Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.55 KB, 87 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Thế giới kinh doanh khắc nghiệt của con ngời không nằm ngoài quy luật
của thuyết "Tiến hoá": bất kỳ một thành viên nào của thế giới cũng phải luôn luôn
đấu tranh để sinh tồn, mà trong kinh doanh chúng ta gọi là "cạnh tranh". Trong
thời kỳ bao cấp, ngành ngân hàng Việt Nam nằm ngoài quy luật phát triển này và
chậm bớc so với toàn thế giới. Cùng với sự đổi mới trong hệ thống ngân hàng theo
cơ chế thị trờng, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng quyết liệt.
Hoạt động cho vay trung và dài hạn nhận đợc nhiều sự quan tâm chú ý do tầm
quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế cũng nh sự phát triển bền
vững của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại
trong hoạt động cho vay trung và dài hạn hiện nay là một vấn đề bức xúc cần có
hớng giải quyết đúng đắn.
Trong thời gian thực tập tại ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam, em nhận
thấy ngân hàng có những lợi thế cạnh tranh nhất định trong hoạt động tín dụng
trung và dài hạn nhng một số hạn chế nghiêm trọng đã làm giảm khả năng cạnh
tranh của ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế của ngân hàng, sau một
thời gian nghiên cứu và thực tập, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài:
"Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thơng Việt
Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn".
Các nội dung chính của luận văn đợc sắp xếp theo kết cấu sau
Chơng I : khả năng cạnh tranh của ngân hàng thơng mại trong
hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trong chơng này, các vấn đề lí luận
chung nh khái niệm "cạnh tranh", "cạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại"... đ-
ợc trình bày một cách khái quát. Đồng thời, theo hớng tìm hiểu và từ những kiến
thức rút ra trong quá trình nghiên cứu , em đã mạnh dạn đa ra một hệ thống chỉ
tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng thơng mại cũng nh các nhân tố
ảnh hởng đến khả năng đó.
Chơng II: thực trạng khả năng cạnh tranh của ngân hàng Ngoại
thơng Việt Nam trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trên quan
------------------------------------------------------


Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
điểm là một cán bộ ngân hàng, em đã cố gắng đánh giá một cách khách quan hoạt
động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng cũng nh các kết quả đã đạt đợc và
các hạn chế trong khả năng cạnh tranh của ngân hàng cùng cới các nguyên nhân
gây ra các hạn chế đó. Thời gian thực tập tại ngân hàng và sự giúp đỡ của các bạn
đã tạo điều kiện cho em có những tài liệu cần thiết trong quá trình đánh giá này.
Chơng III: một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam trong hoạt động tín
dụng trung và dài hạn.
Em xin cảm ơn cô giáo TS. Lu Thị Hơng đã góp ý và nêu ra cho em
những hớng nghiên cứu đề tài rất bổ ích và các bạn đã giúp đỡ em về mặt tài liệu
để em có thể hoàn thành tốt luận văn của mình.
Sinh viên
Đàm Thanh Hơng
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng I
Khả năng Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung
và dài hạn của ngân hàng thơng mại
1.1 Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thơng mại
1.1.1. Khái niệm và phân loại tín dụng trung và dài hạn
Là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài chính
nói riêng và nền kinh tế nói chung, ngân hàng thơng mại thực hiện những nghiệp vụ
đặc trng của mình tài trợ cho các hoạt động diễn ra không ngừng của cuộc sống. Nếu
nh theo quy định của luật pháp nớc Mĩ, việc ngân hàng đợc định nghĩa nh 1 công
ty thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (dựa trên nguyên tắc cơ

quan chính phủ nào bảo hiểm cho tiền gửi của ngân hàng đó) đã gây ra những xáo
trộn to lớn về cách hiểu một ngân hàng là gì thì có lẽ đối với chúng ta, cách tốt
nhất để nhìn nhận và tìm hiểu về ngân hàng chính là thông qua những loại hình dịch
vụ mà nó cung ứng, qua đó có thể đa ra những nhận xét tơng đối về hoạt động của
một ngân hàng thơng mại.
Peter Rose đã khẳng định: ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ hạch toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1
Qua đó, ta nhận thấy, tín
dụng là một hoạt động đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của một ngân hàng.
Thông qua các khoản mục tín dụng của mình, ngân hàng tài trợ cho hầu hết các hoạt
động sản xuất của các hãng kinh doanh hay là nguồn ứng cứu của các tổ chức tài
chính khác, trợ giúp cho các hộ gia đình và cá nhân bằng các khoản vay tiêu dùng và
đem lại một nguồn lợi vô cùng lớn cho bản thân ngân hàng.Và hoạt động cho vay
của ngân hàng không phải là chuyển một tài sản của ngân hàng cho một ngời nào đó
1
Peter Rose, Quản trị ngân hàng thơng mại
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mà chính là tạo ra tiền mới. Điều này cũng hoàn toàn đúng khi đối tợng cho vay là
một cá nhân, một doanh nghiệp hay là chính phủ. Hoạt động tín dụng không chỉ dựa
trên chữ tín làm đầu mà còn phải phụ thuộc rất nhiều vào môi trờng kinh doanh,
xu hớng phát triển của nền kinh tế cũng nh vào khả năng thẩm định độ tín nhiệm của
khách hàng và nhiều yếu tố khác.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, các sản phẩm dịch
vụ ngày càng đợc đa dạng nhằm đáp ứng đầy đủ đợc các nhu cầu ngày càng tăng của

khách hàng. Cùng với sự thay đổi không ngừng của thế giới tài chính, các loại hình
cho vay cũng đợc mở rộng và đổi mới. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng
nhng không có loại nào là đặc biệt thỏa đáng và chính xác. Dới đây là một số loại
hình tín dụng đợc phân biệt dựa trên những tiêu thức khác nhau nhằm làm rõ sự đa
dạng và phát triển của hoạt động này.
(1) Dựa trên đặc điểm của sản phẩm cung ứng:

Tín dụng vãng lai
Đây là loại tín dụng lâu đời nhất nhng vẫn góp một phần quan trọng trong
hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một tài
khoản để khách hàng có thể sử dụng theo nhu cầu nhng không vợt quá hạn mức
trong hợp đồng. Số lợng sử dụng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng tài chính của
khách hàng. Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán trung gian cho khách hàng
trên tài khoản. Do các điều kiện tín dụng, tín dụng vãng lai không đợc cấp cho đầu t
dài hạn, vì vậy thực chất ngân hàng cấp tín dụng vãng lai cho khách hàng nhằm bổ
sung vốn cho sản xuất lu thông thờng xuyên. Việc cấp tín dụng vãng lai đòi hỏi phải
có tài sản bảo đảm. Khách hàng phải trả lãi suất cho vay và phí của nghiệp vụ thanh
toán trung gian.
Tín dụng thế chấp

Khách hàng sử dụng tín dụng thế chấp khi muốn vay một khoản nợ ngắn
hạn và thế chấp bằng động sản hay trái quyền. Giá trị vật thế chấp đợc chiết khấu
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
theo loại động sản và tính lỏng của động sản đó. Vật thế chấp có thể bao gồm: các
giấy tờ có giá(dài hạn hay ngắn hạn, cổ phiếu vô danh); hàng hoá; kim loại quý; các
trái quyền (yêu cầu chi trả). Khách hàng phải trả lãi suất và phí. Phí đợc tính chủ yếu
trên chi phí bảo quản vật thế chấp.



Tín dụng bảo lãnh

Về thực chất, bảo lãnh không phải là tín dụng thuần tuý. Một ngân hàng
đồng ý bảo lãnh cho khách hàng trong giao dịch mua chịu với công ty nớc ngoài hay
vay của ngân hàng nớc ngoài, đóng thuế cho nhà nớc hay trong các hợp đồng đấu
thầu. Chỉ khi nào khách hàng cha có khả năng chi trả hay công ty nớc ngoài đòi hỏi
phải có sự bảo đảm cho hàng hoá mua chịu thì ngân hàng bảo lãnh coi nh cấp cho
khách hàng một khoản tín dụng bằng cách chi trả hộ khách hàng. Khách hàng phải trả
một khoản hoa hồng bảo lãnh. Do tính rủi ro cao nên các ngân hàng thờng phải dựa
vào uy tín của khách hàng cũng nh việc kiểm tra chặt chẽ tình hình tài chính của
khách hàng để quyết định có cấp tín dụng bảo lãnh hay không.


Đồng tài trợ

Có những trờng hợp hợp đồng tín dụng quá lớn và mang tính rủi ro quá cao
mà một ngân hàng không thể đảm nhận. Lúc này ngờt ta thờng sử dụng hình thức
đồng tài trợ, hay liên kết tín dụng, trong đó một số ngân hàng cùng tham gia cho vay
do một ngân hàng đứng ra làm ngân hàng đầu mối giao dịch với khách hàng bằng các
điều khoản đã đợc thoả thuận giữa các ngân hàng với nhau. Hoặc 2 hay nhiều ngân
hàng độc lập đàm phán và cho vay với khách hàng trong khi cùng thoả thuận các điều
khoản trong hợp đồng tín dụng. Đây là hình thức tín dụng song song.


(2) Dựa vào thời hạn của hợp đồng tín dụng thông thờng có 2 loại tín dụng:
Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng mà khách hàng có những nhu cầu khác
nhau về thời hạn của khoản tiền vay.
------------------------------------------------------

Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tín dụng ngắn hạn
: là loại tín dụng có thời hạn không quá 1 năm.
Loại tín dụng này đợc dùng cho các kế hoạch có tính thời điểm và thờng xuyên.

Tín dụng trung và dài hạn
: loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm,
thờng không quá 25 năm. Để có đợc sự chấp nhận của ngân hàng cho khoản vay
này, khách hàng phải thoả mãn những điều kiện ngặt nghèo về năng lực sản xuất,
tình hình tài chính và tính khả thi của dự án.

3) Dựa vào đặc điểm khách hàng:
Trên thực tế , khách hàng của ngân hàng có thể bao gồm các hãng kinh
doanh, các hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức phi lợi nhuận Nh ng ta có thể phân
chia các khoản cho vay của ngân hàng thành các loại chính sau:


Cho vay kinh doanh
(commercial and industry):
Đây là khoản mục quan trọng nhất, chiếm một phần lớn trong tổng tài sản
của ngân hàng. Các khoản mục cho vay kinh doanh ngắn hạn bao gồm: cho vay mua
hàng dự trữ, cho vay vốn lu động, cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng, cho
vay kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bán lẻ, cho vay trên tài sản. Các
khoản mục này phục vụ cho nhu cầu kinh doanh đột xuất hay tạm thời của doanh
nghiệp. Các khoản cho vay dài hạn nh cho vay kinh doanh kỳ hạn, cho vay luân
chuyển, cho vay theo dự án, cho vay hỗ trợ mua lại công ty giúp cho các hãng kinh
doanh có một lợng vốn lớn hơn rất nhiều và ổn định, tạo điều kiện phát triển cho các

hãng.

Cho vay tiêu dùng và cho vay bất động sản

Lí do tồn tại mạnh mẽ của loại hình tín dụng này là tâm lý gửi tiền của dân
c: ngời ta hi vọng khi gửi tiền vào một ngân hàng thì sẽ có khả năng vay lại tiền từ
chính ngân hàng đó lúc cần. Tiền huy động từ tiết kiệm trong dân c hiện nay là
nguồn vốn quan trọng nhất và sinh lợi cao nhất cho ngân hàng, vì thế các ngân hàng
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không nề hà cho vay khoản mục này. Tuy nhiên tình hình tài chính của các cá nhân
và hộ gia đình không ổn định chắc chắn, khiến cho chi phí và rủi ro đối với ngân
hàng rất lớn. Cho vay tiêu dùng lại chịu tác động của chu kỳ kinh doanh. Do vậy
một đặc điểm quan trọng của tín dụng tiêu dùng là có lãi suất rất cao. Ngời vay lại
thờng không nhạy cảm với lãi suất mà yếu tố tác động chủ yếu lại là thu nhập và
trình độ dân trí của ngời vay. Cho vay mua nhà thế chấp hay cho vay không thế
chấp, cho vay theo thẻ tín dụng là những hình thức phổ biến của loại tín dụng này.

1.1.2. Các loại hình cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thơng mại
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thơng mại Việt Nam chủ
yếu là cho vay kinh doanh mà đối tợng là các doanh nghiệp nhà nớc lớn. Trớc khi có
thể tìm hiểu hoạt động tín dụng này của ngân hàng thơng mại Việt Nam có những
đặc điểm gì nổi bật, ta có thể xác định một số phơng thức cho vay dài hạn trên thế
giới hiện nay.
Theo cách phân chia một cách có khoa học về phơng thức cho vay của ngân
hàng, ngờt ta chia các khoản vay làm 2 loại: cho vay luân chuyển và cho vay theo số
d.


Cho vay luân chuyển
Đây là loại hình cho vay mang lại nhiều ích lợi nhất cho khách hàng. Hãng
kinh doanh có thể vay không quá một mức tối đa giới hạn trớc, có thể hoàn trả theo
khả năng và tiếp tục vay khi có nhu cầu cho đến khi hết hạn hợp đồng tín dụng. Do
tính linh hoạt của khoản vay này mà ngân hàng không đòi hỏi phải có bảo đảm. Đây
là loại hình tín dụng đáp ứng rất kịp thời và nhanh chóng nhu cầu của khách hàng.
Khách hàng sử dụng khi không chắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hoặc
quy mô chính xác của nhu cầu vay trong tơng lai. Tín dụng luân chuyển cho phép
khách hàng có thể giảm bớt ảnh hởng của những biến động của chu kỳ kinh doanh,
tạo điều kiện vay thêm trong thời kỳ khó khăn hay sẵn sàng hoàn trả khi tình hình tài
chính đợc cải thiện. Nh vậy vốn vay của ngân hàng luôn tiếp cận kịp thời những biến
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động tài chính của khách hàng, vận hành song song xuyên suốt với chu kỳ kinh
doanh của khách hàng
Loại cam kết tín dụng đợc sử dụng chủ yếu là cam kết vay vốn chính thức
(formal loan commitment) mang tính chất hợp đồng, lợng vốn vay tối đa đợc xác
định với một lãi suất đợc ấn định. Loại này đợc định giá cao hơn nhiều so với hạn
mức tín dụng bảo đảm (confirm credit line) ít chặt chẽ hơn. Ngân hàng thờng cho
vay khoản mục này trong trờng hợp khẩn cấp. Khách hàng đợc đánh giá tín nhiệm
tín dụng cao thờng ít khi sử dụng loại tín dụng này mà chỉ kí kết hợp đồng làm bảo
đảm để có thể nhanh chóng vay vốn từ những tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra hiện
nay một loại hình mới cũng đang đợc sử dụng ngày càng rộng rãi là thẻ tín dụng.
Các doanh nghiệp a thích loại hình này do tính hiệu quả của nó và do không phải th-
ờng xuyên lập các đơn xin vay cho ngân hàng.

Cho vay theo số d
Ngợc lại với cho vay luân chuyển, việc cho vay theo số d đợc tính toán dựa

trên trị số tín dụng mà tại một thời điểm nhất định khách hàng đi vay đòi hỏi bổ
sung vào tổng giá cả của khách hàng đó. Nh vậy, mỗi lần chấp nhận thực hiện ph-
ơng thức tín dụng này, ngân hàng sẽ ngay một lần trao cho khách hàng số vốn mà
khách hàng yêu cầu. Hạn mức tín dụng chỉ phụ thuộc vào quy định của ngân hàng trung
ơng đối với mỗi khách hàng vay mà khách hàng trả nợ làm nhiều lần trong một thời
gian dài nên các ngân hàng thờng đòi hỏi phải có tài sản thế chấp hay điều kiện bảo
lãnh ngặt nghèo. Cho vay theo số d có thể gồm các hình thức sau:

Cho vay kinh doanh kỳ hạn
Các hãng kinh doanh sử dụng khoản vay này cho các hoạt động đầu t trung
và dài hạn: mua thiết bị, xây dựng công trình Khách hàng xin vay trọn gói dựa
trên chi phí dự tính của dự án và sẽ thanh toán khoản vay làm nhiều lần. Nh vậy
dòng thu nhập trong tơng lai của dự án là cơ sở của việc thanh toán khoản vay. Các
khoản vay kỳ hạn đòi hỏi phải có bảo đảm bằng tìa sản cố định thuộc sở hữu của ng-
ời vay. Do mức độ rủi ro lớn trong suốt quá trình thực hiện dự án mà các cán bộ tín
dụng phải cân nhắn cẩn thận các yếu tố: (1) trình độ quản lý của hãng, (2)chất lợng
hện thống kế toán và kiểm toán hãng đang sử dụng, (3)lịch sử trình bày tình hình tài
chính của hãng trong qua khứ, (4)cam đoan không thế chấp tài sản cho các chủ nợ
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác, (5)bảo hiểm tài sản của hãng có thoả đáng hay không, (6)rủi ro công nghệ đối
với hãng, (7)độ dài khoảng thời gian trớc khi dự án thu đợc lợi nhuận, (8) các xu h-
ớng của nhu cầu thị trờng và(9) trạng thái tài sản ròng của hãng.

Cho vay dự án dài hạn

Cho vay dự án dài hạn là loại hình cho vay kinh doanh có mức độ rủi ro cao
nhất

.
Khoản tín dụng này đợc dùng để tài trợ cho việc xây dựng các tài sản cố định
có thể mang lại thu nhập trong tơng lai có quy mô lớn hơn nhiều so với cho vay kinh
doanh kỳ hạn. Các tài sản cố định trên có thể là các công trình mang tính chiến lợc
quốc gia. Cũng do khoản tín dụng này có quy mô lớn và tính rủi ro cao mà ngân
hàng thờng đòi hỏi phải có bảo lãnh theo đó ngân hàng có thể thu hồi khoản vay từ
tổ chức bảo lãnh khi khách hàng không có đủ khả năng trả nợ. Đồng thời việc cho
vay đòi hỏi sự tham gia của một số tổ chức tài chính khác nhằm chia sẻ rủi ro. Ngoài
ra, các khoản tín dụng trên có thể đợc thực hiện không cần có bảo lãnh nhng mức lãi
suất áp dụng sẽ cao hơn nhiều và phải có tài sản thế chấp cho tới khi kết thúc dự án.

Cho vay hỗ trợ hoạt động mua lại công ty
Một hình thức tín dụng đang phát triển hiện nay là cho vay hỗ trợ hoạt động
mua lại công ty bằng nợ đòn bẩy - Lbos(leveraged buyouts). Khi một nhóm các nhà
quản lý của một công ty tin rằng nó bị định giá trên thị trờng thấp hơn so với khả
năng vốn có, họ sẽ mua lại công ty khi sử dụng đòn bẩy tài chính với tỷ lệ nợ rất cao
(thờng chiếm 80-90% giá trị của vụ mua lại) với tin chắc rằng công ty sẽ đạt đợc
doanh thu cao hơn chi phí nợ vay nhờ vào việc quản lý tốt hơn. Đây chính là một đặc
điểm nổi bật của nền tài chính thế giới mới. Tuy nhiên loại hình tín dụng này cũng
gặp rất nhiều rủi ro khi các công ty vay nợ quá nhiều không có đủ khả năng trả nợ
nếu lãi suất tăng hay nền kinh tế suy thoái. Đây là kết quả tổng hợp của 3 nhân tố:
(1)luồng thu nhập của hãng thấp tơng đối so với giá mua lại nên không đủ bù đắp
cho chi phí nợ vay, (2)các ngân hàng và tổ chức tài chính khác gia tăng sức ép thu
nợ, (3)vốn của các nhà quản lý và cổ đông bị rút ra quá sớm gây ra thâm hụt nghiêm
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trọng trong ngân quỹ của công ty khi mà thu nhập của công ty cha đủ mạnh để bù
đắp các luồng ra này.

Trên đây mới chỉ là những loại hình tín dụng phổ biến trên thế giới hiện
nay nhng mỗi quốc gia có những nền kinh tế với những nét đặc thù riêng nên không
thể hoàn toàn áp dụng những hình thức trên trong kinh doanh ngân hàng ở Việt
Nam. Chúng ta mới chỉ tạm thời đa ra những chuẩn mực của thế giới phát triển để
định hớng cho sự vận hành của bộ máy ngân hàng Việt Nam trong tơng lai.

1.2. Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng thơng mại
1.2.1.Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng thơng mại
1.2.1.1.
Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là hành động của một cá nhân hay tổ chức
cố gắng để
chiến thắng hoặc giành đợc công việc kinh doanh từ các đối thủ của mình

Longman, Dictionary of Business English
Tơng tự nh vậy, theo kinh tế học, cạnh tranh là sự tranh giành thị trờng
(khách hàng ) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Nh vậy, một nền kinh tế
thị trờng luôn đòi hỏi phải có cạnh tranh mà cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành thị
phần chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trờng. Cạnh tranh đợc phân chia thành 2
loại: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trờng có cạnh trạnh
hoàn hảo là thị trờng có quá nhiều ngời bán và ngời mua cùng một hàng hoá đồng
nhất đến mức không ai có thể ảnh hởng đến giá cả thị trờng. Nếu có ít nhất một ngời
bán lớn đến mức có thể ảnh hởng tới giá thị trờng thì xảy ra cạnh tranh không hoàn
hảo(tình trạng độc quyền). Độc quyền đợc biểu hiện dới các dạng: độc quyền tuyệt
đối (một ngành chỉ có duy nhất một nhà cung cấp) ; độc quyền nhóm (một ngành
do một số ít nhà cung cấp chi phối) hay một dạng đặc biệt trong nền kinh tế thị trờng
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
10

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
t bản chủ nghĩa: chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc(sự câu kết giữa một nhóm tài
phiệt t bản với nhà nớc t bản).
Để đạt đợc lợi nhuận trong nền kinh tế thị trờng, những nhà kinh doanh phải
thông qua cạnh tranh. Vì vậy cạnh tranh trở thành một yếu tố không thể thiếu trong
sự vận động của thị trờng và là đối tợng của nhiều môn khoa học kinh tế và luật
pháp.
Adam Smith, cha đẻ của cuốn Của cải của các dân tộc, 1776, đã có những
nhận xét vô cùng xác đáng: Trong cuộc cạnh tranh, mỗi cá nhân cố gắng vì lợi ích
của riêng mình đã vô tình đem lại lợi ích lớn nhất cho xã hội.
2
. Theo ông một thị tr-
ờng tự do là một đòi hỏi cho sự tăng trởng chung của toàn xã hội.
Tuy nhiên, Paul A. Samuelson lại cho rằng sự can thiệp của chính phủ là cần
thiết ngời ta không chỉ vỗ bằng một bàn tay và đã đa ra học thuyết 2 bàn tay nổi
tiếng. Điều này có thể đợc giải thích bằng sự mất ổn định của môi trờng cạnh tranh tự do
đợc biết đến dới cái tên thất bại thị trờng, dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh tế
mang tính chu kỳ. Ta cũng có thể có những nhận định sau:

Trên thực tế, không có một thị trờng nào là cạnh tranh hoàn hảo hay hoàn toàn
độc quyền. Mọi nền kinh tế thị trờng đều ở trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo.
Cả hai loại lực lợng độc quyền và cạnh tranh kết hợp với nhau trong việc xác định
phần lớn giá cả
3
. Nh vậy, đánh giá một thị trờng có tính cạnh tranh hay độc quyền
chỉ là tơng đối. Về nguyên tắc, một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở sự cạnh tranh
là một nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và ngợc lại.

Trong nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh một mặt tạo động lực của sự phát triển kinh
tế, mặt khác là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả ngời cung

cấp và ngời tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.

Theo quy luật chung, cạnh tranh luôn có xu hớng dẫn đến độc quyền một mặt do tác
động của quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô, mặt khác độc quyền là hình thức đem
2
Adam Smith, Của cải của các dân tộc.1776
3
Paul A. Samuelson, Kinh tế học , tập II.
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lại cho các nhà cung cấp lợi nhuận siêu ngạch. Vì thế cuộc cạnh tranh trên thị trờng là
cuộc ganh đua giành vị trí độc tôn. Đây cũng chính là một khía cạnh không hoàn hảo
của cạnh tranh.

Cạnh tranh bằng phơng thức độc quyền có thể gây ra những tác hại to lớn: nhà cung
cấp tạo sự khan hiếm giả bằng cách hạn chế số lợng hàng hoá và đặt mức giá cao một
cách giả tạo để kiếm lời một cách không chính đáng; do không bị cạnh tranh nên nhà
sản xuất không có nhu cầu sáng tạo, đổ mới công nghệ nên hạn chế áp dụng tiến bộ
khoa học-kỹ thuật và giảm năng suất lao động.

Vai trò điều tiết của chính phủ là vô cùng quan trọng nhằm hạn chế những điểm
không hoàn hảo của thị trờng. Nhiệm vụ tạo lập môi trờng kinh tế có cạnh tranh, chống
độc quyền chắc chắn thuộc về những chức năng riêng của chính phủ. ở các nền kinh tế
phát triển, luật chống độc quyền luôn đợc đặc biệt chú ý.

Cùng với khái niệm cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh đã trở thành một nội
dung quan trọng đối với bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đang hoạt động trong nền
kinh tế. Tuy nhiên sau vài thập kỷ trớc của sự phồn thịnh và bành trớng mạnh mẽ,

nhiều công ty đã đánh mất cái nhìn đúng đắn về lợi thế cạnh tranh trong việc tranh
đấu để đạt đợc sự tăng trởng và theo đuổi mục đích đa dạng hoá. Các công ty trên
toàn thế giới phải đối mặt với sự tăng trởng ngày càng chậm cũng nh việc các dối thủ
cạnh tranh trong nớc và trên thế giới không còn hành động nh thể chiếc bánh lợi
nhuận còn đủ lớn cho tất cả. Và nh vậy, lợi thế cạnh tranh lại càng quan trọng hơn
bao giờ hết.
Vậy thì trớc hết, lợi thế cạnh tranh là gì? Từ điển kinh doanh của nhà
xuất bản Longman cho rằng lợi thế cạnh tranh là một khía cạnh của một sản
phẩm hay một dịch vụ do một công ty cung cấp đã mang lại lợi thế cho công ty
đó so với các đối thủ khác. Nhng theo Micheal Porter, một nhà nghiên cứu kinh
tế chuyên sâu về cạnh tranh thì về cơ bản, lợi thế cạnh tranh phát triển nhờ vào
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những sản phẩm mà công ty có thể cung cấp cho ngời mua có giá trị cao hơn chi
phí công ty phải chịu để tạo ra đợc sản phẩm đó
4
. Giá trị của sản phẩm là thứ ng-
ời mua sẵn sàng trả tiền, và lợi nhuận tăng thêm xuất phát từ việc mời chào giá cả
thấp hơn của đối thủ cạnh tranh để giành đợc lợi nhuận tơng đơng hoặc cung cấp
những dịch vụ duy nhất có lợi ích lớn hơn đủ bù đắp cho giá thành cao hơn. Nh
vậy, có 2 hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn đầu về giá và sự phân biệt.
Ta sẽ tiếp tục phân tích việc thực hiện 2 hình thức này trong cạnh tranh giữa các
ngân hàng ở phần sau.
Tổng hợp các ý kiến trên, ta nhận thấy, lợi thế cạnh tranh của một công ty
là những đặc tính nổi trội hơn về mặt giá cả hay tính năng khác biệt của sản
phẩm giúp cho công ty đứng vững trên thị trờng và giành đợc u thế hơn so với
các đối thủ cạnh tranh khác.
Cũng nh doanh nghiệp hay các công ty trong một nền kinh tế, ngân hàng

là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên ngân hàng cũng gặp phải những khó
khăn trên thị trờng với vô số những đối thủ cạnh tranh đang ngày càng phát triển
cả về số lợng và chất lợng. Vì vậy vấn đề cạnh tranh đối với ngân hàng cũng vô
cùng cấp thiết. Ta hãy cùng tìm hiểu cạnh tranh trong ngân hàng thì có gì khác
biệt với các ngành kinh tế khác.
1.2.1.2. K
hái niệm "
c
ạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại"
Môi trờng kinh tế của một ngân hàng chịu sự tác động của một số yếu tố
trong đó không thể không kể đến môi trờng hoạt động của bản thân các ngân hàng.
Ngành ngân hàng các nớc phát triển theo những phơng thức không hoàn toàn giống
nhau, tuy nhiên luôn tồn tại một lực lợng quan trọng là ngân hàng Nhà nớc hay ngân
hàng trung ơng điều hành mọi hoạt động về mặt chính sách của khối ngân hàng nói
chung. Các ngân hàng thơng mại có thể thuộc nhà nớc hay do t nhân lãnh đạo dới
hình thức hội đồng quản trị nhng đều liên quan mật thiết đến mọi hoạt động của nền
kinh tế và không chỉ một ngân hàng có thể tạo nên thị trờng mà cần có sự tham gia
4
Micheal Porter, Competitive strategies, 1985
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoạt động của các ngân hàng khác. Nơi đâu có dân c và sản xuất kinh doanh, nơi đó
có ngân hàng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày
càng phát triển đang đặt các ngân hàng vào một tình thế khó khăn: những nghiệp vụ
trớc kia do ngân hàng đảm nhận nay đợc các tổ chức khác thực hiện dới những hình
thức ngày càng đa dạng và phong phú hơn, hớng tới những thị trờng mà ngân hàng
đã bỏ ngỏ. Rõ ràng ngân hàng đang phải cùng lúc cạnh tranh với nhiều lực lợng: các
ngân hàng trong cùng khối và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có những thế

mạnh riêng.
Có thể nói, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng là sự nỗ lực hoạt động
đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách hàng những
sản phẩm dịch vụ có chất lợng cao nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vợt lên
khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Sức mạnh đồng bộ của toàn bộ ngân hàng đợc phát huy khi ngân hàng tận
dụng đợc hết những khả năng sắn có của mình để nâng cao vị thế cạnh tranh. Mỗi
ngân hàng đều có những lợi thế riêng và đều có khả năng tận dụng những lợi thế ấy
nếu có những nhận thức thực sự hiệu quả và đúng đắn, tức là mỗi ngân hàng đều có
khả năng phát triển mạnh mẽ hơn. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của ngân
hàng đợc đánh giá nh một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng kết hợp các lợi
thế cạnh tranh mà ngân hàng đang có để biến đổi thành những công cụ hữu
hiệu trong việc khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trờng.
Tuy nhiên sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không phải đã đợc tán thởng
từ lâu. Đặc điểm của ngành ngân hàng là một môi trờng hoạt động trong đó các ngân
hàng vừa là nhà cung ứng vừa là khách hàng của nhau. Vì vậy hoạt động của mỗi
ngân hàng ảnh hởng trực tiếp và gián tiếp tới các ngân hàng khác và toàn bộ hệ
thống. Một câu hỏi luôn đợc đặt ra đối với những ngời quan tâm: Có cần thiết phải
có cạnh tranh giữa các ngân hàng? . Để trả lời cho câu hỏi này, ta lại phải bắt đầu
giải quyết câu hỏi khác : Cạnh tranh giữa các ngân hàng là xấu hay tốt, lợi hay
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hại?. Qua đó, tính tất yếu của cạnh tranh trong ngành ngân hàng sẽ đợc minh
chứng.
Hoạt động ngân hàng liên quan rất mật thiết tới những đánh giá độ an toàn,
đặc biệt là sự an toàn liên quan tới tơng lai. Theo ý kiến của nhiều ngời, sự bất ổn
định chắn chắn sẽ xảy ra do cạnh tranh trong cùng hệ thống, ít nhất là ở cấp độ cá
nhân hãng kinh doanh, thật sự không dễ chịu đối với hoạt động ngân hàng. Theo lời

của thống đốc ngân hàng Italy những năm 50 thì cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng
đáng sợ nh là nguồn gốc tiểm ẩn của những sự sụp đổ nghiêm trọng.
Các nớc trên thế giới đã có những hành động ngăn chặn cạnh tranh trong
ngành ngân hàng nhằm bảo đảm cho một môi trờng hoạt động "an toàn" cho các nhà
tài chính. Một cách cụ thể hơn, sự giám sát chặt chẽ đã đợc áp dụng: các cải cách
luật pháp đợc áp dụng ở hầu hết các nớc sau cuộc khủng hoảng tài chính và ngân
hàng những năm 30 cùng chia sẻ một ý cơ bản là nhằm duy trì sự ổn định trong
ngành ngân hàng và tài chính, cạnh tranh bị giới hạn
5
. Ngời ta tin tởng rằng trong
một môi trờng độc quyền nhóm bán, các ngân hàng có thể thu thêm đợc nhiều lợi
nhuận, điều này làm thúc đẩy sự ổn định của bản thân các ngân hàng nói riêng và cả
hệ thống ngân hàng nói chung. Thị phần phân chia giữa các ngân hàng tỏ ra là đủ
cho mọi thành viên của thị trờng và không ai phải cạnh tranh để làm mất thế ổn định
đã đợc định sẵn. Trong điều kiện này, bản thân các ngân hàng có thể giảm bớt các
tổn thất dễ dàng hơn và ngành ngân hàng luôn luôn có những quỹ đủ để ứng cứu cho
một tổ chức yếu kém trong những trờng hợp hiếm hoi có khó khăn xảy ra. Khi đó,
một phơng pháp thờng đợc dùng để giải quyết khủng hoảng của một ngân hàng là
kêu gọi các tổ chức khác và thuyết phục họ tiếp quản tổ chức có vấn đề.
Cho đến gần đây, việc hạn chế cạnh tranh vẫn đợc duy trì và ủng hộ. Các nhà
hoạch định chính sách hạn chế cạnh tranh trong ngân hàng bằng nhiều cách. Có thể
ví dụ ra đây nh: hạn chế việc cấp giấy phép ngân hàng và phân biệt giữa các dịch vụ
5
Tommaso Padoa-Schioppa,thành viên uỷ ban điều hành ngân hàng trung ơng chân Âu, Competiton among
banks, good or bad?
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tài chính về mặt luật pháp (nh giữa ngân hàng thơng mại và ngân hàng đầu t) nh ở

Mỹ cho đến thời gian gần đây, và nhiều nớc khác không áp dụng hệ thống ngân
hàng toàn cầu. Một loại ràng buộc khác đợc sử dụng rộng rãi là phân loại thị trờng
theo địa lý. Nó đợc áp dụng khi có lệnh cấm hoạt động ngân hàng và mở chi nhánh
giữa các bang ở Mỹ. Tại các nớc khác, ngân hàng thờng bị giới hạn chỉ đợc cho vay
một khoản tiền hạn chế ở ngoài khu vực có trụ sở chính, trong khi việc thành lập các
chi nhánh mới bị giới hạn thông qua các thủ tục hành chính đặc biệt. Trong nhiều tr-
ờng hợp, ngời giám sát có quyền kiểm tra một số lợng rất lớn các hoạt động ngân
hàng và mỗi hành động thuộc loại này lại đợc uỷ quyền rõ ràng.
Trong khi đó, chính sách tiền tệ cũng gắn liền với quan điểm cạnh tranh là
xấu. Công cụ chủ yếu để quản lý tiền tệ là trần lãi suất, quy định một lãi suất cao
nhất đợc phép cho hoạt động tín dụng. Hơn nữa, lãi suất trao đổi đợc cố định không
phải với ý nghĩa là có một lãi suất trung tâm cố định mà trên thực tế đợc quyết định
bởi ngân hàng trung ơng trong từng ngày.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất là chính sách cạnh tranh: cho
đến khi luật cạnh tranh đợc quan tâm thì có lẽ Mỹ là nớc duy nhất ban hành luật
Chống độc quyền từ những năm 30. Nhiều nớc ở châu Âu chỉ ban bố luật cạnh tranh
vào khoảng 2 thập kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, trong khi ở Italy, cơ quan
chống độc quyền đầu tiên đợc thành lập năm 1990. Tơng tự, ở những nơi có cơ quan
luật pháp và cơ quan chức năng trong việc bảo hộ cạnh tranh thì thờng là những phán
quyết của họ không hề đợc chính thức mở rộng ra lĩnh vực ngân hàng. ở những nơi
có cơ quan có thẩm quyền trách nhiệm về vấn đề cạnh tranh thì bản thân cơ quan đó
lại làm nhiệm vụ giám sát . Thậm chí ở Mỹ, hệ thống dự trữ liên bang(FED) cũng có
một số thẩm quyền pháp lý trong lĩnh vực cạnh tranh của một vài ngân hàng mà nó
kiểm soát. Mô hình này cũng đợc áp dụng ở Italy và Hà Lan là những nơi mà ngân
hàng trung ơng đợc uỷ quyền với rất nhiều nhiệm vụ trong lĩnh vực cạnh tranh.
Thậm chí ở những nơi có cơ sở mạnh mẽ của quyền cạnh tranh nh trờng hợp EU từ
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

năm 1958 thì cũng thờng không đợc mở rộng ra lĩnh vực ngân hàng. Cho đến tận
những năm 1980 toà án t pháp chân Âu mới tuyên bố không nên loại trừ hoạt động
ngân hàng ra khỏi phạm vi thực thi của các điều khoản trong Hiệp ớc liên quan đến
cạnh tranh.
Tuy nhiên những quan niệm trên đã dần bị thay đổi theo thời gian. Giữa hệ
t tởng cũ và mới đang ngày có nhiều xung đột và có những khác biệt quan trọng.
Những chính sách mới đang ngày càng đợc áp dụng nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của mỗi ngân hàng. Chính sự phân biệt giữa cái cũ cạnh tranh trong ngân
hàng là xấu và cái mới cạnh tranh là tốt là đã chứng tỏ một tất yếu khách quan:
cạnh tranh giúp cho các ngân hàng tồn tại và phát triển.
Các ngân hàng phát triển mạnh trong thời kỳ thống trị của mình khi các
ngành công nghiệp phụ thuộc vào ngân hàng là chính để có đợc nguồn vốn hỗ trợ
sản xuất. Ngân hàng tồn tại ở thế độc tôn và phát triển mạnh mẽ trong những năm
50-60, khi mà chiếc bánh thị phần còn đủ chia cho các thành viên kể cả những ngân
hàng hoạt động không mấy linh hoạt. Tuy nhiên sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài
chính trung gian đe dọa lợi thế của các ngân hàng thơng mại khi cung cấp các dịch
vụ tài chính mới cũng nh các dịch vụ truyền thống do các ngân hàng đảm nhiệm.
Các trung gian này cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính khác biệt
và tạo cho ngời mua sản phẩm tức là các doanh nghiệp và hộ gia đình có cơ hội
chọn lựa đa dạng hơn, thị trờng ngân hàng mở rộng hơn. Tốc độ phát triển của
ngành ngân hàng chững lại. Giờ đây những kẻ bại trận là các ngân hàng không thể
nhận thức đợc rằng vị thế trớc kia của mình không còn nh cũ và phải đổi mới và thực
sự chiến đấu, tức là cạnh tranh, để có thể đứng vững và tiếp tục phát triển. Ngày nay
ngời ta cho rằng khi các ngân hàng mạnh lên nhờ sự rèn luyện trong cạnh tranh thì
hệ thống ngân hàng sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau các cú sốc của nền
kinh tế. Tất nhiên cạnh tranh là có chọn lựa. Quan niệm trên đồng nghĩa với việc các
nhà chức trách phải chấp nhận cho những ngân hàng yếu kém nhất rời khỏi thị trờng.
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
17

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Một trong những chuyển biến quan trọng nhất đợc thể hiện qua việc chính
sách cạnh tranh đợc áp dụng cho ngành ngân hàng, và các giám sát viên chứng
khoán coi ngân hàng không khác bất cứ một công ty hữu hạn nào khác. Một trong
những đặc điểm của thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thông tin. Tất cả mọi ngời đều
nắm đợc thông tin và đều tận dụng các thông tin ấy, nhờ đó không một cá nhân nào
có thể ảnh hởng đến thị trờng. Nhng thị trờng không thể hoàn hảo do thông tin bất
cân xứng. Để có một thị trờng cạnh tranh lành mạnh, ngời ta quan niệm là phải có
thật nhiều thông tin và phải thật đầy đủ và chính xác. Từ quan điểm trên, giám sát
viên thông tin tới mức độ rõ ràng nhất và điều đó càng cung cấp một bức tranh chi
tiết hơn về vị trí của ngân hàng phát hành cổ phiếu mới. Mặt khác, có một truyền
thống của giám sát viên ngân hàng là nếu ngân hàng có điểm nào yếu kém, có lẽ tốt
nhất là không nên để cho thị trờng biết. Do đó có một cuộc tranh luận tự nhiên, hay
thậm chí là sự căng thẳng giữa 2 loại giám sát viên ngân hàng này. Chừng nào giám
sát về chứng khoán không đa ra những quyền hạn đối với ngân hàng, cho dù vì ngân
hàng là một tổ chức công cộng hay do có truyền thống là chúng có những đặc quyền
khác với các công ty hữu hạn, thì sự căng thẳng này sẽ không tăng lên.
Ngoài lí do tồn tại khiến các ngân hàng phải cạnh tranh, các ngân hàng dù
đã có những thoả thuận để tránh cạnh tranh lẫn nhau nhng trong một nền kinh tế
không ai kinh doanh không vì để tăng thêm tài sản của mình, khối ngân hàng cũng
không thể loại trừ. Đây là một tất yếu của nền kinh tế. Không ngân hàng nào lại có
thể bỏ qua các cơ hội đem lại cho mình nhiều lợi ích hơn và hoạt động chỉ dựa theo
nguyên tắc đạo đức thuần tuý. Có thể nói rằng các ngân hàng cạnh tranh không phải
để xoá bỏ sự có mặt của đối phơng trên thị trờng mà trớc hết là khẳng định đợc
mình, để vợt lên đối phơng. Thực chất ngân hàng cần thiết phải tồn tại theo một hệ
thống để tạo cơ sở giúp đỡ lẫn nhau. Và khi đã có ngân hàng này tận dụng cơ hội thì
ngân hàng kia cũng không thể bỏ ngơ trớc những điều kiện mà với sức mạnh riêng
của mình họ có thể thu lợi nhiều hơn. Cho dù đây là một thị trờng độc quyền nhóm,
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A

18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các bộ phận có thể phân chia một cách hoà bình với nhau trong nhiều lĩnh vực nhng
sự xuất hiện nhanh chóng và phát triển chóng mặt của các tổ chức khác và xu thế
phát triển không ngừng để tồn tại không cho phép bất cứ ngân hàng nào có thể đứng
ngoài cuộc cạnh tranh.
Ngoài ra, sự ổn định về vị trí trên thị trờng góp phần làm cho các ngân hàng
rơi vào tình trạng chây ỳ trớc sự phát triển đầy tính biến động của nền kinh tế.
Không lờng trớc đợc sự phát triển của các tổ chức khác, bộ máy lãnh đạo và hoạt
động không linh hoạt, sản phẩm không sáng tạo và tiện dụng hơn các dịch vụ khác
ngày càng phát triển trên thị trờng cùng với một phơng thức kinh doanh sai lầm
không tiến bộ đã đẩy nhiều ngân hàng vào tình trạng khó khăn. Thị phần bị xâm
phạm, thu nhập giảm và mất khách hàng là những biểu hiện tiêu biểu của một ngân
hàng đang bị các đối thủ cạnh tranh chèn ép. Không một ngân hàng nào muốn mình
ở trong một tình thế bấp bênh nh thế. Muốn khẳng định lại mình, ngân hàng phải
có những hành động quyết liệt giành lại thị phần và thu hút lại các khách hàng đã
mất cũng nh tạo thêm đợc nhiều mối quan hệ mới. Nh vậy, chính ngân hàng cũng đã
tham gia vào hoạt động cạnh tranh một cách tự phát và tất yếu. Nhng để hành động
có hiệu quả và đạt đợc những thành tựu đáng kể, ngân hàng còn cần nhiều hơn là ý
thức cạnh tranh. Đó chính là khả năng tận dụng những lợi thế cạnh tranh của mình
để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Nhng nói cách khác, sự lựa chọn trong hệ thống ngân hàng có thể đợc hiểu
là phải loại bỏ những ngân hàng yếu kém và chỉ để lại những ngân hàng mạnh nhất
và có đủ khả năng nhất điều khiển thị trờng. Khi đó thị trờng này lại có xu hớng trở
thành thị trờng độc quyền nhóm, các ngân hàng có thoả thuận với nhau, cùng nhau
ngăn chặn sự xâm nhập của các tổ chức mới và lại tiếp tục lũng đoạn thị trờng. Nh
vậy cạnh tranh trong thị trờng ngân hàng đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nớc
nhằm giữ vững đợc sự công bằng trong cạnh tranh trên thị trờng.
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A

19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngành ngân hàng tạo lập nên một thị trờng đặc biệt, trong đó các sản phẩm
mang tính tơng tự và bổ sung cho nhau. Các ngân hàng vừa là các đối thủ cạnh tranh
vừa là bạn hàng của nhau. Một mặt, các thành viên của thị trờng tích cực cạnh tranh
để có thể khẳng định vị trí của mình trên thị trờng và chiếm lĩnh thị trờng tuỳ thuộc
mục tiêu của từng cá nhân thành viên. Mặt khác, với t cách là một bộ phận của bộ
máy vận hành thị trờng tài chính mà mỗi mắt xích liên quan đến nhau và bảo đảm
cho sự hoạt động xuyên suốt của cả thị trờng, mỗi ngân hàng cũng phải dựa vào
nhau và tơng trợ cho nhau những lúc khó khăn, trớc hết là để đảm bảo những biến
đổi bất thờng này không ảnh hởng quá mạnh đến hoạt động của thị trờng và của nền
kinh tế mà theo lý thuyết hệ thống là cũng ảnh hởng đến lợi ích của bản thân ngân
hàng, bên cạnh đó còn tạo lập quan hệ lâu dài và có hi vọng ở sự giúp đỡ ứng cứu
trong tơng lai. Đây chính là một khía cạnh đặc biệt của khái niệm cạnh tranh đợc vận
dụng đối với hoạt động của ngân hàng thơng mại.
1.2.1.3.
Khái niệm cạnh tranh của ngân hàng thơng mại trong
hoạt động tín dụng trung và dài hạn
?
Tín dụng trung và dài hạn là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân
hàng. Bất cứ một ngân hàng nào cũng phải sử dụng nghiệp vụ này nhằm sử dụng
nguồn vốn huy động đợc đem lại thu nhập cho ngân hàng. Vì thế cạnh tranh trong
hoạt động tín dụng cũng chính là việc tận dụng hết những lợi thế của ngân hàng về
nguồn vốn, hệ thống thông tin để chiếm lĩnh thị tr ờng cho vay trung và dài hạn
đảm bảo cho ngân hàng thu đợc nguồn lợi nhuận lớn nhất khi cung cấp các dịch vụ
và thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Nhu cầu của khách hàng ở đây đợc hiểu theo nghĩa là đòi hỏi của khách
hàng về chất lợng tín dụng. Ngân hàng không những phải quan tâm đến việc mình
cung cấp cho khách hàng dịch vụ gì mà còn phải chú ý mình cung cấp dịch vụ đó
theo cách nào, cho ai và vì mục đích gì. Chỉ có nh vậy khách hàng mới thực sự cảm

nhận đợc nỗ lực của ngân hàng trong mối quan hệ hai bên cùng có lợi này. Không
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chỉ khách hàng cần ngân hàng mà ngân hàng còn cần có khách hàng để tồn tại.
Trong môi trờng cạnh tranh thì nhận thức này lại cần đợc các ngân hàng nhận thức
đợc một cách triệt để.
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của ngân hàng th ơng mại
a) Tổng d nợ cho vay trung và dài hạn
Đây là chỉ tiêu cho biết rõ nét nhất về kết quả cho vay trung và dài hạn của
ngân hàng. Giá trị của các khoản cho vay phản ánh phần nào khả năng thu hút khách
hàng của ngân hàng cũng nh cho biết ngân hàng có khoản vốn huy động mạnh đến
thế nào mới có thể cung ứng một cách đầy đủ cho những khoản vay trên. Kết hợp với
chỉ tiêu thị phần, khối lợng của d nợ tín dụng trung và dài hạn khẳng định vị trí của
ngân hàng trên thị trờng.
b) Chất lợng khách hàng
Chỉ cần nhìn vào các khách hàng của một ngân hàng, ngời ta đã có mờng tợng
đợc phần nào khả năng thu hồi nợ của ngân hàng và qua đó biết đợc hoạt động cho
vay của ngân hàng có đáng tin cậy không cũng nh những thế mạnh khác của ngân
hàng. Một ngân hàng có nguồn thông tin tốt về khách hàng mới có thể bảo đảm về
khả năng tài chính của khách hàng và quyết định cho vay. Khách hàng còn cho biết
ngân hàng quan hệ với khách hàng tốt nh thế nào nhờ vào khả năng của đội ngũ lãnh
đạo. qua danh sách khách hàng ta còn có thể có thông tin về uy tín và danh tiếng của
ngân hàng. C
hất lợng khách hàng đợc đánh giá thông qua uy tín, danh tiếng và
tình hình tài chính và một loạt những thông số khác về khách hàng mà ngân hàng
phải tìm hiểu đợc trớc khi cho vay. Khách hàng tốt nên là một doanh nghiệp có
tiếng tăm trên thị trờng, vì cũng giống nh ngân hàng, uy tín của doanh nghiệp
cũng do những thành quả đạt đợc trong quá khứ gây dựng nên. Không một ngân

hàng nào muốn mạo hiểm cho một doanh nghiệp không có tên tuổi và chỗ đứng
trên thị trờng hay một doanh nghiệp đã có tiếng xấu trong hoạt động trớc đây vay
vốn với lí do một trong những mục tiêu hoạt động của ngân hàng là an toàn. Tình
hình tài chính của khách hàng có ổn định mới bảo đảm khách hàng hoạt động có
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiệu quả và do đó có khả năng trả nợ cho khách hàng khi có một dự án khả thi và
một phơng án trả nợ vay hợp lý.
c) Trình độ của cán bộ tín dụng
Chỉ tiêu này đợc biểu hiện thông qua trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng có trình độ cao bảo đảm cho quá trình thẩm định dự án không sai
sót và có độ tin cậy cao. Trình độ của cán bộ tín dụng còn thể hiện chính sách đào
tạo và đãi ngộ cũng nh khả năng thu hút nhân tài của ngân hàng, tạo thành một lực l-
ợng làm nên một nửa thành công của ngân hàng: đó chính là nguồn nhân lực có chất
lợng cao.
d) Thị phần tín dụng
Các ngân hàng cạnh tranh với nhau mà một trong những kết quả của cuộc cạnh
tranh đó đợc phản ánh trên thị phần của mỗi ngân hàng. Thị phần cho biết độ tập
trung về phía mỗi ngân hàng trong một lĩnh vực hoạt động thông qua tỷ lệ phần trăm
của từng ngân hàng đó so với cả một tổng thể ví dụ nh khối ngân hàng quốc doanh
chẳng hạn. Thị phần cũng cho biết khả năng chiếm giữ thị trờng của một ngân hàng
cụ thể. Lẽ tất nhiên, không phải ngân hàng nào có thị phần lớn hơn sẽ tập trung đợc
nhiều ảnh hởng về mình nhng điều này cũng cho thấy vị thế và sự ổn định của ngân
hàng này trên thị trờng. Vì vậy thị phần luôn là một mục tiêu đợc các nhà quản trị
ngân hàng quan tâm để đạt đợc lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong
hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ta quan tâm chủ yếu đến thị phần tín dụng trung
và dài hạn của mỗi ngân hàng hay thị phần tín dụng nói chung, từ đó có thể có
những nhận xét khách quan về hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này tại ngân hàng.

e) Khả năng giải quyết nợ xấu
Chỉ tiêu này đợc thể hiện thông qua các biện pháp mà ngân hàng đã sử dụng
từ xa tới nay trong quá khứ để giải quyết nợ xấu, góp phần nâng cao năng lực tài
chính của ngân hàng, đem lại lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng. Khi một ngân hàng
có thể làm tốt công tác này chứng tỏ ngân hàng đó có những quyết sách phù hợp và
linh hoạt nhằm cải cách hệ thống hoạt động của ngân hàng.
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nh trên đã khẳng định, khả năng cạnh tranh của một ngân hàng không phải
là một chỉ tiêu đơn lẻ mà nó đợc đánh giá tổng hợp thông qua sự kết hợp các chỉ tiêu
nói trên. Chỉ có nh vậy chỗ đứng của ngân hàng trên thị trờng mới có thể đợc phản
ánh một cách chính xác và đầy đủ, chi tiết, cung cấp cho chúng ta những nhận xét
thấu đáo hơn về hoạt động của một ngân hàng trong tơng lai.
1.2.3. Các công cụ cạnh tranhcủa ngân hàng thơng mại
Trong sách Lợi thế cạnh tranh, nhà kinh tế học Micheal Porter đã nhận
xét: trong cạnh tranh, mỗi công ty có 2 hình thức cơ bản của lợi thế cạnh tranh: dẫn
đầu về giá hay sự khác biệt. Cho dù công ty có vô số những điểm mạnh và điểm yếu
so với các đối thủ cạnh tranh thì công ty chỉ có thể có một trong hai hình thức cạnh
tranh trên. Tầm quan trọng của bất kỳ một điểm mạnh hay yếu nào cũng là do ảnh h-
ởng của công ty lên giá cả hay sự khác biệt. Đến lợt mình, u thế về giá và sự khác
biệt lại xuất phát từ cấu trúc của ngành đó. Nó phản ánh khả năng của công ty khi đ-
ơng đầu với 5 lực lợng thị trờng tốt hơn so với các đối thủ của mình.
2 hình thức cạnh tranh trên gắn liền với quy mô hoạt động mà công ty tìm
kiếm nhằm chỉ đạo 3 chiến lợc cạnh tranh nói chung: chiến lợc về giá, chiến lợc
phân biệt và chiến lợc trọng điểm. Mỗi loại chiến lợc lại phù hợp với từng mục tiêu
cạnh tranh mà công ty vơn tới với những cách thức khác nhau.
a)
Cạnh tranh bằng lãi suất

Dẫn đầu về giá có lẽ là chiến lợc rõ ràng nhất, trong đó công ty cố gắng
trở thành một nhà sản xuất có giá thấp trong toàn ngành. Đối với các ngành sản xuất
khác, đây có thể là một trong những chiến lợc hiệu quả nhất và giá cả có thể đợc sử
dụng nh một yếu tố cơ bản đánh giá trình độ cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên
ngành ngân hàng có những đặc trng riêng nên đòi hỏi phải có những phân tích khác.
Dữ liệu về giá của các giao dịch đơn lẻ có thể có ích và cần thiết cho các ngành khác
nhng rất ít thông tin loại này phù hợp với ngân hàng.
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các ngân hàng khó có thể sử dụng công cụ này trong cạnh tranh vì những
đặc thù rất riêng của ngành ngân hàng. Sản phẩm của các ngân hàng hầu nh là giống
nhau tạo nên sự đơn điệu chung trên thị trờng sản phẩm nhng những ngân hàng có ý
định hạ giá để tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình sẽ không thành công. Ngân
hàng nào cũng có tiềm năng cạnh tranh về giá nên giá cho vay chung trên thị trờng
chính là giá thấp nhất đảm bảo cho ngân hàng vẫn còn có thể có lãi từ hoạt động cho
vay. Bất cứ ngân hàng nào muốn phá vỡ thế ổn định đó sẽ kéo theo sự chuyển động
của cả một hệ thống và tính suy yếu cũng mang tính hệ thống sâu sắc. Vợt qua giới
hạn cuối cùng, ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh và tiếp đó là khả năng tài chính giảm sút, làm mất đi khả năng cạnh tranh
trong tơng lai do không thể đáp ứng đợc các nhu cầu của khách hàng.
Tuy nhiên, ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy là các ngân hàng có thể sử
dụng những lãi suất khác nhau cho những khách hàng khác nhau trong những khoản
vay thoạt trông là cùng loại và cùng quy mô. Điều này một phần là do các nhân tố
rủi ro khác nhau và các điều khoản khác nhau của khoản vay: tài sản bảo đảm, thời
điểm trả nợ,v.v Khách hàng có nhiều sự lựa chọn, bao gồm cả lựa chọn không cần
vay vì có khả năng tài chính vững mạnh, thờng nhận đợc lãi suất thấp hơn so với
những khách hàng có ít hơn hay không có lựa chọn nào.
Những sự lựa chọn trên cho phép khách hàng mua hàng giữa các ngân

hàng và các tổ chức tài chính khác để có đợc những điều kiện tốt nhất. Nếu điều này
xảy ra ở quy mô lớn, sự khác biệt về lãi suất của mỗi ngân hàng đối với các khoản
cho vay sẽ có xu hớng thu hẹp lại và sẽ chỉ có một sự khác biệt không đáng kể về lãi
suất giữa các ngân hàng trên cùng một thị trờng. Nói cách khác, quyền lực của độc
quyền bán quan hệ nghịch đảo với khả năng lựa chọn của khách hàng.
Tóm lại, đối với ngành ngân hàng, cạnh tranh bằng lãi suất không phải là
một công cụ đem lại lợi ích mong muốn. . Một minh chứng dẽ thấy nhất là tại các n-
ớc phát triển, lãi suất không phải là một công cụ đợc a thích và trên thị trờng liên
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngân hàng, lãi suất LIBOR và SIBOR không cách biệt nhau bao nhiêu. Để có thể sử
dụng công cụ này có hiệu quả trong cạnh tranh là một điều vô cùng khó khăn, trong
những trờng hợp cụ thể thì biện pháp an toàn và thực tế nhất là bám theo lãi suất cơ
bản của ngân hàng trung ơngĐây cũng chính là cách thức mà các ngân hàng trên thế
giới đang sử dụng trong cho vay trung và dài hạn nhằm bảo đảm đợc kết quả hoạt
động kinh doanh nhng cũng không vợt quá khỏi ngỡng của lãi suất cạnh tranh.

b)
Cạnh tranh bằng sự phân biệt
Nh trên đã khẳng định, một ngân hàng muốn tạo đợc sự khác biệt với các
ngân hàng khác thì phải có những vũ khí chiến lợc riêng thật hiệu quả nhằm đạt đợc
sự tán thởng và ủng hộ cao nhất của khách hàng, từ đó mới có thể hi vọng sẽ tạo đợc
chỗ đứng trên thị trờng và hoạt động có chất lợng, vợt lên hẳn các đối thủ cạnh tranh
trớc đó. Loại bỏ yếu tố lãi suất không hiệu quả, chúng ta có thể xem xét một số công
cụ chủ yếu của ngân hàng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn nh sau: uy tín
của ngân hàng, năng lực của bộ máy lãnh đạo, nguồn vốn tự có và huy động , hệ
thống thu thập và xử lý thông tin, khả năng phân tích rủi ro, chất lợng nguồn nhân
lực, công nghệ ngân hàng và đổi mới công nghệ, và công tác quản trị chiến lợc.

(1)
Uy tín của ngân hàng
Uy tín của một tổ chức tài chính có lẽ là tài sản quan trọng nhất và cũng là
tài sản vô hình nhất của nó, một loại tài sản có thể phân biệt đợc những đối thủ thành
công nhất trong ngành dịch vụ tài chính so với những ngời còn lại. Nó là sản phẩm
của những thành tích tích luỹ đợc trong quá khứ của một tổ chức. Uy tín có thể nâng
cao từ nhiều nguồn khác nhau nhng nói chung là đợc rút ra từ một khả năng và
chuyên môn cụ thể mà thị trờng đánh giá cao và bản thân tổ chức đó đã phát triển
trong một thời gian.
Khái niệm về uy tín đã đợc sử dụng để giải thích cho rất nhiều hiện tợng
cạnh tranh và thờng đợc liên hệ với vị trí của ngân hàng trên thị trờng nh là kết quả
------------------------------------------------------
Sinh viên Đàm Thanh Hơng. Lớp TC- 40A
25

×