Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.48 KB, 38 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
Ngày nay, khi nền kinh tế thị trờng đã phát triển, hàng hoá đã đợc lu
thông rộng rãi trong các khu vực, các nớc khác nhau trên thế giới. Chính sách
mở cửa của Đảng và Nhà nớc đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế.
Cũng nh quá trình phát triển của nhiều nớc trên thế giới, trong giai đoạn
đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may xuất khẩu đóng một vai trò
quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, với vai trò vừa cung cấp hàng hoá trong
nớc vừa tạo điều kiện mở rộng thơng mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo u
thế cạnh tranh cho các sản phẩm trên thị trờng thế giới, và cũng là ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam.
Tuy nhiên, khi xu hớng hội nhập và toàn cầu hoá đang trở thành xu thế
chính của thời đại, các quốc gia trên thế giới đều đang nỗ lực, cố gắng và đón
đợi thời cơ để hoà mình vào xu thế đó, Việt Nam tham gia khu vực tự do thơng
mại ASEAN (AFTA) là bớc khởi động đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu của nền kinh tế nói chung và các
ngành xuất khẩu nói riêng, thì vấn đề cạnh tranh của hàng hoá ngày càng trở
nên vấn đề cấp bách, có tính chất toàn cầu. Trong hoàn cảnh đó, liệu toàn ngành
dệt may của nớc ta cũng nh mặt hàng dệt may xuất khẩu tới đây có tiếp tục duy
trì đợc tốc độ phát triển trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi
nhọn của nớc ta hay không?. Vấn đề này chỉ có thể giải đáp dựa trên cơ sở
những kết quả nghiên cứu về thực trạng khả năng cạnh tranh của ngành dệt may
trong thời gian qua, cũng nh triển vọng, lợi thế và năng lực phát triển ngành dệt
may của Việt Nam trong thời gian tới.
Những biến động trên thị trờng thế giới trong thời gian qua đã tác động
mạnh mẽ đến thị trờng dệt may nói chung và ngành dệt, may nói riêng càng làm
cho việc nghiên cứu về thị trờng hàng dệt may trở nên cấp thiết. Nhằm phân
tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn của hàng dệt may Việt Nam, trên cơ
sở đó xác lập những căn cứ khoa học để dự báo khả năng cạnh tranh của hàng

1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
dệt may Việt Nam cũng nh đề xuất một số chính sách, giải pháp hỗ trợ cho việc
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu trong thời gian tới.
Trớc những vấn đề đó, với sự khuyến khích của thầy giáo TS. Ngô Thắng
Lợi, tôi đã chọn đề tài: Nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dệt may xuất
khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA. Đề tài này tập trung
nghiên cứu những biến động thị trờng dệt may trong những năm qua, triển vọng
hàng dệt may, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trờng
thế giới.. .
Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau :
Phần I: Hội nhập AFTA và vấn đề tăng cờng năng lực cạnh tranh của mặt
hàng dệt may của Việt Nam.
Phần II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may.
Phần III: Phơng hớng và các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh của
ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Đây là một đề tài với nội dung nghiên cứu rộng nên không tránh khỏi
những thiếu xót. Hy vọng sẽ nhận đợc sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc
để đề tài nghiên cứu này đợc hoàn chỉnh hơn .
Xin chân thành cảm ơn !

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I: Hội nhập AFTA và vấn đề tăng cờng
năng lực cạnh tranh của mặt hàng dệt may
của Việt Nam
I) Một số vấn đề về AFTA
1) Giới thiệu chung về AFTA
Vào đầu những năm 1990, môi trờng chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực
đã có những biến đổi quan trọng do chiến tranh lạnh đã kết thúc. ở kỷ nguyên
hậu chiến tranh, vị trí của ASEAN trong chiến lợc khu vực và quốc tế của các c-

ờng quốc đã bị hạ thấp, mặt khác kinh tế của các nớc ASEAN đứng trớc các
thách thức lớn khiến cho các nớc ASEAN không dễ dàng vợt qua nếu không có
sự cố gắng chung của toàn hiệp hội. Đó là sự xuất hiện các tổ chức hợp tác khu
vực nh EU, NAFTA mà ASEAN e ngại trở thành khu vực khép kín, do đó sẽ
làm cho hàng hoá ASEAN vấp phải những trở ngại hơn nữa khi thâm nhập vào
các thị trờng trên. Mặc dù trong thập niên trớc đó, kinh tế ASEAN với tốc độ
tăng trởng cao nhng nền kinh tế các nớc ASEAN vẫn phụ thuộc nhiều vào
nguồn vốn đầu t nớc ngoài, đặc biệt là các nhà đầu t Nhật Bản và các nền kinh
tế công nghiệp mới (Nies) ở Đông Bắc á. Tình hình đã thay đổi khi ASEAN b-
ớc vào những năm 1990. Với chính sách mở cửa u đãi rộng rãi dành cho các nhà
đầ t ngoại quốc, với lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân
lực, Trung Quốc ở Châu á, Nga và các nớc Đông Âu ở Châu Âu đã trở thành
những thị trờng đầu t hấp dẫn hơn nếu so sánh với ASEAN.
Nhằm đối phó với những thách thức trên, các nớc ASEAN đã quyết định
đa hợp tác kinh tế của ASEAN lên một tầm mức mới. Hội nghị Thợng đỉnh
ASEAN họp tại Singapo năm 1992 đã quyết định thành lập một khu mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA) theo sáng kiến của Thái Lan. Việt Nam gia nhập
ASEAN vào tháng 7/1995 là kết quả chính sách đối ngoại đúng đắn Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nớc trên thế giới và chủ trơng đa phơng hoá quan

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hệ đối ngoại, hội nhập khu vực và thế giới. Trên lĩnh vực kinh tế, tham gia
ASEAN thực hiện các Hiệp định về hợp tác kinh tế, trong đó quan trọng nhất là
Hiệp định thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do
của ASEAN (AFTA) mở ra cho Việt Nam cơ hội đẩy mạnh hợp tác kinh tế và
thơng mại giữa Việt Nam và các nớc ASEAN, góp phần thực hiện thành công
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Hơn nữa đây còn là bớc
chuẩn bị tích cực để Việt Nam tham gia hội nhập nhanh hơn vào tiến trình khu
vực hoá và quốc tế hoá kinh tế và thơng mại (APEC, WTO).

2) Các mục tiêu của AFTA
AFTA ra đời nhằm ba mục tiêu chính sau đây:
- Thứ nhất: Mục tiêu về tăng cơng trao đổi buôn bán nội bộ khối bằng
việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các
rào cản phi thuế quan.
- Thứ hai: Mục tiêu về thu hút vốn đầu t nớc ngoài vào khu vực bằng việc
đa ra một khối thị trờng thống nhất
- Thứ ba: Mục tiêu làm cho AFTA thích nghi với xu hớng biến động của
thế giới.
Có thể thấy mục tiêu đầu không phải là mục tiêu quan trọng nhất của
AFTA. Với quy mô tơng đối nhỏ của thị trờng ASEAN, AFTA không thể so
sánh đợc với các thoả thuận với các hợp tác thơng mại khác nh EU, NAFTA
trong việc tạo ra một thị trờng nội địa rộng lớn bao gồm các cờng quốc dẫn đầu
về công nghiệp.
Mục tiêu trung tâm của ASEAN là thu hút đầu t nớc ngoài. Tính cấp thiết
của mục tiêu này đợc giải thích bởi sự cạnh tranh tiếp tục tăng lên trong vấn đề
thu hút vốn đầu t của các nớc trong quá trình chuyển đổi, AFTA sẽ tạo ra một
cơ sở sản xuất thống nhất cho ASEAN, từ đó cho phép việc hợp lý hoá sản xuất,
chuyên môn hóa trong nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền
kinh tế khác nhau.

4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục tiêu thứ thứ ba có liên quan đến môi trờng thơng mại không ổn định
và tơng đối không thuận lợi mà các nớc ASEAN phải đơng đầu ở thời kỳ hậu
chiến tranh lạnh. Vào thời điểm AFTA ra đời, các nớc phát triển lớn trên thế
giới thiên về việc thoả thuận thơng mại khu vực (RTA), qua đó thể hiện việc
bảo hộ thị trờng của mình đối với hàng xuất khẩu của các nớc Đông á. Chính
vì vậy AFTA là sự đáp lại của chủ nghĩa khu vực ngày càng tăng trên thế giới.
II) Sự cần thiết phải nâng cao vấn đề cạnh tranh MặT

HàNG dệt may TRONG thị trờng AFTA
1) Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh
1.1) Thực chất của cạnh tranh
Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa hai hay nhiều bên có những lợi ích khác
nhau nhằm giành giật quyền hành hoặc vị thế có lợi cho mình kể cả trên hai ph-
ơng diện mua và bán sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trờng cạnh tranh là một hiện tợng tất yếu xảy ra có
tính quy luật với những lý do cơ bản sau đây :
Thứ nhất, là do có sự xuất hiện đối thủ (các bên, các thế lực đối chọi
nhau, ganh đua nhau, không hạn chế trong một phạm vi địa lý nào).
Thứ hai, mục đích chính của mọi hoạt động kinh doanh là tối đa hoá lợi
nhuận, do đó muốn tồn tại và phát triển các ngành các doanh nghiệp, buộc phải
cạnh tranh lẫn nhau.
Thứ ba, trong môi trờng cạnh tranh gay gắt và khốc liệt luôn chứa đựng
sự diệt vong của bất kỳ một ngành, một doanh nghiệp nào. Do đó vì sự sống
còn, mỗi ngành mỗi doanh nghiệp phải ra sức cạnh tranh với những đối thủ của
mình. Muốn vậy, không còn cách nào khác là phải nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hoá, dịch vụ của chính mình.
ở đây, chúng ta cần phải hiểu rằng, cạnh tranh cũng nh mọi hiện tợng
kinh tế xã hội khác luôn mang tính hai mặt của nó. Mặt tiêu cực của lối cạnh
tranh không lành mạnh sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế của từng chủ thể kinh

5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tế, rộng hơn nữa là trên phạm vi quốc gia, khu vực và cả thế giới. Hai mặt tích
cực và tiêu cực luôn luôn tồn tại trong thị trờng, mặt tích cực không tách rời mặt
tiêu cực, tuy nhiên với vai trò tích cực của mình, sự cạnh tranh sẽ là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
1.2) Lợi thế cạnh tranh
Về mặt truyền thống, kinh tế học phát triển thờng có xu hớng tập trung

và các rào cản về cơ cấu đối với sự cạnh tranh cả trong các quốc gia đang phát
triển và cả nền kinh tế thế giới. Kinh tế học thơng mại đề cập đến cạnh tranh
trên khía cạnh lợi thế só sánh, hiệu quả. Ngoài ra còn có một số lý thuyết cổ
điển cũng bàn về lợi thế cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, cuốn sách lợi thế so
sánh giữa các quốc gia của Michael Porter năm 1990 đã đa ra một lý thuyết
mới về cạnh tranh của các ngành gọi là mô hình Porter. Mô hình đa ra những
điều kiện để các ngành xây dựng năng lực cạnh tranh và thành công trên trờng
quốc tế. Chúng bao gồm 4 điều kiện chính đó là:
Thứ nhất: về yếu tố sản xuất, đó là những yếu tố đầu vào cần thiết cho
quá trình sản xuất. Nó bao gồm lao động, đất đai, tài nguyên, vốn, cơ cấu, cơ sở
hạ tầng Tuy nhiên theo Michael Porter thì yếu tố sản xuất chủ yếu ( hay
những yếu tố chuyên ngành) là những yếu tố đợc tạo ra chứ không phải đợc
thừa hởng ( nh tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông ). Hay nói cách
khác đó là những yếu tố nh: lao động có tay nghề, vốn, công nghệ, cơ sở hạ
tầng. Những yếu tố không chủ yếu hay những yếu tố thông dụng nh lao động
phổ thông và những nguyên vật liệu mà mọi ngành đều có thể sở hữu, do đó
không thể tạo nên một lợi thế cạnh tranh bền vững đợc. Vì vậy những yếu tố
chủ yếu này rất cần đợc đầu t và duy trì mạnh mẽ, bởi chúng khó bị sao chép
và bắt chớc, từ đó sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh do chúng có giá trị.
Thứ hai: là về nhu cầu thị trờng, theo Michael Porter, thị trờng nội địa
khó tính về kinh tế sẽ là nhân tố quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh. Những
ngành tồn tại trên thị trờng này sẽ có khả năng sản xuất và bán đợc nhiều mặt
hàng cao cấp vì thị trờng đối với chất lợng cao và việc tiếp xúc với những khách

6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng khó tính sẽ giúp cho các ngành hiểu rõ hơn về nhu cầu và sở thích ngời
tiêu dùng. Nếu những giá trị riêng biệt của hàng nội địa đợc các thị trờng nớc
ngoài chấp nhận thì các ngành sản xuất trong nớc sẽ có tính cạnh tranh trên toàn
cầu.

Thứ ba: là vấn đề liên kết ngành, đặc biệt là hợp tác liên kết quốc tế bao
gồm những nhà cung cấp và các ngành liên quan thờng xẩy ra ở cấp độ khu vực
hơn là cả nớc. Khả năng duy trì các liên kết quốc tế có tầm quan trọng ngày
càng lớn đối với các nớc đang phát triển (UNCTAD 1999). Do quá trình toàn
cầu hoá, quá trình hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng, vị thế cạnh tranh của
các ngành của các nớc đang phát triển ngày càng xoay quanh khả năng thiết lập
các liên kết quốc tế của họ. Quy mô của các doanh nghiệp trong nớc thờng nhỏ
hơn rất nhiều so với các công ty xuyên quốc gia do vậy sẽ có năng lực thấp hơn
các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. Do vậy khi chế độ thơng mại đợc tự
do hoá và các nền kinh tế mở cửa cho cạnh tranh nớc ngoài, nếu các ngành, các
doanh nghiệp trong nớc không thực hiện tốt việc liên kết với các công ty nớc
ngoài thì họ sẽ không thể tồn tại.
Thứ t: là về môi trờng cạnh tranh. Theo giáo s M.Porter, sự phát triển của
tính cạnh tranh chịu ảnh hởng bởi các chính sách của chính phủ, trong đó chính
sách chính phủ tạo điều kiện thuận lợi ở phạm vi một trong bốn nhân tố tác
động tới cạnh tranh của mô hình cũng nh sự tác động qua lại với các nhân tố
khác. Chính phủ tác động đến nội dung và phạm vi của các hoạt động xuất nhập
khẩu, các yếu tố về môi trờng thể chế, chính sách, các mối liên kết xuyên quốc
gia... Các chính sách và biện pháp của chính phủ đóng vai trò quan trọng đặc
biệt ở các nớc đang phát triển nh Việt Nam. Tuy nhiên việc phân tích các chơng
trình cụ thể này phải xem xét các điều kiện và khuôn khổ kinh tế tổng thể, bằng
cách kiểm soát ảnh hởng của các nhân tố nh ổn định kinh tế vĩ mô, sự cởi mở
trong chính sách thơng mại và chế độ đầu t.

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3) Tiêu chí của cạnh tranh
Qua sự phân tích nói trên ta thấy rằng, có rất nhiều yếu tố chi phối đến
khả năng cạnh tranh của sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ nh : giá cả; chất lợng; nhu
cầu thị trờng; lao động; công nghệ; môi trờng kinh doanh . Vì thế, muốn nâng

cao khả năng cạnh tranh bất cứ một ngành nào cũng cần phải kết hợp tất cả
những yếu tố nói trên trong điều kiện có thể. Đồng thời phải thực hiện hàng loạt
các biện pháp và duy trì ở mức tối u các mối quan hệ đa tầng và đa chiều. Tuy
nhiên, xem xét tất cả những yếu tố và điều kiện nói trên chúng ta cũng nhận
thấy rằng việc áp dụng chúng đều hớng tới mục tiêu: nâng cao chất lợng và hạ
thấp giá thành sản phẩm nhằm mở rộng thị trờng. Ngợc lại khi sản phẩm-hàng
hoá-dịch vụ có khả năng cạnh tranh tốt thì mới có khả năng vật chất và kỹ thuật
để tái đầu t cho hoạt động sản xuất và nâng cao chất lợng, giá thành. Chính vì
vậy trong phạm vi của đề tài này tôi chỉ lựa chọn những nhân tố quan trọng nhất
và có ý nghĩa quyết định tới vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các
ngành xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Đó là các nhân tố: Giá cả; chất lợng;
nhu cầu thị trờng. Các yếu tố còn lại đợc xem nh những yếu tố phụ trợ (Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này tôi xin lựa chọn các yếu tố nói trên làm tiêu
chí đánh giá khả năng cạnh tranh của các ngành xuất khẩu dệt may của Việt
Nam) .
2) Cơ hội và những thách thức khi dệt may tham gia khu vực tự do
AFTA
2.1) Những cơ hội trong quá trình hội nhập
- Tránh tình trạng bị phân biệt đối xử, tạo dựng đợc thế và lực trong th-
ơng mại quốc tế.
Hội nhập quốc tế là quá trình hợp tác trên cơ sở có đi có lại, áp dụng
đối xử u đãi gữa các quốc gia thành viên và đối xử thuận lợi đối với các nớc
kém phát triển hơn trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, chấp thuận các luật lệ và
tập quán quốc tế. AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở cửa thị trờng cho các mặt
hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam hội nhập vào thơng mại khu vực. Thông

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
qua những nguyên tắc u đãi trong hoạt động xuất nhập khẩu của AFTA, khi
Việt Nam tham gia AFTA, các sản phẩm dệt may sẽ đợc hởng thuế u đãi thấp

hơn cả thuế suất tối huệ quốc (MFN) mà các nớc ASEAN dành cho Việt
Nam.Đồng thời dựa trên nền tảng hợp tác trong đấu tranh, tiến hành các cuộc
thơng lợng tập thể để thiết lập các thoả thuận và các luật lệ chung, quá trình
tham gia các tổ chức kinh tế, thơng mại khu vực AFTA giúp chúng ta tránh tình
trạng bị phân biệt đối xử trong quan hệ với các nớc lớn, tạo dựng đợc thế và lực
trong thơng mại quốc tế.
- Tăng thu hút đầu t và chuyển giao công nghệ
Trên cơ sở hội nhập, vì quyền lợi của mình mỗi quốc gia cần phải thu hút
vốn đầu t và sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nớc khác. Do đó khi
Việt Nam hội nhập AFTA thì cơ hội mở ra đối với ngành dệt may là tham gia
đổi mới, cải tiến công nghệ,thu hút các nguồn vốn đầu t từ nớc ngoài. Mặt khác
ngành dệt may có thể đợc hởng các khoản vay u đãi các hình thức tín dụng, các
định chế tài chính quốc tế của WB, IMF cũng nh khai thác các nguồn viện
trợ, tín dụng song phơng của các nớc ASEAN và các nớc khác.
- Hởng những u đãi thơng mại, mở rộng thị trờng
Mục tiêu giải quyết vấn đề thị trờng đợc coi là mục tiêu cao nhất của
AFTA thông qua tạo dựng sự hợp tác giữa các nớc thành viên. Trong quá trình
dàn xếp phân chia thị trờng này, những nớc không phải là thành viên AFTA sẽ
mất đi lợi thế, suy giảm sức cạnh tranh bởi những quy định chặt chẽ về thuế
quan và rào cản phi thuế quan. Do đó khi Việt Nam gia nhập AFTA sẽ đợc h-
ởng các u đãi thơng mại, đợc tạo điều kiện mở rộng thị trờng, tạo ra các thị tr-
ờng mới, có thể tham gia việc chia sẻ thị trờng ngoài khối đối với các ngành dệt
may của các nớc thành viên .
- Nâng cao vị thế quốc tế và tạo thế đứng của ngành xuất khẩu dệt may
trong quan hệ khu vực và thế giới.

9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thông qua việc hởng những u đãi thơng mại và mở rộng thị trờng , cũng
nh tận dụng triệt để các cơ hội có đợc trong tiến trình hội nhập, sẽ giúp ngành

xuất khẩu dệt may tạo đợc tiếng nói và hình ảnh của mình trên trờng khu
vực và thế giới. Đây thực sự là cơ hội lớn của chúng ta.
2.2) Những thách thức trong tiến trình hội nhập
- Về khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ.
Hội nhập, một mặt tạo điều kiện cho các ngành xuất khẩu nớc ta xâm
nhập thị trờng quốc tế, mặt khác ta còn phải chấp nhận mở cửa thị trờng cho
hàng hoá của nớc ngoài. Tham gia hội nhập là làm cho hàng hoá dệt may Việt
Nam có thêm cơ hội thâm nhập thị trờng quốc tế, nhng mặt khác cũng tạo điều
kiện cho các hàng dệt may các nớc khác xâm nhập thị trờng nội địa, do đó nó
đòi hỏi cạnh tranh của hàng hoá của ta phải tăng, để tránh tình trạng thâm nhập
thị trờng quốc tế chỉ dừng lại dạng tiềm năng, trong khi đó hàng hoá nớc ngoài
với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện tràn ngập thị trờng Việt Nam. Một yếu tố
khách quan đòi hỏi đối với hàng hoá dệt may Việt Nam là sự thay đổi về chất,
nếu nh hàng hoá Việt Nam không có sự thay đổi về chất thì chắc chắn không có
chỗ đứng ngay cả trên thị trờng quốc tế. Vì vậy đây là sức ép lớn mà ta phải
chấp nhận đơng đầu, từ đó có kế hoạch và biện pháp cụ thể để chủ động thích
ứng và vợt lên.
Đối với hàng hoá dệt may xuất khẩu, việc thực hiện các nguyên tắc về tự
do hoá mậu dịch với nội dung cắt giảm thuế quan, không hạn chế số lợng hàng
hoá nhập khẩu cũng là những thách thức vì thực chất đây là cuộc đọ sức về cạnh
tranh trên thị trờng. Tuy vậy, WTO, AFTA, APEC, ASEM cũng thừa nhận sự
cần thiết của bảo hộ mậu dịch do trình độ kinh tế của các nớc thành viên không
đồng đều, nhng chỉ cho phép bảo hộ bằng hàng rào quan thuế, không thừa nhận
bảo hộ bằng hàng rào phi quan thuế. Nh vậy, ta cần khai thác triệt để lợi thế
bảo hộ mậu dịch bằng thuế quan của các nuớc thành viên AFTA để giảm chi

10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phí, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá của hàng dệt may xuất khẩu Việt
Nam.

- Những đòi hỏi của các tổ chức quốc tế khi mặt hàng dệt may xuất khẩu
tham gia: khi mặtt hàng dệt may tham gia các tổ chức quốc tế, thì mình phải
chấp nhận sự đòi hỏi của các tổ chức này. Tức là có sự đòi hỏi về chất lợng, thủ
tục khi tham gia, điều đó đòi hỏi ngành dệt may phải cải tiến đồng bộ để phù
hợp với những đòi hỏi khi tham gia
-Thách thức về các yếu tố đầu vào bao gồm: trình độ công nghệ, vốn và
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, lao động.
Cải tiến, hiện đại hoá công nghệ là những đòi hỏi cấp thiết khi mà ngành
dệt may muốn xâm nhập thị trờng nớc ngoài. Nhng mặt khác trình độ công
nghệ cua ngành dệt may đang đặt ra nhiều thách thức lớn. So với các nớc trong
khu vực, thế giới thì phổ biến công nghệ của Việt Nam vẫn còn thấp kém, lạc
hậu 30 đến 50 năm. Vì vậy chi phí đầu vào ở các ngành Việt Nam cao hơn 30%
đến 50% so với các đối tác ASEAN, đây quả là một bất lợi lớn trong cạnh tranh
về giá của hàng hoá Việt Nam. Khả năng đổi mới công nghệ lại rất hạn chế.
Một trong những nguyên nhân của tình hình này là do chúng ta thiếu vốn cho
sản xuất, kinh doanh. Ngoài vấn đề thiếu vốn, thì việc chiếm dụng vốn của
nhau, công nợ không thanh toán đợc càng làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu
quả hơn. Điều này làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam, từ đó sẽ làm giảm đi khả năng cạnh tranh của các ngành, nhất là khi mà
tiềm lực kinh tế của các đối thủ cạnh tranh đang ngày càng tăng mạnh.
Bên cạnh yếu tố công nghệ, vốn thì yếu tố lao động cũng có những ảnh
hởng lớn khi mà ngành dệt may là một ngành sử dụng nhiều lao động. Xét về
yếu tố này so với một số nớc trong khu vực nh Singapo, Thái Lan, Malaixia v.v.
thì lực lợng lao động Việt Nam tuy có dồi dào nhng trình độ thấp ( từ trình độ
chuyên môn tay nghề, ý thức kỷ luật lao động ) trong khi đó ở các n ớc này đã
có một lực lợng các bộ khoa học kỹ thuật và một đội ngũ công nhân lành nghề

11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cã thÓ lµm chñ ®îc nh÷ng c«ng nghÖ míi, nh÷ng khoa häc kü thuËt tiªn tiÕn vµ

t¹o ra mét lîi thÕ trong c¹nh tranh.

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II: đánh giá năng lực cạnh tranh của
ngành dệt may (1996 2002)
I) Tổng quan về tình hình xuất khẩu của ngành dệt may
trong thời gian qua
1) quy mô xuất khẩu của hàng dệt may
Dệt may là ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam không chỉ tạo lợi
nhuận mà còn thu hút một lợng lao động rất lớn. Trong 10 năm trở lại đây,
ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh
tế, có những bớc tiến vợt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu
tăng liên tục trong thời gian qua. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 1338,2 triệu
USD trong năm 1996 lên 2,1 tỷ USD vào năm 2001, dự kiến năm 2002 đạt 2,4
tỷ USD (biểu 1). Với tốc độ tăng trởng bình quân 24,8%/năm, vơn lên đứng thứ
2 trong cả nớc về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí.
Năm 2001 kim ngạch hàng dệt may đạt 2 tỷ gấp 16,9 lần so với năm
1990 và chiếm tỷ trọng 13,91% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu.
Biểu 1: Kim ngạch xuất khẩu dệt may (1996-2002)

1338.2
1398
1746
1,892
2,150
2400
1450
0
500

1000
1500
2000
2500
3000
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
(dự
tính)
Năm
Nguồn: Tổng cục hải quan


13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 1: Quy mô xuất khẩu của dệt may Việt Nam so với các nớc
Tên nớc
Sản lợng sợi
(1.000 tấn)
Sản lợng
vải lụa
( 1triệu m )
Sản phẩm
may mặc
(1 triệu sp)
Kim ngạch
xuất khẩu
(1triệu USD)
Trung Quốc
ấn Độ
Bangladesh

Thái Lan
Indonesia
Việt Nam
5.300
2.100
200
1.000
1.800
85
21.000
23.000
1.800
4.200
4.400
304
10.000
-
-
2.500
3.000
400
50.000
12.500
4.000
6.500
8.000
2.100
Nguồn: VINATEX.
Qua bảng 1, ta thấy rõ Việt Nam đang còn nhiều điều yếu kém, quy mô
của ta còn thua kém các nớc trong khu vực và các nớc khác, trong đó có một số

nớc là đối thủ cạnh tranh chính, điều này gây cho ngành dệt may nhiều khó
khăn. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2001 mặc dù đã vợt qua ngỡng 2
tỉ USD nhng so với các nớc trong khu vực nh Thái Lan ta thua 2,25 lần,
Indônesia ta thua 4 lần, Trung Quốc ta thua 25 lần (bảng1) Nh vậy khả năng
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn cha tơng xứng với tiềm năng
vốn có của nó.
Trong 10 năm qua chúng ta đều thấy rõ tốc độ tăng trởng của ngành tăng
khá nhanh. Chỉ trong 3 năm 1995-1997, giá trị tổng sản lợng của ngành dệt may
đã tăng lên 20,3%, trong đó ngành dệt tăng 11,7% ngành may tăng 38,3% so
với mức 29.3% của giá trị tổng sản lợng toàn ngành công nghiệp. Sản phẩm
xuất khẩu của ngành dệt may cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nớc. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt
may đạt 1349 triệu USD, chiếm 15,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc và
chiếm trên 70% trong tổng giá trị xuất khẩu của hàng công nghiệp nhẹ và tiểu
thủ công nghiệp. Nhng từ năm 1998 đến nay tốc độ tăng lại chậm dần, năm
1999 chỉ còn 9% riêng sáu tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt

14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
may ớc thực hiện khoảng 990 triệu USD, chỉ tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái
và bằng 39,6 % kế hoạch cả năm .
Phần lớn hợp đồng xuất khẩu hàng dệt may đợc thực hiện dới dạng hợp
đồng gia công, trong đó ngời mua cung cấp cho ngời sản xuất trong nớc vải
nhập khẩu, sau đó mua lại thành phẩm. Ban đầu, loại hợp đồng này tỏ ra có lợi
cho các nhà sản xuất Việt Nam do còn thiếu kiến thức về Marketing trên thị tr-
ờng quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay lợi ích của cách tiếp cận với xuất khẩu một
cách thụ động này đang đợc đặt thành dấu hỏi. Ngời xuất khẩu bị mắc vào cái
bẫy là tạo ra giá trị gia tăng thấp, đặc biệt trong tình hình khủng hoảng vừa qua
ở Châu á, khi ngời mua đòi hạ giá cả trong hợp đồng xuống 20% so với 12
tháng trớc.

Mặt khác trong những năm qua tình hình kinh tế thế giới có giấu hiệu
chững lại, giá gia công xuất khẩu giảm khoảng 20% trong những năm qua đã
ảnh hởng tới khả năng xuất khẩu của hàng dệt may
Doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải cạnh tranh với các nhà xuất khẩu lớn
và không đợc hởng một lợi thế nào về hạn ngạch XNK trên thị trờng Đông á .
Tổng công ty lớn của Nhà nớc chiếm khoảng một nửa giá trị xuất khẩu của
ngành dệt may tỏ ra cha chuẩn bị cho thách thức này.
2) Về thị trờng xuất khẩu dệt may
Ngành dệt may hiện đang xuất khẩu sang các thị trờng có hạn ngạch và
thị trờng phi hạn ngạch.Thị trờng xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt
Nam là Nhật Bản và EU. Tại thị trờng Nhật, hàng Việt Nam đợc xếp thứ 5 về
giá trị và mức xuất khẩu trong năm 2001, tuy nhiên hiện nay đang bị sức ép lớn
từ các phía. Đến hết quý I/2002 kim ngạch xuất khẩu của dệt may vào thị trờng
Nhật Bản ớc đạt 200 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến vào tất
cả các thị trờng ớc đạt khoảng 500 triệu USD (theo dự kiến của Bộ thơng mại,
tăng 15% so với cùng kỳ năm 2001). Về hạn ngạch là thị trờng EU, xuất khẩu
không có nhiều biến động trong thời gia qua, kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm
gần đây cũng chỉ dao động ở mức từ 500-600 triệu USD/năm, và cũng không có

15

×