, nhng li cay
c ca ngi cụ cng b chỡm ngay i, bộ Hng khụng my may ngh ngi gỡ
na
+ Đoạn trích Trong lòng mẹ, đặc biệt là phần cuối là bài ca chân thành và cảm động
về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
L u ý: Học sinh có thể có những cách chứng minh, làm sáng tỏ vấn đề khác nhau
nhng vẫn đầy đủ, hợp lí thì vẫn cho điểm tối đa.
c. Kt bi:
- Khng nh vn ó chng minh:
on trớch Trong lũng m ó k li mt cỏch chõn thc v cm ng nhng cay
ng, ti cc cựng tỡnh yờu thng mónh lit ca nh vn thi th u i vi ngi
m bt hnh.
- Nờu thỏi , tỡnh cm ca ngi vit:
19
Hồi kí thấm đẫm chất trữ tình. Cách nhìn nhận, đánh giá con người và sự việc và
đặc biệt là tình cảm của nhà văn thời ấu thơ dành cho người mẹ thật đáng trân
trọng.
Nhớ rừng và ngòi bút tạo hình lãng mạn của Thế Lữ
Ai đã từng xem bức chân dung Hoàng Lập Ngôn vẽ Thế Lữ theo lối tinh tướng họa, mới
thấy họa sĩ này sao mà tinh quái và thâm thuý. Ông đã thể hiện gương mặt tác giả Nhớ
rừng trong bộ mặt chúa sơn lâm! Nghĩa là mặt một con hổ chính cống. Mà cũng phải!
Không có cái con - hổ - nhớ - rừng hồi ấy thì làm gì có Thế Lữ! Vả, cái gã thi sĩ có công
“dựng thành nền Thơ mới ở xứ này” cũng đáng được xem là một chúa sơn lâm chứ sao!
Ngang cơ quá còn gì! Tất nhiên, họ không giao đấu, mà chỉ giao nhau. Giao trong từng
nét một để cùng làm nên một chân dung kép. Thế Lữ - Hổ hay là Hổ - Thế Lữ thì cũng

vậy! “Thực” đến thế thì đạt mức “siêu” còn gì! Quái lạ thay là lòng tri kỷ! Quái lạ thay là
nghệ thuật tạo hình!
Tôi vừa nói đến nghệ thuật tạo hình - cái ngành nghệ thuật mà trước khi thành thi sĩ, Thế
Lữ đã từng dấn thân vào, tuy nửa vời. Dầu vậy, cái máu hội họa, cái vốn hội họa vẫn đủ
cho ông có được một “gu” tạo hình khi cầm ngọn bút thi nhân. Thế Lữ đã làm thơ bằng
hồn thơ đậm tính hội họa. Nhớ rừng là thi phẩm rất tiêu biểu. Có thể sánh thế này: nếu
Hoàng Lập Ngôn vẽ con Hổ - Thế Lữ bằng hội họa đơn thuần, thì Thế Lữ đã vẽ con Hổ -
nhớ rừng bằng hội họa của thơ. Trong nét bút Thế Lữ, người ta không chỉ thấy họa pháp
của một họa sĩ từng theo học Mỹ thuật Đông Dương, mà trùm lên tất cả là một thi pháp
nghiêng về tạo hình của thi phái Lãng mạn. Vì thế mà, Nhớ rừng vừa là một “khúc trường
ca dữ dội” thể hiện tâm trạng vĩ đại của chúa sơn lâm, vừa là một họa phẩm hoành tráng
từng bước làm nổi hằn lên trên mặt bằng của câu chữ hình tượng vị “chúa tể cả muôn
loài”.
Nhiều người đã nói đến nội dung xã hội của bài thơ. Thậm chí đã có lúc người ta cho rằng
nội dung yêu nước mới là đích thực và đáng kể nhất của Nhớ rừng. Hướng lĩnh hội ấy
càng ngày càng bộc lộ sự ấu trĩ của nó. Nội dung kia, nếu có, phải ẩn chìm ở bề sau. Tâm
trạng của chúa sơn lâm là một bi kịch. Không chỉ của một con hổ. Không chỉ của riêng
Thơ mới. Mà trước hết và trên hết là bi kịch của cái tôi lãng mạn. Bởi nó bắt nguồn từ một
trạng thái tâm lý rất đặc trưng của những cái tôi lãng mạn: do bất hòa với thực tại mà thoát
ly vào thế giới bên trong của chính mình, cố tìm kiếm một thực tại khác để thay thế thực
tại bên ngoài. Mộng tưởng là đời sống của những cái tôi lãng mạn. Cái tôi này tìm vào
thực tại hồi tưởng, cái tôi kia tìm vào thực tại huyễn tưởng, cái tôi khác lại tìm vào thực
tại viễn tưởng Kẻ tìm vào hồi tưởng, thực chất, đã đối lập hiện tại với quá khứ. Với nó,
quá khứ mới vàng son, mới là thời hoàng kim, thời oanh liệt. Chỉ trong quá khứ ấy, nó
20
mới thấy hạnh phúc, thấy hài hòa. Mà thời đó thì vĩnh viễn mất rồi, chìm vào dĩ vãng rồi.
Chỉ có thể sống lại trong hồi tưởng thôi. Vì thế, nó dùng hồi tưởng để hồi hiện quá khứ,
phục chế quá khứ và tô điểm thêm cho quá khứ. Hoài cổ (có thời người ta coi là thoát ly
vào quá khứ) là một đời sống tinh thần của cái tôi lãng mạn ấy, về sau trở thành một cảm
hứng phổ biến của văn học lãng mạn, cũng là vì thế.

Riêng ở Việt Nam, lại có thêm một lý do nữa khiến mối bất hòa cố hữu kia trầm trọng và
gay gắt hơn: tình trạng thuộc địa của thực tại. Do thế, bất hòa với thực tại trước tiên là
phản ứng thẩm mỹ của cái tôi lãng mạn, sau nữa là phản ứng chính trị của lòng yêu nước.
Lớp nghĩa thứ hai đến sau và ở bề sau, là như vậy. Thế Lữ đã ký thác những điều đó vào
vị chúa sơn lâm này. Con hổ bị cầm tù trong cũi sắt giữa vườn bách thú vẫn ôm trong lòng
“niềm uất hận ngàn thu”, vẫn “đương theo giấc mộng ngàn to lớn” chính là hiện thân của
bi kịch ấy. Đối với nó, thực tại là cũi sắt, là vườn bách thú nhỏ mọn, tầm thường, giả dối,
vô vị, vô tích sự. Còn rừng là thời vàng son, thuở hoàng kim trong hồi tưởng. Nhớ rừng là
nhớ một thế giới cao cả, nhớ chốn thiêng liêng, nhớ cõi tự do. Rừng là thời oanh liệt, thời
làm chủ nhân ông của đại ngàn. Toàn bộ ý nghĩa cuộc đời mình là ở nơi rừng. Đánh mất
rừng cũng là đánh mất mình. Hằng ngày cứ thấy mình bị tầm thường hóa đi mà bất lực!
Khao khát rừng là khao khát được là mình! Đó chẳng phải cũng là khao khát của một cái
tôi đòi giải phóng đó ư? Bởi đây là chúa sơn lâm, nên logic là nhất nhất mọi cái phải ở
tầm “chúa tể cả muôn loài”. Nghĩa là đều phải siêu phàm, kỳ vĩ, chế ngự, bao trùm.
Nhưng đằng sau những cái riêng thuộc về tập tính loài hùm thiêng, ta đều thấy cái chung
với con người. Cái lý của việc tìm đến hình tượng con hổ này của Thế Lữ là ở đó.
Nhưng cảm xúc mà cái tôi - hổ này đang mang nặng, thực chất, là gì vậy ? Tôi đã có lần
viết : Thơ mới là một điệu sầu mênh mông, mà nếu đem phân chất ra thì sẽ thấy trong đó
ba mối sầu đậm nhất : sầu nhân thế, sầu thời thế, sầu thân thế. Ba mối sầu này đan quyện,
chuyển hóa sang nhau cất lên mà thành Thơ mới. Nhớ rừng nghiêng về mối sầu thứ ba.
Tâm trạng chúa sơn lâm chính là tâm trạng “hùm thiêng khi đã sa cơ”, tâm trạng bi tráng
của một anh hùng thất thế đang phẫn uất về thân thế mình. Vì vậy lời than đầy hùng tâm
tráng chí này không chỉ rung chuyển rừng già, mà còn làm rung chuyển muôn vạn con tim
của thời bấy giờ:
Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Song ngẫm ra, ai chẳng có thời oanh liệt của riêng mình? Ai chẳng có cái quãng huy
hoàng chói lọi, cái đoạn ý nghĩa nhất của đời mình? Bất cứ người nào trong cuộc đời này,
nếu là người luôn khát sống thì rồi sẽ có lúc ngấm nỗi hận sầu thất thế, để rồi cất lên cái
tiếng than u uất kia của chúa sơn lâm thôi. Trong mỗi cuộc đời, mỗi kiếp người đều tiềm
ẩn cái tiếng than đầy nhân bản ấy của con hổ này. Vậy là sầu thân thế cũng tiềm tàng cả

sầu nhân thế. Nói con hổ nhớ rừng mang trong nó một tâm trạng vĩ đại còn vì ý nghĩa tiêu
biểu lớn lao đó.
21
Tính tạo hình trong bút pháp Thế Lữ chủ yếu thể hiện ở việc khắc họa cái Phi thường. Và
để nó sắc nét, thi sĩ đã duy trì một nguyên tắc tương phản khá nhất quán và nhuần nhuyễn
giữa cái Phi thường và cái Tầm thường. Chúa sơn lâm được đặt ở trung tâm bức tranh,
còn tất cả thì được nhìn qua con mắt của loài mãnh thú này, do đó mà tất cả đều trở nên
tầm thường. Đối diện với hổ, ngay con người cũng chỉ là “lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ”,
với “mắt bé” dám “diễu oai linh rừng thẳm”. Còn bọn gấu thì “dở hơi”, cặp báo chỉ là loài
ươn hèn nô lệ, hời hợt “vô tư lự”. Cái thế giới rừng già kề bên chúa sơn lâm thảm hại đã
đành. Mà ngay cả bao tạo vật, cảnh trí lớn lao trong vũ trụ này dưới mắt nó cũng tầm
thường vô nghĩa. Bằng cách tương phản thế, hình ảnh chúa sơn lâm trở nên kỳ vĩ !
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi / Với khi thét khúc trường ca dữ dội, rồi
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng / lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng , con
mãnh thú mới là chúa tể muôn loài trong xứ sở của mình, giữa chốn rừng núi. Nhưng đến
đoạn này, thì con hổ kia đã dần trở thành chúa tể cả vũ trụ :
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?
Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới ?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng ?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật ?
Dễ thấy đây là đoạn tuyệt bút của Nhớ rừng. Nhưng tôi chỉ muốn nói đến một khía cạnh
của đoạn tuyệt bút kia, ấy lối tạo hình bằng thơ. Và cũng chỉ một khía cạnh tạo hình thôi,
ấy là vẽ tranh tứ bình. Thực ra, tứ bình là một lối tạo hình quen thuộc từ cổ điển. Người
xưa thường khái quát một hiện thực toàn vẹn nào đó vào bộ tranh gồm bốn bức. Cho nên
tự thân tứ bình là một cấu trúc, một chỉnh thể, một thế giới. Thời gian thì Xuân Hạ Thu

Đông, thảo mộc thì Tùng Trúc Cúc Mai, hay Mai Lan Cúc Trúc, nghề nghiệp thì Ngư
Tiều Canh Mục, tầng lớp thì Sĩ Nông Công Thương, nghệ thú thì Cầm Kỳ Thi Họa.v.v
Nảy sinh từ hội họa, về sau tứ bình xâm nhập vào nhiều nghệ thuật khác. Người đọc thơ
có thể đơn cử ở Chinh phụ ngâm, những đoạn như nỗi nhớ chồng của nàng chinh phụ diễn
ra trọn vẹn khi “trông bốn bề”, mỗi bề là một phía, một cung bậc, một nông nỗi của nhung
nhớ. Tâm trạng buồn nản, hãi hùng của Thuý Kiều trước lầu Ngưng Bích cũng diễn thành
tứ bình với điệp khúc “buồn trông”. Rồi ngay Tố Hữu cũng dùng đến tứ bình khi viết bài
Việt Bắc ở đoạn “Ta về ta nhớ những hoa cùng người” Vậy, dùng tứ bình thì chưa phải
là gì thật đáng nói. Đáng nói là: cả bốn bức tứ bình ở đây đều là những chân dung tự họa
khác nhau của cùng một con hổ. Nó đã khái quát trọn vẹn về cái “thời oanh liệt” của chúa
sơn lâm.
22
Bốn bức là bốn nỗi hoài niệm đầy tiếc nuối, uất hận.
Đồng thời, là bốn câu hỏi mà giọng điệu càng lúc càng dữ dằn.
Mỗi bức một khung cảnh, một gam màu, một dáng điệu của vị “chúa tể cả muôn loài”.
Bức thứ nhất thật thi vị :
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Gam màu vàng lóng lánh của ánh trăng in trên suối vắng. Đối với con hổ giờ đang bị giam
cầm trong cũi sắt, đó không chỉ là những kỷ niệm lấp lóa trăng vàng, mà thực sự là những
“đêm vàng” - những kỷ niệm được đúc bằng vàng ròng - không bao giờ còn có lại. Chúa
sơn lâm hiện ra như nhà thi sĩ của chốn lâm tuyền, với cử chỉ uống ánh trăng tan đầy thơ
mộng. Chữ “say mồi” có thể làm người đọc lạc hướng, bởi tưởng rằng “mồi” đây hẳn là
một con thú đáng thương nào đó. Không phải. Con mồi chính là con trăng vàng in bóng
trong lòng suối. Con mồi - cái đẹp, cái đẹp - con mồi một thân phận kép, đó là cảm nhận
độc đáo của con hổ - thi sĩ này. Thế Lữ đã tỏ ra là người nhập được vào hổ, khi gửi vào
mãnh thú một mảnh hồn thi sĩ.
Bức thứ hai, chúa sơn lâm hiện ra như một minh đế trước giang sơn của mình :
Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đêm trăng đã nhường chỗ cho chiều mưa. Gam vàng đã chuyển qua gam xám bạc điểm
ánh tươi xanh. Đấng vương chủ của chốn rừng già đang phóng tầm mắt bao quát toàn
cảnh vương quốc đương thay da đổi thịt dưới sự trị vì của mình. Trang nghiêm, ưu tư, và
đầy kiêu hãnh.
Bức thứ ba, chiều mưa đã chuyển sang rạng đông, nền tranh đã rạng rỡ cái gam màu thắm
nắng bình minh. Chúa sơn lâm hiện trong dáng điệu một lãnh chúa cứ nghiễm nhiên ườn
mình trong giấc ngủ trễ tràng khi ngày đã lên mà thụ hưởng cái lạc thú cung - đình - rừng
- xanh của mình:
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Hoàn toàn có thể hình dung cây xanh nắng gội là màn trướng, còn chim chóc như những
bầy cung nữ đang hân hoan ca múa quanh giấc nồng của hổ vương chứ sao!
Bộ tứ bình khép lại bằng bức cuối cùng, cũng là bức ấn tượng hơn cả :
23
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Giọng điệu không còn là thở than, mà đã thành chất vấn đầy giận dữ và oai linh đối với
quá khứ mà cũng là đối với hiện tại. Tương ứng với giọng điệu, chúa sơn lâm hiện ra cũng
với một tư thế hoàn toàn khác: tư thế kiêu hùng của một bạo chúa. Nền cảnh thuộc gam
màu máu. Mấy chữ “lênh láng máu” thật dễ sợ. Nó gợi ra cảnh tượng chiến trường sau
một cuộc vật lộn tàn bạo. Là máu của con thú rừng xấu số nào đó chăng? Không! Đó là
máu của mặt trời. Ánh tà dương lúc mặt trời hấp hối, dưới cái nhìn kiêu bạc của con mãnh
thú chính là sắc máu lênh láng đỏ. “Những chiều lênh láng máu” là máu mặt trời đã
nhuộm cả thời gian. Máu đã trở thành màu kỷ niệm. Chữ “sau rừng” gợi được cái không
gian đỏ máu của địch thủ mặt trời, vừa gợi được vẻ bí hiểm của chốn diễn ra cuộc tranh
chấp đẫm máu. Chữ “chết” đã biến mặt trời từ vật thể thành sinh thể. Không còn là khối
cầu lửa vô tri vô giác giữa không trung, mặt trời đã thành một con thú. Thậm chí, một con
thú thảm hại - chữ “mảnh” là hình ảnh mặt trời trong con mắt ngạo mạn và khinh miệt của
con hổ này. Vẻ “gay gắt” trong giờ phút hấp hối của con thú tử thương dường như càng

làm cho nó bị khinh bỉ. Thì ra, đối thủ của con hổ này không phải là loài gấu, loài báo vô
tư lự dở hơi, đã đành. Mà ngay cả con người cũng không xứng là đối thủ của nó. Trong vũ
trụ này chỉ có một kẻ duy nhất được chúa sơn lâm này xem là địch thủ mà thôi, ấy là vầng
thái dương. Nhưng, cái đáng nói là: trong cuộc kịch chiến kia, phần thắng vẫn thuộc về
nó, vị “chúa tể của muôn loài” ấy. Ba chữ “mảnh mặt trời” đã hoàn toàn hạ bệ, hạ gục đối
thủ, khiến mặt trời cũng trở nên tầm thường. Bằng cuộc thư hùng bạo liệt với mặt trời để
“chiếm lấy riêng phần bí mật”, Thế Lữ đã nâng con mãnh thú này lên tầm vóc vũ trụ. Nó
kỳ vĩ hơn cả những gì vốn kỳ vĩ nhất trong hoàn vũ. Đến câu “Ta đợi chết mảnh mặt trời
gay gắt”, bức tứ bình cuối cùng dường như đã thể hiện được bàn chân ngạo nghễ siêu
phàm của con thú như dẫm đạp lên bầu trời, cái bóng của nó cơ hồ đã trùm kín cả vũ trụ.
Còn tham vọng “Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật”, thì đã tỏ rõ cái oai linh của kẻ muốn
thống trị cả vũ trụ này!
Ghê gớm thật! Ngay đến mặt trời cũng trở nên tầm thường, thì xem ra sự phi thường đã
tới vô biên rồi vậy!
Hồi tưởng phóng chiếu đã xong : thời oanh liệt của cái tôi - hùm thiêng đạt cực điểm !
Một thi sĩ rình trăng chốn lâm tuyền. Một vương chủ say ngắm giang sơn. Một lãnh chúa
rừng xanh giữa bầy ca điểu. Một bạo chúa ngạo mạn với mặt trời. Bốn kỷ niệm kiêu hùng,
bốn khoảnh khắc hoành tráng!
Bộ tứ bình hoàn tất!
Song, cả giọng điệu tráng ca hào hùng, cả bút pháp cường điệu khoa trương đặc thù của
chủ nghĩa lãng mạn, cả lối tạo hình hoành tráng của hội họa sẽ trở nên chơi vơi, sáo rỗng
24
nếu như đây không phải là chúa sơn lâm. Sự ăn nhập tuyệt vời giữa đối tượng và thi pháp
đã chắp cánh cho thơ Thế Lữ bay lên, dõng dạc, đường hoàng như một khúc trường ca dữ
dội!
Bấy giờ, Thơ mới đang hối hả, đang ráo riết đi tìm cái tiết điệu của mình. Thì đến Nhớ
rừng, tiết điệu cần tìm đã được Thế Lữ đem về. Công lớn ấy chẳng hổ danh là chúa sơn
lâm! Chả thế mà Vũ Đình Liên chỉ cần trích hai câu trong bài này đã dám cả quyết: chỉ hai
câu Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối / Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan cũng có
sức mạnh như một tuyên ngôn bênh vực cho Thơ mới.

Nguồn:
hinh-lang-man-cua-The-Lu?s=36351780c42dbab34aee4dc605596703#ixzz2HTPCmLvq
NHỚ RỪNG (Thế Lữ) – Bài học sinh
Tháng Mười Hai 1, 2009 bởi chuyenvanlqd
Ngay từ đầu khi mới xuất hiện trên thi đàn văn học, phong trào Thơ Mơi đã đánh dấu cho
sự đổi thay lớn lao của nền thi ca dân tộc. Để có được những sự thay đổi lớn lao ấy , đó là
sự đóng góp miệt mài và say mê của hàng loạt cây bút với hồn thơ lãng mạn và giàu cảm
xúc. Một trong những cây bút xuất sắc có mặt ngay từ lúc ban đầu là Thế Lữ. Rất nhiều
tác phẩm của ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển của Thơ Mới mà tiêu biểu nhất là
tác phẩm Nhớ Rừng. Ở trongNhớ Rừng , Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự u uất, chán nản
và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó
cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.
Trong những ngày đầu mới ra đời, phong trào Thơ Mới đã có những sự phát triển trong cả
phong cách và nội dung. Trên các chặng đường phát triển, Thơ Mới đã dần giải phóng
khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính “phi ngã” của thi ca cổ điển. Các
nhà thơ đã khám phá thế giới bằng chính những giác quan, những cảm xúc rất thực của
mình. Đó cũng là lúc xuất hiện cái tôi rõ nét trong thơ. Ở đó là sự vươn lên của những
cảm xúc mãnh liệt của con người vượt thoát khỏi thực tế khách quan. Chính vì vậy Thơ
Mới có khuynh hướng thoát ly thực tại, thể hiện tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực
trạng xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại tầm
thường giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.
Cùng chung thái độ phản kháng ấy, Thế Lữ đã viết nên những dòng thơ đầy tâm trạng
trong bài Nhớ Rừng. Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình.
Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu
xa. Tất cả hình ảnh đuợc nhắc đến trong bài đều là không gian xoay quanh cuộc sống của
con hổ. Thực tế là con hổ đang bị giam hãm trong một cũi sắt và nó cảm nhận cuộc sống
của mình chứa đựng những u uất ngao ngán trong cảnh giam hãm tù túng, những cảnh
“tầm thường giả dối” ở vườn bách thú. Chính vì thế, nó cảm thấy tiếc nhớ về quá khứ
oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ. Đó là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau giữa thực
tại và dĩ vãng.

25

×