BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
NGÔ THỊ THỦY
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
KÍNH VẠN HOA CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kiều Anh
HÀ NỘI, 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các dữ liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ
Nguyễn Thị Kiều Anh, là sản phẩm khoa học trung thực và không trùng lặp
với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này
đều được ghi rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2013
Học viên
Ngô Thị Thủy
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Tiến sĩ Nguyễn
Thị Kiều Anh, người đã tận tình hướng dẫn, định hướng cho tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài: Thế giới nhân vật trong Kính vạn hoa của Nguyễn
Nhật Ánh.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ văn -
những thầy cô đã từng dạy dỗ tôi, Thư viện trường - nơi tôi tìm được nhiều
kiến thức và tài liệu hỗ trợ cho việc làm luận văn này, Phòng sau Đại học
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 - nơi tổ chức khóa học.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng chí đồng nghiệp đã tạo điều
kiện giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận
văn này.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2013
Học viên
Ngô Thị Thủy
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 9
6. Phương pháp nghiên cứu 9
7. Đóng góp của luận văn 9
8. Cấu trúc luận văn 10
NỘI DUNG 11
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TÁC GIẢ
NGUYỄN NHẬT ÁNH 11
1.1. Khái quát về văn học thiếu nhi 11
1.1.1 .Khái niệm 11
1.1.2. Sơ lược quá trình phát triển của VHTN Việt Nam 13
1.2. Tác giả Nguyễn Nhật Ánh 17
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp 17
1.2.2. Quan điểm sáng tác cho thiếu nhi của NNA 25
Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG KÍNH VẠN HOA CỦA
NGUYỄN NHẬT ÁNH 29
2.1. Nhân vật văn học và thế giới nhân vật 29
2.1.1. Nhân vật văn học 29
2.1.2. Thế giới nhân vật 30
2.2. Các loại nhân vật trong Kính vạn hoa 31
2.2.1. Nhân vật trẻ em 32
2.2.1.1. Tài năng, thông minh, hiếu động, thích phiêu lưu, mạo hiểm 34
2.2.1.2. Siêu quậy 47
2.2.1.3. Mơ mộng 52
2.2.2. Nhân vật người lớn 57
2.2.2.1. Nhóm nhân vật có quan hệ gia đình với nhân vật trẻ em 58
2.2.2.2. Nhóm nhân vật có quan hệ trường lớp với nhân vật trẻ em. 64
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
KÍNH VẠN HOA 69
3.1. Cách đặt tên nhân vật 69
3.2. Ngôn ngữ trẻ thơ dí dỏm 72
3.3 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật 75
3.3.1 Vừa trẻ con vừa người lớn 76
3.3.2. Năng động, tự chủ trong mối quan hệ đa chiều với thế giới xung
quanh 81
3.3.3. Nhiều tật xấu 89
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
H: Hà Nội
KVH: Kính vạn hoa
NNA: Nguyễn Nhật Ánh
Nxb: Nhà xuất bản
TS: Tiến sĩ
VHTN: Văn học thiếu nhi
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Mikhain Ilin – nhà văn Nga chuyên viết truyện khoa học cho thiếu
nhi từng tâm sự rằng: “Trước khi bắt đầu kể chuyện tôi viết văn như thế nào,
tôi muốn kể cho các bạn nghe tôi bắt đầu đọc sách như thế nào”. Còn Assen
Bossev – nhà văn Bungari, tác giả của hơn 60 tập truyện ngắn và thơ viết cho
thiếu nhi lại nói: “những cuốn sách hay đều là người bạn đời vĩnh viễn của
tuổi nhỏ; chính chúng cho trẻ con đôi cánh để bay lên mà chinh phục cuộc
sống”.Qua những trang văn thơ ấy cuộc sống với đầy đủ âm điệu, màu sắc kì
thú được tái hiện đưa các em đến thế giới của những câu chuyện cổ tích và ở
đó là cả một bầu trời tình yêu thương ấm áp. Với những lí do đó mà văn học
về đề tài trẻ thơ hay văn học viết cho trẻ thơ là mảng đề tài cực kì quan trọng.
Từ xưa các nhà văn đã hết sức chú ý đến đề tài này và nó được đánh giá là
một mảng đề tài hấp dẫn nhưng đồng thời cũng rất khó khăn.
1.2 Năm 1986, khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới trên tất cả các
phương diện của đời sống xã hội thì văn học nghệ thuật cũng không nằm
ngoài những xu hướng đó. Văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu nhi
nói riêng như bừng lên một sắc diện mới. Nổi lên trong mảng đề tài viết cho
thiếu nhi là các tác giả: Duy Khán, Nguyễn Quang Sáng, Phùng Quán, Vũ
Đức Nguyên, Vi Hồng, Vũ Bảo, … giai đoạn tiếp theo có Thu Trân, Nguyễn
Nhật Ánh, Kim Hài, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trần Thiên Hương, Nguyễn Thị
Mai…. Mỗi tác giả đều chọn cho mình một điểm nhìn riêng, một góc riêng để
viết về các em. Cũng bởi vậy mà tạo nên sự phong phú, sâu sắc trong từng
câu chuyên. Cụ thể mảng đề tài hoài niệm, tìm về tuổi thơ với: Tuổi thơ im
lặng, Dòng sông thơ ấu, Đường về với mẹ chữ, Miền xanh thẳm, Mảng đề
tài trẻ em trong quan hệ gia đình với Út Quyên và tôi, Em gái, Năm đêm với
bé Su, Chị ,…. Mảng đề tài trẻ em các gia đình khá giả và cuộc sống của
2
những trẻ nhà nghèo, vừa học vừa phải lo toan kiếm sống thậm chí là “đi
bụi”với Hoa trên đường phố, Kiềng ba chân, Ngày khai trường trong mơ,
Kính vạn hoa, Tiếp đạm,… hay mảng đề tài viết về trẻ em thôn quê có Quả
Thị đi chơi, Bờ ve ran, Làng em buổi sáng,… Đề tài miền núi có Y Leng, Kỉ
vật cuối cùng, Một lớp trưởng khác thường, Chân trời mở rộng, Chú bé thổi
khèn,… Nhìn chung, đội ngũ viết sáng tác văn học thiếu nhi từ đầu thời kì đổi
mới đã phát triển hùng hậu và được đánh giá là chưa bao giờ văn học thiếu
nhi lại phát triển phong phú như vậy, sáng tác cho các em ngày càng có sự mở
rộng về đề tài cũng như hướng tiếp cận đời sống, tiếp cận trẻ em và khả năng
khám phá con người.Trong số tác tác giả viết cho thiếu nhi và viết về đề tài
thiếu nhi nổi bật nhất là tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
1.3 Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn quen thuộc với các độc giả nhỏ tuổi,
các em nhắc đến ông với tình cảm trìu mến và coi ông như một người bạn của
mình. Nguyễn Nhật Ánh thấu hiểu tâm lí trẻ thơ một cách tinh tế, và hơn thế
văn phong của ông luôn mang nét đặc trưng là chất hài hước, dí dỏm, đáng
yêu lại rất tự nhiên khiến cho độc giả luôn cảm thấy vui vẻ, gần gũi khi đọc
các tác phẩm của ông.
Sẽ rất thiếu sót khi nhắc đến Nguyễn Nhật Ánh mà không kể đến bộ
truyện Kính vạn hoa. Bộ truyện được viết trong khoảng thời gian dài từ 1995
đến 2005 bao gồm 7 tập lớn với 54 tập truyện nhỏ. Bộ truyện KVH là thành
công lớn của tác giả với việc xây dựng thế giới nhân vật đồ sộ với hơn 200
nhân vật, chủ yếu là nhân vật trẻ em đang trong độ tuổi cắp sách đến trường
cùng với đó là thế giới nhân vật người lớn có mối quan hệ mật thiết với nhân
vật trẻ thơ. Hai nhóm nhân vật được miêu tả đan xen, lồng ghép trong tất cả
các tập truyện một cách sinh động, hài hước, thú vị lôi cuốn các em nhỏ đến
kì lạ. Tập truyện đi sâu khai thác đời sống của các em nhỏ nơi thành thị với
nhiều hoàn cảnh, tính cách, tài năng khác nhau, cùng với đó là vai trò hỗ trợ,
3
vai trò là môi trường hình thành nhân cách trẻ thơ của nhóm nhân vật người
lớn cũng hết sức quan trọng. Tác giả NNA đi sâu vào ngõ ngách tâm tư, sự
thay đổi tâm lí của lứa tuổi mới lớn một cách không thể tinh tế hơn.
Nghiên cứu về tác giả Nguyễn Nhật Ánh và các tác phẩm của ông tính
đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ, nhưng với bản thân tôi
xuất phát từ tình yêu mến trẻ thơ, khâm phục tài năng của tác giả, yêu thích
những sáng tác của nhà văn chúng tôi lựa chọn đề tài Thế giới nhân vật trong
Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh để đóng góp thêm một hướng tiếp cận
mới, góc nhìn mới về thế giới nhân vật được đánh giá là kỉ lục của văn học
Việt Nam nói chung và văn học viết cho thiếu nhi nói riêng này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đánh giá chung về KVH, trước hết, phải kể đến công trình Truyện viết
cho thiếu nhi sau năm 1975 của nhà phê bình Lã Thị Bắc Lý. Trong công
trình này, tác giả đã đề cập đến KVH dưới phương diện là một ví dụ để minh
chứng cho những đổi mới của truyện viết cho thiếu nhi thời kỳ đổi mới. Tác
giả chuyên luận đã tiếp cận tác phẩm từ phương diện nội dung với sự đa dạng
về đề tài, đổi mới quan niệm về con người và một vài phương diện nghệ thuật
như xây dựng nhân vật, giọng điệu trần thuật… “KVH của NNA đã mở ra
một thế giới đa màu sắc vô cùng hấp dẫn và thú vị”[1;41], “hàng loạt thông
tin, hàng loạt sự kiện nối tiếp nhau xoay quanh các nhân vật đầy cá tính sắc
nét…những cá tính này không bộc lộ ngầm mà tự biểu hiện bằng ngôn ngữ,
hành động hết sức sống động”[1;68]. Đây là những nhận xét hết sức xác đáng
về KVH.
Tiếp theo là những bài viết đăng trên các báo, tạp chí đã giới thiệu bộ
truyện như là một “hiện tượng best – seller”. Viết về KVH như một mẩu tin
của những kỷ lục trong thị trường sách thiếu nhi hiện nay, Lê Phương Liên
cho rằng: “Mỗi tập trong bộ truyện có khi in tới 35 nghìn bản. Đó là một con
4
số kỷ lục”[2], còn theo Dạ Sinh: “Bộ KVH của NNA đã lập kỷ lục đáng khâm
phục: Là bộ sách nhiều tập nhất (54 tập) từ trước đến nay; bộ sách thiếu nhi
có nhiều nhân vật nhất (trên dưới 200 nhân vật); bộ sách có số lượng phát
hành cao nhất trong những năm qua và tác giả nhận được thư bạn đọc nhiều
nhất”[3]. “Bộ truyện dài nhiều tập KVH của nhà văn NNA bắt đầu được ấn
hành tại NXB Kim Đồng từ năm 1995. Số bản in của bộ sách này đã vượt qua
cái mốc một triệu bản, một trường hợp quả là hiếm thấy, đặc biệt trong bối
cảnh thị trường sách hiện nay đang bị áp đảo bởi truyện tranh nước
ngoài”(Báo Thể thao và Văn hoá ngày 5/3/2002). “Lần đầu tiên trong lịch sử
xuất bản ở nước ta, bộ truyện KVH đã đạt được con số kỷ lục: hơn 1 triệu
bản in”(Báo Thanh niên ngày 28/02/2000). Huyền Sương cho rằng việc xuất
hiện KVH là “một kỷ lục mới dành cho tuổi thơ”[4]. Khi ra mắt bạn đọc,
trước không khí nôn nóng của cả người đọc lẫn NXB, KVH đã “chứa đựng
rất nhiều hy vọng cho vùng đất hứa của VHTN”. Báo Thiếu niên tiền phong
số 104 tháng 12/1995 giới thiệu KVH “là một bộ sách nhiều tập kể về những
mẩu chuyện vui ở trường, ở nhà và nhiều sinh hoạt của học trò hiện nay”.
Hay trong báo Nhi đồng số 17 (535) tháng 12/1996 nói về sự đón nhận của
bạn đọc nhỏ tuổi cả nước “đó là một bộ sách mới mẻ, lần đầu tiên ra mắt bạn
đọc mà đã sớm được thiếu nhi hai miền Nam, Bắc say mê. Nhà văn NNA đã
từ tốn và tỉ mỉ trân trọng và dí dỏm kể lại những câu chuyện sinh hoạt rất
thường nhật của trẻ nhỏ. Trẻ con có biết bao chuyện “riêng tư”, lo âu, thấp
thỏm, mơ ước… mà người lớn đôi khi dửng dưng không hiểu”. Sự đa dạng
trong đề tài được thể hiện trong mỗi câu chuyện giống như những biến thể ảo
huyền, lung linh đủ màu sắc trong bộ truyện theo nhà thơ Đỗ Trung Quân là
“những cú lắc”của chiếc KVH kỳ diệu”[5]; theo nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn
là “bộ tiểu thuyết trường thiên về sinh hoạt tuổi học trò”[6]; còn theo nhà văn
Văn Hồng là “bộ tiểu bách khoa cho thiếu nhi”[7]. Nhà nghiên cứu Vân
5
Thanh nhận xét KVH là “bộ sách liên hoàn, mỗi tập một màu sắc óng ánh,
phản ánh cuộc sống linh hoạt của các em, một cuộc sống bình thường nhưng
chứa bao điều mới mẻ, trong các mối quan hệ giữa con cái và bố mẹ, trò đối
với thầy cô và trong thế giới nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”[8; 73-78]. Tác
giả đã viết về “cuộc sống bình thường, cuộc sống hôm nay, cuộc sống như nó
vẫn thường xảy ra thường ngày quanh ta”[9]. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện nhận
định: “KVH dẫn dắt các em từ thành phố Hồ Chí Minh đến thôn quê, từ
chuyện đánh võ, ma quỷ, gái giả trai đến chuyện trinh sát, khoa học. Cũng có
nhiều pha bí ẩn, ly kỳ nhưng vẫn giữ được tính cách Việt Nam”[10]. Nhận xét
về sự phổ biến của các đề tài về nhà trường trong KVH – vốn “hiếm và
mỏng” trong sáng tác VHTN, Hương Giang cho rằng NNA đã miêu tả “là
những chuyện bình thường hàng ngày vẫn xảy ra, trong lớp học nào cũng có,
ở đâu cũng có, lúc nào cũng có”[11].
Trong cuốn Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam, tác giả Vân Thanh đã
trích dẫn lời nhận xét của Nguyễn Hương Giang trích trong Tạp chí Văn nghệ
quân đội – 8.2000: “Ai cũng biết: nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò. Nguyễn
Nhật Ánh biết đến từng chân tơ kẽ tóc, biết đến ngọn ngành những trò nghịch
ngợm của lũ chỉ đứng sau lũ ma quỷ ấy. Nhu cầu vui chơi của tuổi thơ cũng
cần thiết vì nó không những giữ tính hồn nhiên mà còn tạo ra niềm vui, sự
hưng phấn để các em say mê học tập hơn, có kết quả hơn… Anh hiểu và nói
trúng những suy nghĩ non nớt, những tính toán bé bỏng, ngây thơ và bao giờ
cũng mang một nụ cười hóm hỉnh, độ lượng, nhân từ…[24, 54 – 55].
Trên trang web www.denthan.com cũng có lời giới thiệu về cuốn sách:
“Nhà văn mời người đọc lên chuyến tàu quay ngược trở lại thăm trẻ thơ và
tình bạn dễ thương của 4 bạn nhỏ. Những trò chơi dễ thương thời bé, tính
cách thật thà, thẳng thắn một cách thông minh và dại dột, những ước mơ tự
do trong lòng… khiến cuốn sách có thể làm các bậc phụ huynh lo lắng rồi thở
6
phào. Không chỉ thích hợp với người đọc trẻ, cuốn sách còn có thể hấp dẫn
và thực sự có ích cho người lớn trong quan hệ với con mình”[25].
Ngoài ra, mỗi tập truyện trong KVH đều có những bài viết riêng của bạn
đọc nhỏ tuổi. Có tới hơn 5000 bức thư của độc giả nhí gửi về cho chú Ánh bày
tỏ những cảm nhận, sự sẻ chia, những bức xúc về nội dung câu chuyện hoặc
cảm động (Mẹ vắng nhà, Những con gấu bông, Bí mật kẻ trộm…) hoặc
buồn cười (Thi sĩ hạng ruồi) hoặc những câu chuyện đầy hồi hộp, ly kỳ (Cú
nhảy kinh hoàng, Cuộc so tài vất vả….) nhưng các bài viết đều tự rút ra các
bài học hoặc một ý nghĩa nào đó qua một câu chuyện cụ thể. Có nhiều độc giả
còn viết thư về cho các nhân vật như là kể chuyện cho chính những người bạn
đã quen biết lâu, không chỉ là những độc giả nhí mà có cả những phụ huynh
nhiều tuổi. Có khi là một lá thư nài nỉ “chú Ánh” sáng tác thật nhanh, có khi
“kể khổ” khi chờ mua truyện đọc, có khi “nóng lòng chờ kết bạn”với các
nhân vật… Đặc biệt, có em còn làm thơ, vẽ tranh để thể hiện tình cảm cũng
như những đánh giá của mình về bộ truyện mặc dầu với tâm trạng của fan
hâm mộ đôi khi không tránh khỏi sự cuồng nhiệt đến quá lời.
Cuối cùng dẫn lời của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh: “Thủa bé, tôi mê cái
kính vạn hoa và bây giờ, đã lớn tôi vẫn mê thứ đồ chơi này. Nếu được bỏ
phiếu, tôi sẽ không ngần ngại bình chọn ống kính vạn hoa là đồ chơi kì thú
nhất của tuổi thơ, là quà tặng tuyệt diệu nhất mà người lớn đã nghĩ ra cho trẻ
em. Hằng hà bông hoa lần lượt xuất hiện dưới tay mình, chỉ sau mỗi cái lắc
nhẹ những cánh hoa không ngừng thay dáng, những sắc hoa không ngừng đổi
màu, có tới hàng vạn, hàng triệu những bông hoa như thế, và tuyệt vời thay,
không bông hoa nào giống bông hoa nào trong hàng vạn, hàng triệu cái kia.
Tôi ao ước những tập Kính vạn hoa của mình cũng sẽ đem lại cho các độc giả
nhỏ tuổi điều gì na ná như thế: Cứ lắc một cái, một câu chuyện mới lại hiện
ra….”[26]. Và từ những thôi thúc đó, Nguyễn Nhật Ánh đã tặng cho các em
7
nhỏ bộ truyện Kính vạn hoa, với 7 tập truyện lớn 54 tập truyện nhỏ, mỗi tập
truyện chính là một bông hoa nhỏ xinh, nhiều màu sắc, có khi đó là câu
chuyện về tình yêu thương trong gia đình, tình yêu thương với các con vật, có
lúc là câu chuyện mối quan hệ bạn bè, thầy trò, đôi lúc đó là những chuyến
thám hiểm vô cùng kỳ thú, và cả những câu chuyện về những rung động của
tuổi mới lớn thật phức tạp và khó hiểu.
Những công trình nghiên cứu chuyên biệt về tác giả Nguyễn Nhật
Ánh: Theo thống kê của chúng tôi, tính đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu về tác giả Nguyễn Nhật Ánh và những vấn đề nổi bật trong sáng tác của
ông. Chúng tôi liệt kê theo trình tự thời gian như sau:
Năm 2005, công trình: “Thế giới trẻ thơ qua cái nhìn của Nguyễn Nhật
Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa” của học viên Phạm Thị Bền, chuyên
ngành Văn học Việt Nam, trường Đại học sư phạm Hà Nội. Đây có thể coi là
công trình nghiên cứu chuyên sâu khá xuất sắc về cách tiếp cận thế giới trẻ
thơ của tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa.
Năm 2009, công trình: “Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh”
của học viên Vũ Thị Hương, chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại,
trường Đại học sư phạm Hà Nội. Công trình khoa học này lại đánh giá một
cách tổng quát về phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật trong hầu hết
những sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh.
Năm 2011, công trình: “Đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh” của học
viên Bùi Thị Thu Thủy, chuyên ngành Lí luận văn học, trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn. Đây là công trình thuộc chuyên ngành lí luận văn học
bởi vậy mà tác giả đưa ra cơ sở lí luận tiếp sau đó áp chúng vào những sáng
tác của NNA từ đó làm nổi bật lên những đặc điểm lớn của truyện NNA.
Từ những đánh giá, nhận xét xác đáng trên, cùng với những công trình
nghiên cứu công phu của các tác giả như trên đã cho thấy sự quan tâm của
8
độc giả, giới nghiên cứu đến “hiện tượng” NNA là không hề nhỏ. Mặc dù
vậy, đến nay vẫn chưa có công trình nào tập trung khai thác đầy đủ về “Thế
giới nhân vật trong Kính vạn hoa của Nguyến Nhật Ánh”. Bởi vậy, chúng tôi
mạnh dạn đưa ra một hướng tiếp cận mới về phương diện này. Tất cả những ý
kiến đánh giá, nhận xét, những công trình khoa học nêu trên là những tư liệu
quý báu giúp chúng tôi triển khai công trình nghiên cứu của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một cách cặn kẽ, sâu sắc và cụ thể thế giới nhân vật trong
Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh
- Những đặc sắc nghệ thuật trong việc xây dựng thế giới nhân vật
- Khẳng định tài năng, vai trò và những đóng góp của Nguyễn Nhật Ánh
trong nền văn học viết cho thiếu nhi nói riêng và văn học Việt Nam nói chung
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong phạm vi có hạn của một luận văn, chúng tôi tập trung nghiên
cứu những nội dung chính như sau:
- Khái quát về văn học thiếu nhi và tác giả Nguyễn Nhật Ánh
- Sơ lược lí luận về nhân vật văn học và thế giới nhân vật
- Khai thác thế giới nhân vật đồ sộ trong Kính vạn hoa làm nổi bật lên
sự phong phú, đa dạng trong thế giới nhân vật, cách khắc họa tính cách, cách
thâm nhập vào đời sống của nhân vật để thấy rõ tài năng của tác giả NNA,
tâm huyết của ông với thiếu nhi, và những phương diện liên quan đến sự hình
thành nhân cách thiếu nhi.
Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Kính vạn hoa cũng là
nhiệm vụ lớn trong luận văn góp phần tạo nên một Kính vạn hoa có một
không hai trong nền văn học thiếu nhi Việt Nam tính đến thời điểm này.
9
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu thế giới
nhân vật trong Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh
Phạm vi đề tài: Bộ truyện Kính vạn hoa của tác giả Nguyễn Nhật Ánh
(Nhà xuất bản Kim Đồng, 2005).
Ngoài ra luận văn còn tham khảo thêm một số tác phẩm khác của nhà
văn, một số tài liệu tham khảo, bài viết trên internet trong quá trình thực hiện
đề tài với mục đích tạo sự so sánh khi cần thiết và tạo sự phong phú cho đề
tài, dẫn chứng và minh chứng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn
vận dụng một một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thống kê
7. Đóng góp của luận văn
Tập trung nghiên cứu thế giới nhân vật trong bộ truyện Kính vạn hoa của
Nguyễn Nhật Ánh nhằm:
Về mặt lí luận: Với đề tài luận văn này, người nghiên cứu sẽ làm nổi bật
nét đặc sắc về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong bộ
truyện Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh.
Về mặt thực tiễn: Thông qua đề tài này, người viết mong muốn tìm hiểu
rõ hơn về những đóng góp của Nguyễn Nhật Ánh trong việc nghiên cứu,
khám phá và cách tân văn học thiếu nhi hiện nay. Qua đó khẳng định tài năng,
vị trí của nhà văn trong nền văn học mới, giúp bạn đọc thấu hiểu tâm huyết
của tác giả dành cho trẻ thơ và sự nghiệp giáo dục nhân cách trẻ thơ.
10
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo nội dung chính
của luận văn được triển khai thành 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về văn học thiếu nhi và tác giả Nguyễn Nhật Ánh
- Chương 2: Thế giới nhân vật trong Kính vạn hoa của Nguyễn
Nhật Ánh
- Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Kính vạn hoa của
Nguyễn Nhật Ánh
11
NỘI DUNG
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TÁC GIẢ
NGUYỄN NHẬT ÁNH
1.1. Khái quát về văn học thiếu nhi
1.1.1 .Khái niệm
Văn học thiếu nhi (VHTN) là một bộ phận của nền văn học dân tộc. Mặc
dù ra đời sau và phát triển muộn hơn các bộ phận văn học khác, nhưng VHTN
đã có những đóng góp quan trọng trong đời sống văn học cả về mặt nội dung
lẫn hình thức biểu hiện. “Văn học thiếu nhi”(cách gọi khác là “văn học trẻ
em”nhưng ở đây xin thống nhất là “VHTN”) có một vai trò đặc biệt quan
trọng không những trong đời sống trẻ thơ mà cả trong nền văn học dân tộc.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, VHTN theo nghĩa hẹp “gồm những
tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi… gồm một
phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi
vào phạm vi đọc của thiếu nhi [12;342]. Nhưng cũng có quan niệm “chỉ
những tác phẩm viết cho thiếu nhi một cách trực tiếp mới thuộc bộ phận
VHTN”. Hiện chưa có một khái niệm chính xác và đầy đủ thế nào là VHTN
mà chỉ có những tiêu chí để xác định khái niệm này. Thứ nhất là tính chất
giáo dục trong tác phẩm viết cho thiếu nhi phải được đặt ra một cách rõ ràng,
dứt khoát và đưa lên hàng đầu (yêu cầu này đối với tác phẩm văn học cho
người lớn cũng rất quan trọng nhưng đối với thiếu nhi lại càng đặc biệt quan
trọng hơn); thứ hai là có hình thức tươi vui, hồn nhiên, dí dỏm, giàu yếu tố
tưởng tượng; thứ ba là hình tượng văn học phải chân thực, cụ thể, sinh động,
phù hợp với tâm lý trẻ thơ; thứ tư là ngôn ngữ phải trong sáng, giản dị và dễ
hiểu. Nhà văn NNA thì quan niệm: “Tác phẩm VHTN trước hết và chủ yếu là
những tác phẩm viết cho thiếu nhi chứ không chỉ là viết về thiếu nhi”[93].
VHTN là văn học phục vụ cho những bạn đọc nhỏ tuổi, do đó phải xem thiếu
12
nhi là đối tượng cảm thụ chứ không đơn giản chỉ là đối tượng miêu tả, dù
rằng viết về thiếu nhi cho thiếu nhi đọc bao giờ cũng được xem là phương
pháp thích hợp nhất. Sứ mệnh của VHTN được nhắc đến trong Tạp chí Văn
học số 5/1993 như sau: “Nếu sự tồn tại và phát triển của dân tộc, cũng như
nhân loại trong các tương lai gần và xa là đặt vào thế hệ thiếu nhi thì câu
chuyện về VHTN, câu chuyện về các món ăn tinh thần cho thiếu nhi chúng ta
bàn hôm nay và ở đây không thể xem là một câu chuyện “nhỏ”, “ngoài lề” mà
là câu chuyện nghiêm trang của tất cả mọi “người lớn”, của các bậc cha mẹ,
của các thầy cô, và cố nhiên, của tất cả những người viết cho thiếu nhi, của tất
cả những ai có quan tâm và có trách nhiệm đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục thiếu nhi”.
Do “tính đặc thù của nền VHTN là ở chỗ nó chiếu cố đến đặc điểm của
độc giả thiếu nhi và chiếu cố đến tính đặc thù và tâm lý nhi
đồng”(Coócnhiêvích) nên VHTN ở dân tộc nào, đất nước nào cũng đến được
với thiếu nhi, tồn tại trong lòng độc giả nhí bằng chính sức sống tiềm tàng theo
cách riêng của nó. Mỗi “tác phẩm văn học viết cho các em là một công trình sư
phạm. Người viết cần cân nhắc nên nói cái gì, nói như thế nào để có lợi cho
tâm hồn các em mà không ảnh hưởng đến sự thể hiện nghệ thuật ”(Võ Quảng)
dù là thể loại nào. Nhà văn Mác Tuên (Mark Twain) cũng quan niệm: “Cách
viết truyện cho trẻ em đúng đắn nhất phải viết sao cho tác phẩm không chỉ thú
vị đối với các em bé, mà còn cực kỳ thú vị với bất cứ ai đã từng là một em bé”.
Bởi “với trẻ con, tất cả những điều các em nghe thấy, nhìn thấy, đọc thấy đều
là những điều các em mang theo suốt cả cuộc đời mình”[13;6-7]. Các tác phẩm
VHTN không chỉ dẫn các em đến một chân trời kiến thức rộng mở, mà còn
giúp các em hình thành nhân cách cũng như khiếu thẩm mĩ của mình. Do đó,
các tác phẩm văn học này thực sự đã trở thành bầu sữa ngọt lành nuôi dưỡng và
sưởi ấm tâm hồn các em và theo các em trong suốt cuộc đời.
13
1.1.2. Sơ lược quá trình phát triển của VHTN Việt Nam
VHTN Việt Nam xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, ban đầu chỉ là một số tác
phẩm lẻ tẻ chứ chưa thực sự có phong trào. Đội ngũ tác giả là những nhà văn
chuyên nghiệp nhưng tác phẩm viết cho thiếu nhi chỉ là sự “thêm vào” trong
toàn bộ sáng tác văn chương của họ như Tản Đà, Nam Cao, Tô Hoài, …
Trong số các tác phẩm ít ỏi đó cũng có những tác phẩm trở thành bất hủ trong
kho tàng VHTN, là cuốn sách vàng một thưở và được dịch ra nhiều thứ tiếng
trên thế giới như Dế mèn phiêu lưu ký.
Trong khoảng hai thập niên cuối thế kỉ XX, văn học thiếu nhi (VHTN)
Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận. Đó là một nền văn
học với đội ngũ nhà văn đông đảo, đa dạng về độ tuổi và phong cách; năng
động về sức tìm tòi, khám phá, đổi mới tư duy và cách tiếp cận cuộc sống đa
dạng, đa chiều. Các nhà văn lớp trước như Tô Hoài, Phạm Hổ, Trần Hoài
Dương, Nguyễn Quỳnh mặc dù tuổi cao nhưng vẫn cần mẫn viết cho các em.
Tô Hoài rất thành công với mảng đề tài truyện cổ viết lại (Chuyện nỏ thần,
Nhà Chử, 101 truyện ngày xưa…); Phạm Hổ với truyện cổ tích hiện đại
(Chuyện hoa, chuyện quả…); Trần Hoài Dương với những truyện đầy chất
thơ về cỏ cây hoa lá và kí ức tuổi thơ (Nhớ một mùa hoa thạch thảo, Cô bé
mảnh khảnh, Hoa cỏ thì thầm, Miền xanh thẳm…)… Đến đầu những năm
90, đội ngũ viết cho các em được bổ sung thêm nhiều cây bút trẻ như Trần
Thiên Hương, Nguyễn Quang Thiều, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Nhật Ánh, Hà
Lâm Kì, Quách Liêu, Phan Hồn Nhiên (về truyện) và Phùng Ngọc Hùng,
Trương Hữu Lợi, Dương Thuấn, Mai Văn Hai (về thơ). Tiếp nữa là những
cây bút không chỉ trẻ về tuổi nghề mà còn rất trẻ về tuổi đời. Họ là những
người vừa chia tay với tuổi thơ, đang hăm hở bước vào đời như Hoàng Dạ Thi,
Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Thị Châu Giang, Thu Trân, Quế Hương,
Nguyễn Thúy Loan Lớp người viết trẻ này đã đem đến cho văn học thiếu nhi
14
những nét mới trẻ trung, tươi tắn, đầy nhiệt huyết. Một lực lượng nữa cũng góp
phần làm phong phú thêm cho đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi, đó là chính
các em. Có thể thấy rõ điều này qua những tác phẩm Tuổi xanh, Mực tím, báo
Thiếu niên tiền phong, Hoa học trò, Văn học với tuổi thơ
Nhìn chung, đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi từ thời kì Đổi mới đã
phát triển thật hùng hậu. Nó chứng tỏ tính chuyên nghiệp của bộ phận sáng
tác cho các em. Và cũng vì vậy mà chưa bao giờ, văn học thiếu nhi Việt Nam
lại phát triển phong phú và đa dạng như ở thời kì này. Sáng tác cho các em
ngày càng có sự mở rộng đề tài cũng như hướng tiếp cận đời sống, tiếp cận trẻ
em và khả năng khám phá con người. Với những thành tựu như vậy, VHTN
xứng đáng giữ một vị trí quan trọng, góp phần làm nên diện mạo của nền văn
học dân tộc.
Được tạo đà từ một thành tựu rực rỡ như vậy, văn học thiếu nhi Việt
Nam bước sang thế kỉ XXI tràn đầy sức sống, vừa hội nhập với thế giới, vừa
giữ gìn và phát huy những nét truyền thống của nguồn mạch văn học dân tộc.
Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quỳnh, Dương Thuấn… là những nhà văn
giao thời của hai thế kỉ. Nổi lên từ những năm cuối thế kỉ XX, họ vẫn giữ được
phong độ và cảm hứng sáng tạo trong thế kỉ mới. Với thành công đặc biệt
của Kính vạn hoa cùng với gần ba mươi tập sách khác viết cho lứa tuổi hoa
học trò, Nguyễn Nhật Ánh được bình chọn là tác giả tiêu biểu nhất của VHTN
Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX. Sang đầu thế kỉ XXI, anh đột ngột
“chuyển hướng” sang lối kể chuyện hoang đường, kì bí. Bộ truyện dài nhiều
tập Chuyện xứ Lang-bi-ang là sự thử nghiệm một lối viết mới của nhà văn
được các bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích. Nguyễn Nhật Ánh đã làm được một điều
kì diệu, đó là đem đến cho bạn đọc trẻ thơ sự thú vị và niềm vui háo hức mong
chờ những tác phẩm tiếp theo của anh. Và quả nhiên, Nguyễn Nhật Ánh đã
không làm bạn đọc thất vọng. Anh tiếp tục trình làng Cho tôi xin một vé đi tuổi
15
thơ. Vẫn với lối viết dí dỏm kiểu Kính vạn hoa, Tôi là Bê tô nhưng dấu ấn tâm
trạng tác giả đã in đậm nét hơn, tâm trạng của con người càng đi xa tuổi thơ
càng da diết nhớ về tuổi thơ. Đây là tập sách được giải thưởng của Hội nhà văn
Việt Nam và giải thưởng Asean, 2010… Cùng với Tôi thấy hoa vàng trên cỏ
xanh và Lá nằm trong lá, Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ… Nguyễn Nhật
Ánh đã thể hiện sức viết bền bỉ của mình.
Cũng như Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quỳnh, nhà thơ người Tày Dương
Thuấn là tác giả viết cho thiếu nhi thành công giữa hai thế kỉ. Bình tĩnh với
lối viết truyền thống, Dương Thuấn giới thiệu với bạn đọc con người và mảnh
đất vùng cao Bắc Kạn quê anh. Sau tập thơ Cưỡi ngựa đi săn được tặng giải
A Giải thưởng Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam, 1992, Dương
Thuấn vẫn tiếp tục cuộc hành trình với khát vọng giới thiệu được thật nhiều
hình ảnh của quê hương và văn hóa dân tộc Tày tới mọi người.
Bên cạnh những cây bút trưởng thành từ thế kỉ XX là những gương mặt
trẻ mới xuất hiện như Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Lãm
Thắng, Đặng Chân Nhân và Ngô Gia Thiên An
Nguyễn Ngọc Thuần mở đầu cho văn học thiếu nhi Việt Nam thế kỉ XXI
bằng những tác phẩm liên tiếp được giải cao: Giăng giăng tơ nhện (Giải ba
cuộc vận động Sáng tác văn học tuổi 20 năm 2000), Vừa nhắm mắt vừa mở
cửa sổ (Giải A cuộc thi sáng tác văn học Vì tương lai đất nước lần thứ ba
2001-2002, giải thưởng Peter Pan của Thụy Điển năm 2008 dành cho những
tác phẩm văn học thiếu nhi hay nhất). Một thiên nằm mộng (Giải A cuộc vận
động sáng tác cho thiếu nhi (2001-2002).
Nguyễn Ngọc Tư viết cho thiếu nhi không nhiều. Khiêm tốn một tập
truyện Ông ngoại với tám câu chuyện nhỏ nhắn, xinh xắn nhưng cũng đủ cho
bạn đọc cảm nhận về một Ngọc Tư giản dị mà tinh tế; nhỏ nhẻ mà sâu sắc.
Nhà thơ trẻ Nguyễn Lãm Thắng với 1008 bài thơ thiếu nhi đã thực sự chinh
16
phục bạn đọc bởi những vần thơ đầy tâm huyết. Tập thơ hiếm hoi dành cho
thiếu nhi của Vi Thùy Linh Chu du cùng ông nội (gồm 23 bài) là những kỉ
niệm về tuổi thơ, về gia đình, về ông nội. Hai tác giả thực sự trẻ là Đặng Chân
Nhân (sinh năm 1993) với Giấc mơ và Ngô Gia Thiên An (sinh năm 1999)
với tập thơ đầu tay Những ngôi sao lấp lánh đã đem đến cho bạn đọc một cái
nhìn mới mẻ về cuộc sống , thiên nhiên và vũ trụ của thế hệ trẻ ngày hôm nay.
Kể từ sau Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Khánh Chi, Hoàng Dạ Thi, Ngô Thị
Bích Hiền… rất lâu, bạn đọc Việt Nam mới lại được đọc những trang thơ hồn
nhiên, trong trẻo do chính các em viết. Năm 2011, khi Nhà xuất bản Kim
Đồng phát hành Giấc mơ và Những ngôi sao lấp lánh, nhiều người đã gọi
hai tác giả này là “Thần đồng”thơ thế kỉ XXI. Thiên An viết về cuộc sống với
những sự việc xảy ra xung quanh cùng những điều em băn khoăn và mơ ước,
Thơ Chân Nhân cũng là những câu chuyện về gia đình, về vũ trụ, cuộc sống,
thiên nhiên và cây cỏ nhưng mang vẻ hồ nghi, già dặn so với tuổi của em.
Một số tác giả nổi lên từ giải thưởng Cây bút Tuổi hồng (Giải thưởng hàng
năm của Trung ương Đoàn TNCS Hồ chí Minh , Báo Thiếu niên tiền phong
phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam, bắt đầu từ năm 2011) như Đỗ Tú Cường
(TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Đan Thi (Hà Nội), Võ Hương Nam (Đắc Lắc)…
cũng góp phần làm nên sự đa dạng của Văn học thiếu nhi những năm gần đây.
Có thể nói, trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, văn học
thiếu nhi Việt Nam đã ghi những thành tựu đáng kể, khẳng định vị trí của
mình trong nền văn học dân tộc thời kì hội nhập. Sự đa dạng trong phong
cách, trong giọng điệu làm nên sức hấp dẫn của văn học thiếu nhi giai đoạn
này. Cũng không phải mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm chỉ có một giọng điệu mà
đôi khi còn có sự phối hợp, xen kẽ, tạo nên sự đa dạng ngay trong một tác giả.
Đặc biệt là giọng tinh nghịch, hóm hỉnh, mang tính đặc thù của VHTN vẫn
được phát triển. Chất hóm, nghịch gây cho người đọc những tiếng cười sảng
17
khoái được vận dụng như một phương tiện giúp các em tiếp nhận tác phẩm
một cách vui vẻ, thoải mái. Nhìn chung, sự đa dạng của giọng điệu đã chứng
tỏ tính cập nhật của VHTN hiện nay, không xa rời, lạc lõng với đời sống xã
hội và đời sống văn học nói chung; vừa hoà đồng với văn học Việt Nam hiện
đại, vừa tỏ rõ sức mạnh là một bộ phận văn học riêng - văn học dành cho trẻ
em.
Mặc dù trước sự cạnh tranh khốc liệt với VHTN ngoại nhập, VHTN Việt
Nam từ thời kỳ đổi mới đã có những chuyển biến rõ rệt, có đóng góp tích cực
cả về chất và lượng trong nền văn học dân tộc. Từ đội ngũ tác giả ngày càng
đông đảo, số lượng tác phẩm nhiều, phạm vi đề tài và loại hình nhân vật cũng
như các hình thức nghệ thuật được mở rộng… Tuy nhiên, VHTN Việt Nam
cũng chưa thực sự sánh ngang tầm với VHTN thế giới, chưa xuất hiện nhiều
phong cách tác giả, chưa có nhiều những đỉnh cao nghệ thuật cũng như các
tác giả chuyên tâm…
1.2. Tác giả Nguyễn Nhật Ánh
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp
NNA sinh ngày 7.5.1955 ở xã Bình Quế, huyện Thăng Bình tỉnh Quảng
Nam. Quê hương có“chợ Đo Đo” ở chỗ “quán Gò đi lên”, có món mì Quảng
“nhiều tôm thịt”, có cái giọng trọ trẹ, lơ lớ… đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi
người con đất Quảng. Tuổi ấu thơ gắn bó với gia đình, làng xóm quê hương
đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn mà mỗi khi hồi tưởng lại nó như một đoạn
phim không có đoạn dừng. Vùng quê tươi đẹp trù phú với những ngõ trúc
quanh co đầy lá rụng; với những rừng sim, đồi trâm mênh mông; với những
phiên chợ đêm nghèo nàn; với cái giếng đá đầy rêu; với những cây bàng lá
đỏ; với những mùa thị đầy xác hoa và vỏ thị khô trên tường đánh lừa những
con bướm nhỏ… đã in đậm trong ký ức tuổi thơ. Vùng quê đó đã trở thành
một tình yêu, một nỗi nhớ khắc khoải, một nỗi niềm bồn chồn day dứt, một sự
18
mắc nợ chưa bao giờ trả hết, cứ trở đi trở lại lúc hiển hiện lúc thấp thoáng
trong các sáng tác của NNA.
NNA tâm sự: “Đo Đo là một ngôi làng nhỏ ở xã Bình Quế, huyện Thăng
Bình, Quảng Nam. Đó là nơi tôi sinh ra và lớn lên trong quãng thời gian đầu
đời vô tư lự. Năm tôi lên tám, gia đình tôi dời về Cẩm Lũ, sau đó dọn ra
huyện lỵ Hà Lam. Như vậy, tôi gắn bó thực sự với làng Đo Đo chỉ khoảng tám
năm. Tám năm, một thời gian không dài, tôi lại ở độ tuổi còn quá nhỏ, nhưng
không hiểu sao rất lâu về sau này tôi vẫn nhớ như in những kỷ niệm ở ngôi
làng đơn sơ đó. Tôi nhớ ngôi chợ đêm lấp lánh ánh đèn, nhớ những đoàn xiếc
lưu diễn thỉnh thoảng vẫn đến làng tôi và làm bọn trẻ con chúng tôi khiếp vía
với những con trăn lớn quấn quanh cổ bọn người bán dạo. Tôi nhớ những cái
giếng trên con đường cuối chợ ba tôi vẫn dẫn tôi đi tắm vào những đêm trăng
sáng trên đường làng. Những hình ảnh thơ mộng ấy sau này đã đi vào trang
sách của tôi như những phản quang tuyệt vời của kỷ niệm”. Trong 1 lần khác
“Tôi là nhà văn. Nên tôi thỏa nỗi nhớ quê của mình theo cách của người hành
nghề bằng con chữ. Những kỷ niệm, những vùng đất, những gương mặt bạn
bè ấu thơ thi nhau hiện lên trong hết cuốn sách này đến cuốn sách khác. Đến
bây giờ, tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: có phải đó là nguyên nhân sâu xa khiến tôi
trở thành nhà văn chuyên viết cho tuổi thơ - một thế giới lung linh mà một kẻ
tha hương không nguôi nhớ đến và tìm mọi cách tái tạo trong những trang
viết của mình?” [18].
Miền thơ ấu gắn với quê hương dù chỉ là ngắn ngủi nhưng đã trở thành
một nỗi nhớ xứ sở vẹn nguyên và rực rỡ. NNA cũng thừa nhận: “Tôi xa
quê hương, gia đình từ rất sớm – do đó nỗi nhớ xứ sở trong tôi bao giờ
cũng nguyên vẹn và rực rỡ. Như một người đánh mất tuổi thơ sớm nên khi
cầm bút viết về tuổi mới lớn là biết bao kỷ niệm ùa về, xúc cảm cứ tràn vào
trang viết…”[15]. Do vậy, ẩn ức về miền tuổi thơ cứ lẩn khuất trong tác
19
phẩm của anh như nhập nhoà giữa trí nhớ, cảm xúc đã thuộc về quá khứ
với hiện tại. Nhà văn như hồi tưởng lại tuổi thơ của chính mình và viết như
một sự giãi bày, một sự sẻ chia. Chính những kỷ niệm tuổi thơ rất phong
phú, giàu có ở quê hương của một cậu học trò tinh ý, giàu tình cảm NNA là
một chất xúc tác, là một nguồn cảm hứng dồi dào tạo nên nhà văn chuyên
viết cho thiếu nhi – NNA.
Trên trang Facebook cá nhân của mình tác giả NNA có bài viết nói lên
cảm xúc của tác giả khi được về lại quê xưa, gặp lại những thầy cô của mình:
“…tôi về lại Đo Đo làm ông giáo làng. Tôi dạy ở trường Tiểu học năm nào
và trở thành đồng nghiệp của cô Thung và các thầy cô trước từng dạy dỗ tôi.
Các thầy cô thấy tôi về, mừng lắm. Hôm đầu tiên, cô Thung nhìn sững tôi và
kêu lên mừng rỡ:
- Ôi thây Ngạn đó hả? Trông thầy khác hồi nhỏ dữ a!
Cách xưng hô của cô Thung khiến tôi ngượng đỏ mặt. Tôi bối rối nói:
- Cô đừng gọi em là thầy! Cô cứ kêu em bằng em như ngày xưa!
Bỗng dung tôi nhớ tới kỉ niệm năm nào và buột miệng:
- Hổi xưa em vẫn thường tranh nhau đi … rót nước cho cô.
Cô Thung mỉm cười:
- Thầy nhắc làm chi! Hồi xưa khác, bây giờ khác. Hồi xưa thầy đi học,
bây giờ thầy đi dạy. Làm sao tôi kêu thầy bằng em được!
Trước lí lẽ cứng nhắc của cô, tôi đành xuống nước:
- Vậy thôi, cô kêu em bằng tên! Cô đừng kêu em bằng thầy, em áy náy lắm!
Cô Thung suy nghĩ một lát rồi gật gù:
- Vậy cũng được! Tôi sẽ kêu Ngạn là Ngạn!
Tôi mừng quýnh. Từ đó, các thầy cô trong trường đều bắt chước cô
Thung, gọi tôi bằng tên. Tôi là cái thằng Ngạn ngày xưa, trùm đánh nhau,
chúa bị phạt, bữa nào đi học về cũng rách quần rách áo, bươu cổ u đầu, nay