Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Tiểu luận TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.02 KB, 60 trang )

GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Phần I: Tổng quan về WTO
I. Lịch sử hình thành và phát triển
I.1 Lịch sử hình thành
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại giữa
các quốc gia trên thế giới, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các
nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại.
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương
mại Quốc tế (ITO) nhằm hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương
mại quốc tế và điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa,
khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển. Hiến chương
ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm
tại La Habana tháng 3 năm 1948, Phạm vi đề ra cho ITO là khá lớn, bao trùm lên cả
các vấn đề việc làm, đầu tư, cạnh tranh, dịch vụ, vì thế việc đàm phán Hiến chương
(hiểu cách khác là Điều lệ) của ITO diễn ra khá lâu. Trong khi đó, vì mong muốn
sớm cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh công cuộc tái thiết sau chiến tranh, năm 1946,
một nhóm 23 nước đã đàm phán riêng rẽ và đạt được một số ưu đãi thuế quan nhất
định. Để ràng buộc những ưu đãi đã đạt được, nhóm 23 nước này quyết định lấy
một phần về chính sách thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO, biến nó thành
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
GATT đóng vai trò là khung pháp lí chủ yếu của hệ thống thương mại đa
phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Từ thập kỷ 70 do thương mại quốc tế không
ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về
thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật
chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí
tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông
sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Tại Vòng đám phán thứ
tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định
của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ


có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ
thể. WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995. Hoạt động của
WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự
do thương mại. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các
nước tiếp tục đàm phán và ký kết.
I.2.Chức năng:
• Quản lý các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong khuôn khổ WTO
• Diễn đàn cho các vòng đàm phán thương mại
1
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
• Xử lý các tranh chấp thương mại
• Giám sát các chính sách thương mại quốc gia
• Hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cho các nước đang phát triển
• Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
• Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên.
I.3. Mục tiêu:
Mục tiêu thành lập của WTO được ghi nhận tại Lời mở đầu của Hiệp định
thành lập WTO như sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ
cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương
mại đa phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm
cho các nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng
những lợi ích thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành
viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối thiểu.
I.4. Nguyên tắc pháp lý của WTO
- Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN): là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của
WTO.Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế

quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác
nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình
đẳng, không phân biệt đối xử
- Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT): nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải
đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản
xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu
nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa
khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất
trong nước
- Nguyên tắc mở cửa thị trường: thực chất là mở cửa thị trường cho hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài vào
- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh
trong những điều kiện bình đẳng như nhau”. Việc thúc đẩy cạnh tranh công bằng
bằng cách loại bỏ các hoạt động mang tính “ không công bằng” như trợ cấp sản
xuất, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá nhằm tranh giành thị phần
I.5. Cơ cấu tổ chức WTO
2
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Cơ cấu tổ chức của WTO bao gồm (xếp theo thứ tự thẩm quyền từ cao xuống
thấp):
• Hội nghị Bộ trưởng.
• Đại hội đồng: Bao gồm :Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà
soát các chính sách thương mại.
• Các Hội đồng: Các Uỷ ban, Nhóm công tác.
• Ban Thư ký.
I.6. Các hiệp định cơ bản của WTO
Các Hiệp định của WTO điều chỉnh 3 lĩnh vực chính là hàng hoá, dịch vụ và
quyền sở hữu trí tuệ. Các Hiệp định này đưa ra các nguyên tắc cho tự do hoá
thương mại để trên cơ sở đó các thành viên WTO đưa ra những cam kết cắt giảm
thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào thương mại và mở cửa thị truờng dịch vụ.

- Hiệp định đa phương về thương mại hàng hóa.
- Hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ ( GATS)
- Hiệp định đa phương về các khía cạnh liên quan đến thương mại của sở hữu trí tuệ
(TRIPS).
- Hiệp định đa phương về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh
chấp thương mại (DSU).
- Hiệp định đa phương về cơ chế rà sóat chính sách thương mại (TPRM).
II: Giống và khác nhau giữa GATT và WTO:
II.1. Giống nhau cơ bản:
- Mục tiêu hoạt động: nhằm thúc đẩy sự tự do thương mại trên toàn cầu
- Đều lấy nguyên tắc Tối huệ quốc để xây dựng chính sách thương mại giữa các quốc
gia thuộc WTO
- Cách giải quyết tranh chấp : tái lập sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ giải quyết
tích cực các tranh chấp; cấm đơn phương áp dụng các biện pháp trả đũa khi chưa
được phép của WTO/GATT
- Cơ chế ra quyết định của WTO tiếp tục cách làm hơn 40 năm qua của GATT 1947,
có nghĩa là WTO sẽ tiếp tục áp dụng nguyên tắc đồng thuận (consensus) trong việc
ra quyết định
II.2. Những điểm khác biệt:
3
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
GATT WTO
Thể chế -Là một loạt các quy định,
hiệp định đa bên
-Không có nền tảng về thể
chế
Là tổ chức thường trú có
tổ chức, có ban thư ký
riêng được lãnh đạo bằng
1 Tổng giám đốc và 4 phó

Tổng Giám đốc
Nguyên tắc MFN Chỉ áp dụng với hàng hóa Mở rộng sang thương mại
dịch vụ và sở hữu trí tuệ
Các hiệp định - Mang tính tạm thời và
chủ yếu liên quan đến
thương mại, được thay
đổi bổ sung qua các vòng
đàm phán thương mại
-Việc áp dụng ở mỗi nước
mang tính chọn lọc, tự
nhiên
- Mang tính đa biên, là
cam kết cố định và vĩnh
viễn
- Các nước gia nhập phải
cam kết áp dụng trọn gói,
toàn bộ trừ nhượng bộ
(waiver) riêng cho các
nước đang phát triển
Quản lý - Không quản lý các luật
lệ giữa các thành viên
- Là tổ chức quốc tế duy
nhất quản lý luật lệ giữa
các quốc gia trong hoạt
động thương mại quốc tế
III. Các vòng đàm phán của WTO:
III.1. Vòng đàm phán Uruguay(1986-1994):
Bao gồm 125 nước tham gia. Đây là vòng đàm phán cuối cùng và cũng là
vòng đàm phán tham vọng nhất trong số tất cả các vòng đàm phán của GATT.
Vòng đàm phán này đã dẫn đến việc thành lập WTO và thông qua một loạt các hiệp

định mới.
Những nét chính của vòng này là: thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) thay thế cho GATT; giảm thuế và các biện pháp trợ cấp xuất khẩu; giảm
hạn ngạch và các hạn chế nhập khẩu khác trong vòng 20 năm; ký kết Hiệp định về
Bảo hộ Quyền sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS); mở rộng phạm vi
áp dụng của luật thương mại quốc tế sang lĩnh vực dịch vụ thông qua Hiệp định
chung về Thương mại Dịch vụ (GATS); dỡ bỏ hạn chế đối với đầu tư nước ngoài.
Ý tưởng về Vòng đàm phán Uruguay được nhen nhóm vào tháng 11-1982
tại một hội nghị cấp Bộ trưởng của các nước thành viên GATT tại Geneva. Bấy giờ,
4
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
các vị Bộ trưởng đã dự định tiến hành một vòng đàm phán lớn nhưng hội nghị lúc
đó đã không vượt qua được rào cản quá lớn là vấn đề nông nghiệp và bị coi như
thất bại. Song trên thực tế, một chương trình làm việc mới đã được lên kế hoạch và
đây chính là tiền đề cho chương trình vòng đàm phán Uruguay.
Tuy nhiên, phải mất bốn năm vất vả cùng nhiều nỗ lực tìm kiếm và làm sáng
tỏ những vấn đề cần bàn cũng như quyết tâm tiến tới thỏa thuận thì các vị bộ
trưởng mới đi đến quyết định tiến hành vòng đàm phán mới. Quyết định này được
đưa ra vào tháng 9-1986 tại Punta del Este (Uruguay).
Các vị bộ trưởng cuối cùng cũng thống nhất một chương trình đàm phán đề
cập đến hầu như toàn bộ các vấn đề về chính sách thương mại còn bỏ ngỏ cho tới
thời điểm bấy giờ. Các cuộc đàm phán có nhiệm vụ thúc đẩy việc mở rộng thương
mại đến nhiều lĩnh vực mới, đặc biệt là thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đồng
thời cải tổ các chính sách thương mại đối với những sản phẩm nhạy cảm như nông
sản và hàng dệt may.
Tất cả các điều khoản của GATT cũng sẽ được đưa ra xem xét lại. Đây sẽ là
vòng đàm phán lớn nhất từ trước tới nay và các vị bộ trưởng đã nhất trí dành tới 4
năm để thực hiện nó một cách tốt đẹp.
Hai năm sau, vào tháng 12-1988, các vị bộ trưởng lại một lần nữa nhóm họp
tại Montréal (Canada) để đánh giá những tiến bộ đã đạt được sau nửa chặng đường

thực hiện vòng đàm phán. Nhiệm vụ lúc bấy giờ là xây dựng kế hoạch hành động
cho hai năm còn lại của lịch trình đàm phán. Tuy nhiên các cuộc thương thảo đã đi
vào ngõ cụt và mãi tới tháng 4 năm sau, các quan chức cấp cao mới lại gặp mặt
nhau tại Geneve để tranh luận một cách bình tĩnh hơn.
Tại hội nghị Montréal, bất chấp một số tồn tại, các vị bộ trưởng đã cùng công
nhận một loạt các thành tựu đầu tiên, đặc biệt là sự nhượng bộ về thị trường cho
sản phẩm của các quốc gia phương Nam để giúp đỡ các nước đang phát triển cũng
như hợp lý hóa hệ thống giải quyết tranh chấp và thiết lập cơ chế kiểm tra đầu tiên
mang tính chất toàn diện, hệ thống và định kỳ các chính sách và hoạt động thương
mại của các nước thành viên GATT.
Các cuộc đàm phán lẽ ra sẽ kết thúc vào thời điểm diễn ra hội nghị bộ trưởng
tháng 12-1990 tại Bruxelles. Nhưng các vị bộ trưởng đã không thành công trong
việc đàm phán về cải cách thương mại đối với nông phẩm và quyết định kéo dài
thời gian tranh luận. Vòng đàm phán Uruguay lúc này bước vào giai đoạn tồi tệ
nhất.
Cho dù triển vọng về mặt chính trị tỏ ra không mấy sáng sủa, các công tác
chuẩn bị vẫn được tiếp tục khẩn trương để cho ra đời bản dự thảo công cụ có hiệu
lực pháp lý cuối cùng. Arthur Dunkel, bấy giờ là tổng giám đốc GATT, nhân vật
chủ trì các cuộc đàm phán cấp cao là người đã soạn thảo dự thảo “Văn kiện cuối
cùng”. Văn bản này được trình bày trước các bên tham gia đàm phán tại Geneva
5
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
tháng 12-1991. Văn bản này giống hoàn toàn với văn bản được soạn thảo tại Punta
del Este, chỉ thiếu danh sách cam kết của các quốc gia về vấn đề giảm thuế nhập
khẩu và mở cửa thị trường dịch vụ. Bản dự thảo này là cơ sở xây dựng hiệp định
chính thức.
Trong 2 năm tiếp theo, các cuộc đàm phán đã diễn ra hết sức khó khăn, thành
công và thất bại đều hết sức mong manh. Tiến trình đàm phán thường chậm hơn so
với tiến độ. Cùng với nông nghiệp, những vấn đề khác như thương mại dịch vụ,
thâm nhập thị trường, luật chống bán phá giá hay thậm chí việc thiếp lập một thể

chế kinh tế mới cũng trở thành những chủ đề gây xung đột. Sự bất đồng giữa Mỹ
và liên minh châu Âu là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự thành công rất được trông
đợi của các cuộc thảo luận.
Tháng 11-1992, Mỹ và Uỷ ban châu Âu đã vượt qua phần lớn những bất đồng
về nông nghiệp giữa hai bên để cùng đi đến một hiệp định chung mang tên “Hiệp
định Blair House”. Tháng 7-1993, các nước trong nhóm bộ tứ (Mỹ, Uỷ ban châu
Âu, Nhật, Canada) thông báo đã có những tiến bộ đáng kể trong đàm phán về thuế
quan và những vấn đề liên quan (mở cửa thị trường). Phải đợi đến ngày 15-1-1993
thì tất cả các vấn đề mới được giải quyết và các cuộc bàn thảo về việc mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ mới kết thúc, dù rằng đối với những vấn đề này, nhân
tố mang tính chất quyết định một tuần sau đó mới ngã ngũ. Ngày 15-4-1994, các vị
bộ trưởng của gần 123 quốc gia tham gia đàm phán đã ký kết các hiệp định này
trong một cuộc họp diễn ra tại Marraketch (Maroc).
Sự chậm trễ liên tiếp trong các cuộc đàm phán cũng có mặt tích cực của nó.
Đối với một số vấn đề về dịch vụ, sở hữu trí tuệ hay thậm chí việc hình thành tổ
chức thương mại thế giới sẽ không thể tiến xa đến thế nếu đàm phán được tiến hành
vào năm 1990.
Tuy nhiên, việc phải làm còn quá nhiều và những nhân vật chịu trách nhiệm
về các vấn đề thương mại của các quốc gia bắt đầu mỏi gối chồn chân. Việc đi đến
một hiệp định chung cho hầu hết các vấn đề thương mại tỏ ra hết sức khó khăn
khiến một số người cho rằng tổ chức một vòng đàm phán ở quy mô lớn đến thế là
điều không tưởng. Trong khi ấy, rất nhiều vấn đề đã được lên lịch trình bàn bạc
trong các hiệp định ký kết trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay.
Năm 1996, một số quốc gia đã dứt khoát yêu cầu xúc tiến một vòng đàm phán
mới vào đầu thế kỷ 21. Phản ứng trước yêu cầu này không thống nhất song rõ ràng
hiệp định Marraketch đã tập hợp những cam kết mở lại đàm phán về các vấn đề
nông nghiệp và dịch vụ vào cuối thế kỷ 20. Các cuộc đàm phán được bắt đầu vào
năm 2000 và đặt trong khuôn khổ vòng đàm phán Doha vì sự phát triển.
Điều gì đã xảy ra với GATT: Tổ chức thương mại thế giới đã thay thế GATT
với tư cách một tổ chức quốc tế song những gì đạt được sau vòng đàm phán

Uruguay cho thấy thực tế. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại vẫn tồn tại
6
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
và có hiệu lực vì nó là hiệp định khung của tổ chức thương mại thế giới trong các
vấn đề về trao đổi hàng hóa.
Các luật gia thương mại để ý đến sự khác nhau giữa GATT năm 1994 với
những phần của GATT được giữ đến ngày hôm nay và GATT của năm 1947 (GATT
1947 vẫn luôn là nền tảng của GATT 1994). Đây liệu có phải là một sự thay đổi?
Đối với đa số, chỉ cần nói GATT là đủ.
Chương trình lập kế hoạch sau vòng đàm phán Uruguay: Rất nhiều hiệp
định được ký kết trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay có một phần xác định
lịch trình cho những việc phải làm trong tương lai. Một số việc được tiến hành lập
tức sau đó. Đối với một số lĩnh vực, việc phải làm là tiếp tục đàm phán hoặc xúc
tiến những cuộc đàm phán mới.
Một số lĩnh vực khác lại yêu cầu đánh giá tình hình triển khai hiệp định vào
những thời điểm cụ thể. Một số cuộc đàm phán kết thúc rất chóng vánh, đặc biệt là
về vấn đề hạ tầng viễn thông và dịch vụ tài chính (chính phủ các nước đã rất nhanh
chóng đi đến thống nhất về việc mở cửa thị trường thương mại sản phẩm công nghệ
thông tin, vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ của chương trình bộ phận này).
Sau vòng đàm phán Uruguay, đã có những sửa đổi và mở rộng nội dung đối
với văn bản gốc về chương trình kế hoạch. Một chương trình kế hoạch bao gồm
hơn 30 phần. Sau đây là một số vấn đề đáng chú ý:
1996: Dịch vụ vận tải hàng hải: kết thúc đàm phán về mở cửa thị trường (tiến
hành vào ngày 30-6-1996, hoãn lại tới năm 2000, sau chuyển sang chương trình
phát triển Doha)
Dịch vụ và môi trường: xác định thời hạn báo cáo kết quả của nhóm công tác
(hội nghị bộ trưởng tháng 12 năm 1996)
Dịch vụ công: tiến hành đàm phán
1997: Hạ tầng viễn thông: kết thúc đàm phán (15-2); Dịch vụ tài chính: kết
thúc đàm phán (30- 12); Sở hữu trí tuệ: thiết lập hệ thống đóng dấu và đăng ký mã

vùng đối với các sản phẩm rượu vang: tiến hành đàm phán, trở thành một bộ phận
trong chương trình đàm phán vì sự phát triển Doha
1998: Hàng dệt may: một giai đoạn mới bắt đầu vào ngày 1-1; Dịch vụ: (các
biện pháp khắc phục kịp thời): áp dụng kết quả đàm phán liên quan đến các biện
pháp khắc phục kịp thời (trước 1-1-1998, hoãn lại đến tháng 3-2004); Luật về xuất
xứ sản phẩm: chương trình làm việc đi đến sự thống nhất tương đối giữa luật về
xuất xứ sản phẩm của các quốc gia (20-7-1998); Thị trường công: mở những cuộc
đàm phán mới để cải thiện hệ thống luật và thủ tục (trước năm 1998); Giải quyết
tranh chấp: xem xét kỹ về luật và thủ tục giải quyết tranh chấp (trước năm 1998)
1999: Sở hữu trí tuệ: bắt đầu xem xét một số ngoại lệ đối với việc cấp bằng
sáng chế và bảo vệ đa dạng thực vật
7
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
2002: Nông nghiệp: bắt đầu tiến hành đàm phán, thuộc Chương trình phát
triển Doha; Dịch vụ: Bắt đầu một loạt các cuộc đàm phám mới, thuộc chương trình
phát triển Doha; Ràng buộc thuế quan: xem xét lại khái niệm ‘nhà cung cấp chính’
tại điều 28 trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại về quyền của người
tham gia đàm phán đối với việc sửa đổi ràng buộc; Sở hữu trí tuệ: Lần đầu tiên đã
có kiểm tra định kỳ (2 năm một lần) việc thực thi hiệp định
2002: Dệt may: bắt đầu giai đoạn đầu tiên (1-1)
2005: Dệt may: áp dụng hoàn toàn trong khuôn khổ GATT và chấm dứt thời
gian hiệu lực của hiệp định (1-1)
III.2. Vòng đàm phán Doha
III.2.1. Bối cảnh ra đời và mục tiêu đàm phán
Vòng đàm phán Doha (hay còn được gọi là Chương trình nghị sự Doha về
Phát triển DDA) được khởi động tại Hội nghị Bộ trưởng WTO (MC) lần thứ 4, tổ
chức tại Doha, Quatar tháng 11 năm 2001. Mục tiêu ban đầu mà các Bộ trưởng đề
ra là kết thúc Vòng Doha vào năm 2005 nhưng cho đến nay (2010) vẫn chưa thực
hiện được.
Theo Tuyên bố của các Bộ trưởng tại Hội nghị MC4, Vòng Doha có nhiệm

vụ đàm phán trong những lĩnh vực sau: (i) tiếp cận thị trường hàng phi nông nghiệp
(NAMA); (ii) nông nghiệp; (iii) dịch vụ; (iv) các vấn đề về quy tắc (rules); (v) sở
hữu trí tuệ; (vi) thuận lợi hóa thương mại; (vii) thương mại – môi trường và (viii)
thương mại phát triển. Mục tiêu đàm phán là gói cam kết tổng thể tất cả các lĩnh
vực trên (“single undertaking”).
Trong các lĩnh vực kể trên, NAMA và nông nghiệp được xem là hai lĩnh
vực mang tính quyết định, mở đường cho việc kết thúc đàm phán trong các lĩnh
vực khác.Gần đây, dịch vụ đang dần trở nên quan trọng hơn với sự quan tâm của
một số thành viên lớn của WTO như Hoa Kỳ, EU.
III.2.2. Diễn biến đàm phán và các vấn đề tồn tại
Sau nhiều vòng đàm phán từ năm 2001 đến năm 2008, Hội nghị Bộ trưởng
WTO thu hẹp tại Geneve vào tháng 7 năm 2008 là thời điểm các thành viên WTO
tiến gần đích đàm phán nhất nhưng cuối cùng đàm phán lại tan vỡ do một số thành
viên quan trọng không thỏa thuận được những vấn đề then chốt nhất về nông
nghiệp.
Sau thất bại tại hội nghị này, lãnh đạo các thành viên tham gia đàm phán
chủ chốt và hầu hết các thành viên WTO đặt mục tiêu hoàn thành vòng Doha vào
năm 2010.Tuy vậy, tiến trình đàm phán vòng Doha trong năm 2009 vấp phải ba trở
ngại lớn.
Thứ nhất, bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ và sự thay đổi bộ máy chính quyền
của nước này đã làm gián đoạn đáng kế tiến trình đàm phán. Do chưa sẵn sàng về
8
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
bộ máy và chính sách nên từ đầu năm 2009 đến tháng 4 năm 2010 Hoa Kỳ không
có cả Đại sứ tại WTO vàđại diện nông nghiệp và hầu như không tham gia thực chất
vào tiến trình đàm phán.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu lớn nhất trong nhiều
thập niên khiến kinh tế thế giới chao đảo và trở nên bất ổn.Trong bối cảnh đó, các
nước đều bận tâm đối phó với những khó khăn kinh tế trong nước và áp lực đòi bảo
hộ từ ác ngành công nghiệp trong nước và nghiệp đoàn ngày càng tăng lên.

Thứ ba, sự gia tăng các thỏa thuận thương mại song phương và khu vực
cùng với sự kéo dài quá lâu của vòng đàm phán Doha khiến niềm tin vào hệ thống
thương mại đa phương bị lung lay. Vì vậy, những kết quả đạt được trong năm 2009
là khá hạn chế.
Bước sang năm 2010, tình hình liên quan đến đàm phán có một số chuyển
biến tích cực: (i) kinh tế thế giới tiếp tục có dấu hiệu phục hồi; (ii) Hoa Kỳ tỏ ra
quan tâm hơn đến vòng Doha; (iii) đàm phán đã có những bước tiến nhất định về
mặt kỹ thuật sau một thời gian áp dụng phương pháp vừa đàm phán kỹ thuật, vừa
đàm phán phương thức (modalities). Nhiều thànhviên quan trọng của WTO đều
mong muốn Hoa Kỳ sớm đưa ra cam kết để kết thúc vòng đàm phán.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn tại những câu hỏi lớn liên quan đến ý đồ
của Hoa Kỳ và một số thành viên lớn như Trung quốc, Ấn độ, Brazil. Do Hoa Kỳ
chưa thực sự vào cuộc nên các nước đang phát triển (ĐPT) chủ chốt như Trung
quốc, Ấn độ, Brazil chưa muốn “ngả bài”. Bên cạnh đó, nhiều nước kém phát triển
(LDC) khu vực châu Phi bị Hoa Kỳ và EU lôi kéo đã đứng về phía các nước phát
triển trong việc trì hoãn giảm thuế, duy trì các ưu đãi riêng cho các nước này, kêu
gọi các thành viên WTO thực hiện “thu hoạch sớm” hay “phi hạn ngạch” hoặc “phi
thuế’ cho các nước LDC, khiến cục diện đàm phán càng khó khăn, phức tạp hơn.
Ngoài ra, trong các lĩnh vực đàm phán quan trọng như NAMA, nông nghiệp và
dịch vụ vẫn còn tồn tại khoảng cách lớn giữa các thành viên phát triển và đang phát
triển. Những yếu tố như vậy đã khiến mục tiêu kết thúc vòng Doha vào năm 2010
không còn hiện thực, bất chấp các cuộc tham vấn cấp cao vẫn diễn ra dồn dập trong
thời gian qua.
Nhiều khả năng đàm phán sẽ kéo dài, Hoa Kỳ tiếp tục đòi các thành viên
khác mở cửa thêm thị trường cả về hàng hóa và dịch vụ. Nhằm cứu vãn vòng Doha,
có thể các nước ĐPT chủ chốt sẽ có nhân nhượng nhất định trong một số lĩnh vực
đàm phán như cắt giảm thuế quan theo ngành (sectoral), hàng hóa hóa môi trường,
dịch vụ sẽ được đẩy nhanh hơn. Diễn biến ở Geneva cho thấy nhóm các nước đang
phát triển tiếp tục nhấn mạnh yếu tố phát triển trong vòng Doha, trong khi đó, Hoa
Kỳ và phần nào là EU vẫn cho rằng vấn đề tiếp cận thị trường là trở ngại chính,

việc kết thúc đàm phán chưa mang lại cơ hội xuất khẩu đồng đều cho các nước,
hàm ý các nước ĐPT chưa có nhân nhượng đáng kể về mở cửa thị trường.
9
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Trong khi hầu hết các nước đều kêu gọi đẩy mạnh đàm phán trên cơ sở
những kết quả đã đạt được vào tháng 12/2008, Hoa Kỳ tỏ ý không hài lòng và gợi ý
có thể đàm phán lại các nội dung này.
Đàm phán sẽ tiếp tục được tiến hành đàm phán đồng thời trên 2 kênh: (i)
tham vấn, đàm phán song phương, nhiều bên về các vấn đề kỹ thuật còn tồn đọng;
(ii) thảo luận phương thức lập Biểu cam kết của từng thành viên trong lĩnh vực
NAMA, nông nghiệp và dịch vụ.
Vào tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Với tư cách là
thành viên mới, VN được miễn trừ các cam kết mới về mở cửa thị trường (cắt giảm
thuế) nhưng không được miễn trừ trong các lĩnh vực khác . Mặc dù cho đến nay,
chưa có quy định cụ thể quy chế miễn trừ sẽ kéo dài trong thời gian bao lâu nhưng
thực tiễn cho thấy điều này tùy thuộc vào 2 yếu tố: (i) thời gian gia nhập và (ii)
trình độ phát triển và quy mô của nền kinh tế. Đến nay, một số thành viên mới như
Trung quốc, Đài Loan gia nhập WTO trước ta đã không còn được hưởng quy chế
này. Vì vậy, có thể nói vòng đàm phán Doha càng kéo dài thì càng bất lợi cho Việt
Nam. Việt Nam có thể không còn được hưởng quy chế miễn trừ các nước mới gia
nhập WTO (VRAM) và khi đàm phán kéo dài, nhiều vấn đề mới có thể xuất hiện,
trách nhiệm tham gia đàm phán của ta cũng nặng nề hơn.
III.3. Tình hình đàm phán vòng Doha
III.3.1. Tình hình đàm phán vòng Doha trong lĩnh vực nông nghiệp
 Những vấn đề cơ bản đã kết thúc
Đàm phán nông nghiệp có một số nhiệm vụ chính bao gồm: i) tăng cường
các quy tắc thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp; ii) cắt giảm trợ cấp xuất khẩu
và các hình thức trợ cấp bóp méo thương mại; iii) tăng cường mở cửa thị trường
thông qua giảm thuế và hàng rào phi thuế và iv) đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D)
cho các nước ĐPT và LDC.

Đàm phán nông nghiệp hiện đang được tiến hành trên 2 kênh gồm: i) tiếp
tục tham vấn để hoàn thành phương thức cam kết (modalities) trên cơ sở chính là
dự thảo của Chủ tịch Ủy ban đàm phán Chairtext 8/12/2008 (TN/AG/W/4/Rev.4 và
(ii) xây dựng các biểu mẫu cam kết để ngay khi phương thức cam kết hoàn thành,
các thành viên có thể bắt tay chuẩn bị Biểu cam kết của mình.
Cho đến nay, các thành viên đã cơ bản nhất trí được những vấn đề như
sau:
Mức cắt giảm thuế: Về cơ bản các thành viên đã nhất trí với công thức
cắt giảm thuế trong lĩnh vực nông nghiệp (qui định trong Chair Text 8/12/2008),
theo đó các thành viên phát triển thực hiện cắt giảm thuế trong vòng 5 năm với mức
cắt giảm từ 50%-70% còn các thành viên đang phát triển thực hiện cắt giảm trong
vòng 10 năm với mức cắt giảm bằng 2/3 mức cắt giảm của các nước phát triển. Việt
10
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Nam, Arab Saudi, Macedonia, Tonga và một số thành viên thu nhập thấp mới gia
nhập không phải thực hiện thêm nghĩa vụ cắt giảm thuế vượt quá cam kết gia nhập.
Trợ cấp trong nước: các thành viên cơ bản cũng chốt lại mức cắt giảm
trợ cấp trong nước bóp méo thương mại với tỷ lệ cắt giảm sẽ là 80, 70 và 55%
tương ứng mức trợ cấp trên 60 tỷ USD, 10 - 60 tỷ và dưới 10 tỷ USD. Riêng Việt
Nam và các nước Ả Rập Saudi, Macedonia, Ukraine (V-RAM) không có nghiã vụ
cắt giảm (Chairtext trang 5, đoạn 9).
Về hỗ trợ chung (aggregate measurement support- AMS): các thành
viên đồng ý việc cắt giảm AMS sẽ thực hiện theo tỷ lệ 70%, 60% và 45% tương
ứng cho các mức AMS lớn hơn 60 tỷ USD, mức AMS từ 15 – 40 tỷ USD và mức
AMS nhỏ hơn 15 tỷ USD. Những nước có mức AMS nhỏ 100 triệu USD và các
thành viên mới gia nhập (V-RAM, trong đó có Việt Nam) sẽ không phải cắt giảm.
Đối với hộp màu xanh da trời (Blue Box): theo dự thảo Chairtext, các
thành viên phát triển được phép hỗ trợ tối đa 2,5% tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp (giai đoạn 1995 - 2000 hoặc 1995 - 2004). Các nước đang phát triển và mới
gia nhập (RAM) được phép hỗ trợ tối đa 5%. Trong trường hợp có sự chuyển đổi từ

Hộp Hổ phách sang, các thành viên phải chọn thời gian để tính là 5 năm gần nhất
có số liệu.
Cạnh tranh xuất khẩu: Các thành viên phát triển sẽ phải xóa bỏ mọi
hình thức trợ cấp xuất khẩu vào cuối năm 2013. Các thành viên đang phát triển
phải cắt giảm còn 0% vào năm 2016. Đối với tín dụng xuất khẩu, các thành viên
phát triển chỉ được tài trợ lần cuối vào năm 2010 trong khi các thành viên đang
phát triển được kéo dài đến hết 2013.
Cơ chế tự vệ khẩn cấp (SSG): các thành viên phát triển sẽ phải loại bỏ
với mức khởi đầu là 1% số dòng thuế, thời gian thực hiện là 7 năm. Với các thành
viên đang phát triển, chỉ cho phép duy trì rất ít các dòng thuế được áp dụng
SSG.Việt Nam khi gia nhập WTO đã cam kết không sử dụng SSG.
 Những vấn đề tồn tại
Cơ chế tự vệ đặc biệt (SSM):Cơ chế này dành cho các thành viên ĐPT để
bảo vệ ngành sản xuất trong nước, theo đó khi một sản phẩm nhập khẩu trong 3
năm liên tiếp tăng từ 110% - 115% , hoặc [116%-135%], và trên 135% thì nước đó
được phép tăng thuế nhập khẩu sản phẩm trên lên 25%, hoặc [40%] và 50% so với
mức cam kết Thời gian áp dụng SSM không vượt quá 4 tháng và không áp dụng lại
sau khoảng thời gian tương đương đã qua. Trong 12 tháng thực hiện, tổng áp dụng
SSM không được vượt quá 2,5 tổng các dòng thuế.
Các con số cụ thể và cơ chế áp dụng hiện nay vẫn còn tranh cãi giữa các
thành viên đàm phán chủ chốt (cụ thể là nhóm G33 và EU, Hoa Kỳ, Doha). Hiện ta
đang phối hợp với nhóm RAM đề nghị các thành viên mới gia nhập không phải
thực hiện thêm nghĩa vụ giảm thuế đều được áp dụng SSM khi đáp ứng các điều
11
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
kiện cần thiết.
Sản phẩm đặc biệt: Các thành viên được phép chỉ định tối đa 12% dòng
thuế thuộc diện sản phảm đặc biệt và những sản phẩm này sẽ chịu mức cắt giảm
thuế trung bình là 11%. Các thành viên mới gia nhập (RAM) được chỉ định 13%
dòng thuế thuộc sản phẩm đặc biệt, theo đó sẽ có 5% số dòng thuế không phải thực

hiện cắt giảm, số còn lại mức cắt giảm là 10%. Hiện nay các thành viên chủ chốt và
những thành viền có quyền lợi vẫn đang tham vấn về danh mục này của mình.
Sản phẩm nhạy cảm (SP):Các thành viên được phép đưa ra danh mục các
sản phẩm nhạy cảm để hưởng một số linh hoạt trong giảm thuế (giảm ở mức thấp
hơn và lộ trình dài hơn). Số lượng sản phẩm đưa vào danh mục SP được thỏa thuận
ban đầu là: 4% đối với các thành viên phát triển (riêng các thành viên đã có số
lượng sản phẩm nhạy cảm trong danh mục trên 30% được đăng ký thêm tối đa 2%
tức là tổng số 6% nhưng có thể sẽ phải đền bù). Với các thành viên đang phát triển,
1/3 số lượng dòng thuế trong danh mục nhạy cảm sẽ không phải giảm thuế.Riêng
các thành viên RAM được phép duy trì số sản phẩm SP tối đa 10% số dòng thuế.
Có 12 tiêu chí để xác định danh mục Sản phẩm nhạy cảm, chủ yếu đó phải liên
quan đến an ninh lương thực, sinh kế và phát triển nông thôn…
Hiện nay Nhật Bản (nhóm G10) và Canada chưa đồng ý với tỷ lệ này
(Nhật yêu cầu danh mục 8%, Canada 6%). Nhóm RAMs (trong đó có Việt Nam) đề
nghị số các sản phẩm nhạy cảm của RAMs được nhiều hơn các nước phát triển là
1/3, và số TRQ mở rộng ít hơn các nước phát triển là 1/3. Ngoài ra, đối xử đặc biệt
và khác biệt trong (S&D) thời hạn mở rộng TRQ được áp dụng cho cả RAMs và
các nước đang phát triển.Cho đến nay, Việt Nam chưa đưa ra danh mục SP.
Sản phẩm nhiệt đới (TP): Nhóm các thành viên có sản phẩm nhiệt đới,
chủ yếu là khu vực Mỹ La tinh đang xây dựng danh mục sản phẩm nhiệt đới (gồm
cả sản phẩm thô và chế biến) để thúc đẩy yêu cầu Mỹ, EU và các thành viên cắt
giảm mạnh thuế quan (dự kiến giảm xuống còn 0% hoặc cắt giảm 85%). Hiện nay
các thành viên vẫn tiếp tục thỏa thuận về danh mục các sản phẩm cụ thể và danh
mục sản phẩm tiếp tục được duy trì ưu đãi cho các thành viên kém phát triển (gọi
tắt là xói mòn ưu đãi). Đã có một số thành viên Mỹ La tinh tiếp cận đề nghị Việt
Nam tham gia thúc đẩy tự do hoá nhóm sản phẩm nhiệt đới.
Về xói mòn ưu đãi các sản phẩm nông nghiệp: sản phẩm trong danh mục
củaPhụ lục H sẽ không bị cắt giảm thuế trong 10 năm sau khi Doha kết thúc. Việc
cắt giảm chỉ được thực hiện 5 năm tiếp theo. Việc thảo luận phụ lục H hiện đang
được tiến hành đồng thời với danh mục sản phẩm nhiệt đới. Rất ít khả năng Việt

Nam lọt vào được phụ lục H này.
Hạn ngạch thuế quan mới (TRQ): Các thành viên hiện vẫn đang tranh cãi
về khả năng tạo hạn ngạch thuế quan mới (đề xuất hiện nay là TRQ mới không
vượt quá 1% các dòng thuế hiện hành, ngoại trừ các sản phẩm nhạy cảm, số hạn
12
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
ngạch được gia hạn, và một số trường hợp đặc biệt khác). Nhiều thành viên xuất
khẩu phản đối, đồng thời đấu tranh yêu cầu mở rộng hạn ngạch thuế quan cũ.
III.3.2. Tình hình đàm phán trong lĩnh vực phi nông nghiệp (NAMA)
 Những vấn đề cơ bản đã kết thúc
Đàm phán NAMA có một số nhiệm vụ chính bao gồm: i) cắt giảm thuế
quan, đặc biệt là cắt giảm hoặc loại bỏ thuế đỉnh, thuế leo thang; ii) cắt giảm hàng
rào phi thuế quan đối với hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng xuất khẩu của các nước
đang phát triển và iii) đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước ĐPT và LDC.
Đến cuối năm 2008, tài liệu đàm phán của Chủ tịch Ủy ban đàm phán
NAMA đã được rà soát lần thứ 3 và được các thành viên tạm chấp nhận là tài liệu
cơ sở cho đàm phán của các năm tiếp theo (tài liệu mã số TN/MA/W/103/Rev.3
ngày 06.12.2008).
Đối với mô hình cắt giảm thuế: về cơ bản các thành viên đã thống nhất
được công thức cắt giảm thuế Thụy Sĩ, trong đó có các phương án linh hoạt khác
nhau cho các thành viên đang và kém phát triển, các nền kinh tế nhỏ.
Đối với đối xử đặc biệt và khác biệt: các thành viên đồng ý dành thêm
linh hoạt, hoặc ngoại lệ cho các thành viên nhóm RAM, cho các nền kinh tế nhỏ và
dễ tổn thương, các thành viên đang phát triển hiện có diện mặt hàng ràng buộc hẹp
theo Vòng UR (low binding coverage), các nội dung liên quan đến LDCs. Riêng
nhóm VRAMs (gồm Việt Nam và các nước Arab Saudi, Macedonia, Ukraine) sẽ
không phải thực hiện các cam kêt mới về mở cửa thị trường.
 Những vấn đề cơ bản tồn tại
Đàm phán NAMA hiện nay chủ yếu xoay quanh danh mục các mặt hàng
ưu tiên giữa các thành viên đàm phán chủ chốt, vấn đề tự do hóa theo ngành và

đàm phán NTBs. Đối với các nội dung này quan điểm của các thành viên còn nhiều
khác biệt, cả về cách tiếp cận kỹ thuật lẫn chủ trương chính trị.
Đối với sáng kiến cắt giảm thuế quan theo ngành (Sectorals):Hiện có 14
đề xuất đàm phán trong các ngành hàng khác nhau là ôtô, xe đạp, hoá chất, điện tử,
cá, lâm nghiệp, đá quý, nguyên liệu thô, dụng cụ thể thao, y tế, công cụ lao động,
dệt may, đồ chơi và máy công nghiệp. Phương thức giảm thuế trong từng ngành có
thể sẽ khác nhau, tuỳ tình hình đàm phán, nhưng nhìn chung là sẽ giảm thuế xuống
còn 0-5%. Điều kiện để sáng kiến ngành được thừa nhận trong WTO là tổng số
nước tham dự phải chiếm khoảng 90% thương mại sản phẩm đó trên trên giới
(critical mass). Trung Quốc, Brazil nhấn mạnh nguyên tắc tự nguyện tham gia sáng
kiến này, từ chối không tham một số ngành trọng yếu như hóa chất. Hoa Kỳ cho
rằng không thể kết thúc đàm phán NAMA nếu các thành viên đang phát triển mới
nổi như Trung Quốc, Braxin không tham gia tự do hoá theo ngành.
13
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Mặc dù có sự chống đối từ một số nước nhưng Sectorals sẽ dần dần trở
thành một chủ đề chính trong đàm phán NAMA vì đáp ứng yêu cầu của Mỹ và một
số thành viên phát triển về mở cửa thị trường.
Đối với các biện pháp phi thuế quan (NTBs): các ngành hàng hiện đang
được các thành viên đề xuất thảo luận cắt giảm hàng rào kỹ thuật gồm: ô tô; điện
tử; hóa chất; ghi nhãn hàng dệt may, quần áo, giày dép và hàng du lịch; pháo hoa;
bật lửa; lâm sản sử dụng trong xây dựng. Phần lớn các đề xuất này do các thành
viên phát triển đưa ra (trừ pháo hoa do Trung Quốc và hóa chất do Argentina), với
nội dung chính là hài hòa các tiêu chuẩn quốc tế, các quy định kỹ thuật, thủ tục
đánh giá sự phù hợp về tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật, và tăng cường minh bạch
hóa qui định quản lý đối với các ngành hàng này. Các đề xuất chung cho toàn bộ
đàm phán về NTB tập trung vào các nội dung chính như quản lý NTB nhất quán,
minh bạch hóa thủ tục cấp phép xuất khẩu và thuế xuất khẩu v.v
Những đề xuất đáng chú ý của các thành viên WTO đối với một số ngành
hàng cụ thể như sau:

- Về cơ chế ngang-horizotal mechanism (hơn 100 thành viên đang phát
triển và LDCs, EU, Na Uy, Canada, New Zealand, Thụy Sỹ đề xuất): vấn đề chính
còn tranh cãi là phạm vi áp dụng. Các thành viên như Nhật Bản, Hàn Quốc và Thổ
Nhĩ Kỳ đề nghị không áp dụng đối với các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS). Hoa Kỳ
giữ quan điểm thận trọng, cho rằng cần khai thác triệt để ủy ban TBT hiện hành
thay vì đề xuất cơ chế này.
- Về ô tô và điện tử do Hoa Kỳ, EU đề xuất (mỗi ngành hàng bao gồm 2
đề xuất riêng của Hoa Kỳ và EU): vấn đề còn vướng là Hoa Kỳ và EU theo các
cách tiếp cận khác nhau, EU đề nghị công nhận các tiêu chuẩn của UNECE WP/29,
ISO, IEC đối với ô tô và của ISO, IEC, ITU đối với điện tử; Hoa Kỳ cho rằng cần
thừa nhận cả các tiêu chuẩn của công ty là tiêu chuẩn quốc tế, đề nghị áp dụng hình
thức mới là “công ty tự đánh giá” ngoài việc chứng nhận của bên thứ ba. Các thành
viên đang phát triển và LDCs lo ngại về thêm gánh nặng hành chính khi thực hiện
nghĩa vụ minh bạch hóa tiêu chuẩn.
- Về ghi nhãn hàng dệt may, quần áo, giày dép và hàng du lịch (do Hoa
Kỳ, EU, Srilanka, Mauritius và Ukraine đề xuất): vấn đề phạm vi áp dụng và ghi
nước xuất xứ chưa được thống nhất. Các thành viên như Thụy Sỹ, Hàn Quốc và
Hong Kong đề nghị không áp dụng ghi nhãn & xuất xứ đối với các sản phẩm trung
gian như sợi, chỉ, bông. Các thành viên đang phát triển đề nghị bỏ yêu cầu này do
lo ngại về gánh nặng chi phí đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Về hàng tân trang (remanufactured goods) (Hoa Kỳ, Nhật Bản và
Thụy sỹ đề nghị hàng tân trang cần được đối xử như hàng hóa mới): đây là vấn đề
nhiều thành viên phản đối, không muốn thảo luận vì đa số các thành viên đang phát
triển cho rằng khó phân biệt hàng tân trang với hàng tái chế (refurbished), hàng đã
14
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
qua sử dụng (second-hand). Các thành viên đang phát triển cũng bày tỏ quan ngại
về vấn đề bảo hành và tác động tới môi trường. Các thành viên ủng hộ đề xuất này
đã tổ chức một hội thảo về ngành công nghiệp tân trang nhằm vận động ủng hộ đề
xuất. Một số quốc gia đề xuất thành lập Nhóm làm việc về hàng tân trang thuộc

Hội đồng thương mại hàng hóa nhằm trao đổi về tiến độ giảm hoặc xóa bỏ các
hàng rào phi thuế quan đối với hàng tân trang nhưng một số thành viên khác
(Achentina, Braxin, Venezuela, Ecuador và Ấn Độ) lại cho rằng nếu Nhóm làm
việc đi vào hoạt động trước khi Vòng Doha kết thúc có thể coi như thỏa thuận thu
hoạch sớm về hàng tân trang và các thành viên này không chấp nhận điều này.
- Về hóa chất (bao gồm 2 đề xuất riêng của Argentina, Brazil và EU):
nhiều thành viên còn quan ngại về phạm vi sản phẩm có bao gồm dược phẩm hay
không, xác định cơ quan định chuẩn quốc tế và gánh nặng chi phí đăng ký hóa chất
nhập khẩu đối với các doanh nghiệp.
- Về minh bạch hóa thủ tục cấp phép xuất khẩu (Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan, Hoa Kỳ và Ukraineđề xuất): đa số các thành viên đang phát triển đều lo
ngại về vấn đề gánh nặng hành chính và khả năng thực thi do những hạn chế về
năng lực hành chính.
Việt Nam cũng sẽ gặp phải các vấn đề tương tự như gánh nặng hành
chính do chi phí quản lý phát sinh, sửa đổi và bổ sung hệ thống pháp quy trong
nước liên quan, khả năng quản lý những vấn đề mới trong thương mại, khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp, vấn đề lệ thuộc công nghệ v.v
Đối với vấn đề thuế xuất khẩu: EU đề xuất đưa nội dung này vào nhiệm
vụ đàm phán theo hướng loại bỏ các hình thức thuế xuất khẩu, trừ một số trường
hợp ngoại lệ cho tài nguyên môi trường. Nhiều thành viên đang phát triển như
Trung Quốc, Argentina, Malaysia, Arab Saudi và Việt Nam không nhất trí thảo luận
do vấn đề này không nằm trong nhiệm vụ đàm phán Doha. Ngoài ra, đây cũng là
công cụ bảo vệ nguồn tài nguyên môi trường và đảm bảo nguồn thu ngân sách.
Đối với vấn đề xói mòn ưu đãi đối với một số sản phẩm dệt may: Danh
mục sản phẩm xói mòn ưu đãi vào thị trường EU (phụ lục 2 của Tài liệu Chủ tịch),
Hoa Kỳ (phụ lục 3 của Tài liệu Chủ tịch) và các thành viên được hưởng một số
ngoại lệ đối với một số sản phẩm (phụ lục 4) không có gì thay đổi kể từ tháng
12.2008 đến nay. Nhiều thành viên cho rằng danh mục này đã tương đối ổn định,
không nên bàn thêm tại thời điểm này. Tuy nhiên, vấn đề này chưa khép lại do
nhiều thành viên LDC vẫn đòi mở thêm danh mục 2 & 3.

III.3.3. Tình hình đàm phán trong lĩnh vực dịch vụ
 Những vấn đề cơ bản đã kết thúc
Đàm phán có những nhiệm vụ gồm: i) tiếp tục đàm phán mở cửa thị
trường theo các điều khoản liên quan của GATS; ii) xây dựng các quy tắc cho vấn
15
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
đề quy định trong nước theo Điều VI: 4 của GATS; iii) xây dựng các quy tắc bổ
sung cho GATS tại các Điều X (Các biện pháp tự vệ khẩn cấp), Điều XIII (Mua
sắm Chính phủ) và Điều XV (Trợ cấp) và iv) xây dựng các nguyên tắc cụ thể nhằm
thực hiện cam kết dành ưu tiên cho sự phát triển của các nước kém phát triển
(LDC) và các nền kinh tế nhỏ.
Trên cơ sở nhiệm vụ đã được đưa ra, đàm phán dịch vụ được tiến hành
trên hai kênh. Kênh thứ nhất là các cuộc đàm phán song phương hoặc nhiều bên để
mở cửa thị trường dịch vụ, chủ yếu thông qua việc cải thiện các cam kết đã có
trong WTO về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. Kênh thứ hai là các cuộc đàm
phán đa phương trong khuôn khổ WTO để thiết lập các quy định và nguyên tắc
chung áp dụng cho toàn bộ các thành viên WTO.
Đàm phán dịch vụ trong năm 2009 và các phiên đầu năm 2010 không có
nhiều tiến triển do các thành viên tiếp tục duy trì quan điểm cứng rắn, ít nhượng bộ
lẫn nhau. Phần đông các thành viên WTO nhận định rằng đàm phán dịch vụ sẽ khó
đạt kết quả nếu đàm phán nông nghiệp và NAMA không tiến triển. Thêm vào đó,
với việc Quốc hội Hoa Kỳ không cho phép đoàn đàm phán Hoa Kỳ được nhân
nhượng đối với vấn đề di chuyển thể nhân (Mode 4)-một vấn đề mang lợi ích hàng
đầu đối với các thành viên ĐPT đặc biệt là Ấn Độ, tiến trình đàm phán dịch vụ còn
gặp rất nhiều trở ngại ở phía trước.
 Những vấn đề tồn tại
Đối với đàm phán mở cửa thị trường: các thành viên đã tiến hành trao
đổi bản chào ban đầu và bản chào sửa đổi. Đến nay đã có 71 bản chào ban đầu và
31 bản chào sửa đổi được các thành viên WTO đưa ra. Ban Thư ký WTO đã thống
kê các bản chào và xác định yêu cầu của các thành viên tập trung vào trong 21

ngành và phân ngành dịch vụ bao gồm các dịch vụ như dịch vụ kinh doanh, dịch vụ
viễn thông, dịch vụ xây dựng, dịch vụ phân phối, dịch vụ tài chính, dịch vụ giao
thông vận tải, di chuyển thể nhân, cung cấp qua biên giới v.v Tuy nhiên, do thiếu
tiến bộ từ các lĩnh vực đàm phán khác nên đàm phán song phương hoặc thậm chí là
nhiều bên giữa các thành viên tiến triển rất chậm chạp. Theo đánh giá của Chủ tịch
Ủy ban đàm phán về dịch vụ, khoảng cách giữa bản chào và yêu cầu của các thành
viên còn lớn và chỉ có thể thu hẹp với quyết tâm chính trị của tất cả các thành viên.
Đáng chú ý là mặc dù được miễn trừ nghĩa vụ mở cửa thị trường hơn nữa
trong đàm phán nông nghiệp và NAMA nhưng Việt Nam không được miễn trừ
nghĩa vụ này trong đàm phán dịch vụ. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có thành viên
nào đưa ra yêu cầu đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ với Việt Nam.
Đối với đàm phán về quy định trong nước: các thành viên đạt được nhiều
tiến triển trong đàm phán về xây dựng quy định trong nước. Kế từ khi có dự thảo
lời văn báo cáo của Chủ tịch Ủy ban đàm phán dịch vụ vào tháng 3 năm 2009, các
thành viên đã tích cực tham gia vào đàm phán nội dung này. Tất cả các thành viên
16
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
đều nhất trí việc xây dựng quy định trong nước minh bạch và hiệu quả có vai trò rất
quan trọng trong tiến trình tự do hóa lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, các thành viên
vẫn chưa đạt được đồng thuận trong nhiều nội dung cụ thể và tiếp tục trao đổi song
song với đàm phán về mở cửa thị trường trong các phiên đầu năm 2010.
Đối với đàm phán các vấn đề quy tắc: các thành viên chưa đạt được
nhiều tiến bộ đối với việc đàm phán để xây dựng nội dung cho các vấn đề quy tắc
bao gồm: trợ cấp, tự vệ đặc biệt và mua sắm chính phủ trong lĩnh vực dịch vụ. Do
còn nhiều quan điểm khác biệt và tính chất phức tạp của vấn đề nên các thành viên
chưa thực sự tập trung vào đàm phán những nội dung này.
Đối với các điều khoản của GATS liên quan tới các nước LDC: mặc dù
đã có lời văn cho vấn đề này nhưng các thành viên chưa nhất trí do có một số thành
viên muốn gắn vấn đề này vào cả gói đàm phán, ý trông chờ vào kết quả đàm phán
của các lĩnh vực khác rồi mới quyết định.

III.3.4. Tình hình đàm phán trong lĩnh vực quy tắc
 Những vấn đề cơ bản đã kết thúc
Đàm phán quy tắc có nhiệm vụ làm rõ và phát triển các nguyên tắc trong
Hiệp định về Chống bán phá giá và Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối
kháng, bổ sung quy định về trợ cấp thủy sản, đồng thời đảm bảo duy trì các nguyên
tắc, khái niệm và hiệu quả chính của các Hiệp định này cũng như các công cụ và
mục tiêu của chúng có tính đến nhu cầu của các Thành viên là nước đang và kém
phát triển.
Trên cơ sở này, vào tháng 8 năm 2003 tài liệu TN/RL/W/143 đã được
Ban Thư ký WTO chuyển tới các Thành viên. Tài liệu này tổng hợp 141 đề xuất
của các thành viên về những nội dung cần được xem xét trong khuôn khổ đàm phán
quy tắc. Vào tháng 12 năm 2007, Chủ tịch Nhóm đàm phán về các quy tắc đã đưa
ra Dự thảo 1, đề cập tới nhiều nội dung quan trọng. Quá trình thảo luận Dự thảo 1
cho thấy các nước chưa sẵn sàng trong việc mặc cả với nhau về những nội dung
quan trọng của Dự thảo và các nước đã đề nghị Chủ tịch đưa ra Dự thảo mới. Vào
tháng 5 năm 2008, Chủ tịch Nhóm đã đưa ra bản tóm tắt tổng hợp đề xuất của các
nước về Dự thảo 1 dưới hình thức tài liệu của WTO (TN/RL/WTO/232).
Trên cơ sở kết quả đàm phán đến cuối năm 2008, vào tháng 12 năm 2008
Chủ tịch đã chuyển tới các Thành viên Dự thảo 2. Trong Dự thảo 2, những nội
dung quan trọng có thể thỏa thuận đã được cụ thể thể hóa thành văn bản, những nội
dung chưa thỏa thuận để trong ngoặc [ ]. Toàn bộ nội dung của Dự thảo thứ 2 đã
được các thành viên xem xét trong khuôn khổ Nhóm đàm phán về các quy tắc đến
đầu năm 2010.
Cho đến nay, các thành viên về cơ bản đã đạt được sự đồng thuận đối với
một số nội dung trong đàm phán, bao gồm:
17
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Đối với hiệp định chống bán phá giá (ADA): các Điều 10.8bis -Hoàn
trả, Điều 11.2 - Rà soát giữa kỳ ; Điều 12 - Thông báo công khai ; Điều 16.4 ;Phụ
lục I và Điều 6.7; Phụ lục II; Phụ lục III và Điều 18.6 được nhất trí về nguyên tắc.

Tuy nhiên còn một số nội dung kỹ thuật còn có quan điểm khác nhau nhưng khả
năng có thể thỏa hiệp được.
Đối với Trợ cấp trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM): Về nội
dung sửa đổi tại Điều 14.3, cơ bản các thành viên ủng hộ nhưng đề nghị cho phép
các thành viên có sự linh hoạt nhất định trong việc phân bổ trợ cấp và tạo cơ hội
chứng minh đâu là trợ cấp thường xuyên và đâu là trợ cấp không thường xuyên.
Những nội dung sửa đổi tại: Điều 25.1, 26.1; Phụ lục I điểm d và ghi chú 63; Phụ
lục I điểm j; Phụ lục II điểm b; ghi chú 74 nhìn chung đều được các nước nhất trí.
Nội dung của Phụ lục về trợ cấp thủy sản quy định: các loại trợ cấp thủy
sản cần cấm; ngoại lệ chung; đối xử đặc biệt và khác biệt; nguyên tắc chung; quản
lý nghề cá; minh bạch; giải quyết tranh chấp; thực thi; các quy định chuyển tiếp.
Hiện nay các thành viên chưa đạt được sự thống nhất nào trong các nội dung của
Phụ lục về trợ cấp thủy sản.
 Những vấn đề tồn tại
Trong Dự thảo Hiệp định về Chống bán phá giá còn 11 nội dung quan
trọng phải giải quyết đó là: phương pháp quy về không (zeroing); quan hệ nhân quả
giữa hành vi phá giá với thiệt hại; loại trừ các nhà sản xuất có liên quan; sản phẩm
thuộc diện xem xét; thông tin yêu cầu…. đối với các bên có ảnh hưởng; lợi ích
công cộng và mức thuế thấp hơn; chống lẩn tránh; rà soát cuối kỳ; chống bán phá
giá thay mặt nước thứ 3 và đối xử đặc biệt và khác biệt/hỗ trợ kỹ thuật.
Dự thảo Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng còn một số vấn
đề lớn cần được giải quyết là: hỗ trợ tài chính do thua lỗ (financing by loss-making
institutions); cạnh tranh xuất khẩu; tín dụng xuất khẩu; xác định giá để tính giá trị
trợ cấp khi nhà nước quy định giá hàng hóa và dịch vụ trong nước
Theo dự thảo Phụ lục về Trợ cấp thủy sản, phạm vi trợ cấp thủy sản bị
cấm quá rộng, quy định về điều kiện được hưởng đối xử đặc biệt và khác biệt lại
rất khó áp dụng. Vì vậy, quy định về trợ cấp thủy sản, nếu được áp dụng, sẽ ảnh
hưởng đến chính sách phát triển nghề cá của Việt Nam cũng như nhiều thành viên
đang phát triển khác, đồng thời có khả năng ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng thủy
sản của các nước này trong tương lai. Chính vì vậy, các thành viên chưa thống nhất

được nội dung nào trong đàm phán trợ cấp thủy sản.
III.3.5. Tình hình đàm phán trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
 Những vấn đề cơ bản đã kết thúc
Đàm phán trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) có nhiệm vụ chính là
đàm phán về việc xây dựng hệ thống đăng bạ đa phương dành cho chỉ dẫn địa lý
18
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
của rượu vang và rượu mạnh (sau đây gọi tắt là “đăng bạ chỉ dẫn địa lý”). Ngoài ra,
đàm phán SHTT có hai nhiệm vụ chưa rõ ràng
1
là mở rộng bảo hộ mạnh cho các
sản phẩm khác (sau đây gọi tắt là “mở rộng bảo hộ mạnh”) và xử lý mối quan hệ
giữa Hiệp định TRIPS và Công ước đa dạng sinh học (CBD).
Trên cơ sở này, các phiên họp đặc biệt của Hội đồng TRIPS của WTO
chỉ tập trung vào nhiệm vụ đàm phán xây dựng hệ thống đăng bạ chỉ dẫn địa lý,
chưa đi sâu vào thảo luận hai nhiệm vụ còn lại. Mặc dù các thành viên thúc đẩy hai
nhiệm vụ đó liên tục tìm cách để đưa vào chương trình nghị sự của Hội đồng
TRIPS nhưng do vấp phải sự phản đối của nhiều thành viên lớn như Hoa Kỳ,
Australiav.v nên nỗ lực này chưa đạt được nhiều kết quả.
 Các vấn đề tồn tại
Đối với sáng chế dược phẩm: quy định một số trường hợp không cấp
bằng sáng chế như bảo vệ sức khỏe con người và động vật, phương pháp chẩn đoán
và điều trị bệnh cho người và động vật, quy trình sản xuất động thực vật. Các nước
đang đàm phán các hình thức linh hoạt trong lĩnh vực này, trong đó có trường hợp
một nước không có đủ năng lực công nghệ để sản xuất dược phẩm dù được quyền
cấp phép cưỡng bức.
Đối với chỉ dẫn địa lý: đàm phán về chỉ dẫn địa lý trong WTO có 2 nội
dung chính: (i) xây dựng hệ thống đa phương về thông báo và đăng ký chỉ dẫn địa
lý của rượu vang và rượu mạnh; và (ii) mở rộng bảo hộ mạnh đang dành cho rượu
vang và rượu mạnh cho các sản phẩm khác.

Về xây dựng hệ thống thông báo đa phương, Điều 23.4 TRIPS quy định:
“Để tạo thuận lợi cho việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý của rượu vang và rượu mạnh, Hội
đồng TRIPS sẽ tiến hành đàm phán về việc thành lập hệ thống đa phương về thông
báo và đăng ký chỉ dẫn địa lý của rượu vang và rượu mạnh được bảo hộ tại các
Thành viên tham gia vào hệ thống”. Theo lập trường sơ bộ, Việt Nam ủng hộ việc
mở rộng đăng bạ cho các sản phẩm khác theo đề xuất của EU nhưng ủng hộ việc
tham gia tự nguyện, cần tính đến lợi ích của các nước không sản xuất rượu hoặc
không có thế mạnh về sản phẩm rượu, phù hợp với luật pháp của các quốc gia
Thành viên.
Về mở rộng bảo hộ mạnh chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm ngoài rượu
vang và rượu mạnh: Do phạm vi đàm phán vẫn chưa rõ ràng nên vấn đề này được
thảo luận dưới dạng tham vấn không chính thức do Tổng giám đốc hoặc Phó Tổng
1Nhiệm vụ này không rõ ràng vì được xếp vào loại “các vấn đề thi hành” theo đoạn 19 và 12 của Tuyên bố Doha và đoạn 39 của
Tuyên bố Hồng Công. Việc giải quyết các vấn đề này, theo Tuyên bố Doha, phụ thuộc vào ưu tiên của các cơ quan của WTO. Từ
khi khởi động đàm phán Doha đến nay, một số Thành viên bao gồm EU và một số nước đang phát triển như Ấn Độ, Doha, Trung
Quốc, nhóm châu Phi, nhóm ACP,… đã có gắng chính thức hóa nhiệm vụ đàm phán nhưng bị nhóm các nước phát triển như Hoa
Kỳ, Australia, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc,…phản đối nên vẫn chưa thành công. Do đó, các phiên đàm phán về 2 vấn đề
này được tổ chức dưới hình thức các buổi tham vấn do Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc một người được Tổng giám đốc
ủy quyền chủ trì.
19
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
giám đốc của WTO chủ tọa. Đàm phán vẫn đang tiếp tục tuy nhiên chưa có bước
phát triển mới. Hiện nay, Việt Nam ủng hộ quan điểm về mở rộng bảo hộ mạnh cho
chỉ dẫn địa lý các sản phẩm khác ngoài rượu vang và rượu mạnh.
Đối với mối quan hệ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước CBD: nhiệm vụ
đàm phán của vấn đề này chưa rõ ràng. Hiện nay, đang có 5 nhóm lập trường chính:
(i) bộc lộ nguồn gen được đưa thành quy định bắt buộc của TRIPS do Brazil, Ấn
Độ, Bolivia, Columbia, Cuba, Dominica, Ecuador, Peru và Thái Lan khởi xướng và
được sự ủng hộ của nhóm châu Phi, nhóm ACP; (ii) bộc lộ nguồn gen qua việc sửa
đổi Hiệp ước PCT (Hiệp ước Hợp tác sáng chế) của WIPO do Thụy Sĩ đề xuất; (iii)

bộc lộ nguồn gen nhưng chế tài xử lý vi phạm nằm ngoại phạm vi của luật sáng chế
do EU khởi xướng; (iv) sử dụng hệ thống luật quốc gia, bao gồm cả việc ký kết các
hợp đồng do Hoa Kỳ khởi xướng; (v) xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn gen và tri
thức truyền thống để tham khảo khi xét nghiệm đơn sáng chế do Nhật Bản khởi
xướng.
Hiện nay, đàm phán vẫn đang tiếp tục tuy nhiên chưa có bước phát triển
mới. Việt Nam ủng hộ lập trường của nhóm ủng hộ bộc lộ nguồn gen được đưa
thành quy định bắt buộc của TRIPS.
III.3.6. Tình hình đàm phán trong lĩnh vực thuận lợi hóa thương mại
 Các vấn đề cơ bản đã kết thúc
Đàm phán thuận lợi hóa thương mại (TLHTM) là quá trình đàm phán sửa
đổi, cải tiến các Điều 10 (công bố và quản lý các quy định thương mại), Điều 8
(Thủ tục và phí xuất, nhập khẩu) và Điều 5 (tự do lưu chuyển hàng quá cảnh) của
Hiệp định GATT 1994 gắn với đàm phán S&D, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và nâng
cao năng lực (TACB) cho các thành viên đang phát triển và LDCs nhằm tiến tới
thiết lập 1 hiệp định mới của WTO là Hiệp định TLHTM với các cam kết biện pháp
cụ thể đối với từng thành viên. Trong các lĩnh vực đàm phán Doha, đàm phán
Thuận lợi hoá thương mại là lĩnh vực đạt được tiến triển nhất và có thể đạt được
mục tiêu là kết thúc vào cuối năm 2010.
Đến nay, Ban Thư ký WTO đã hoàn thành và lưu chuyển được Bản tổng
hợp ngôn ngữ Dự thảo Hiệp định TLHTM- là kết quả của toàn bộ tiến trình đàm
phán đến nay, để các thành viên cho ý kiến và phục vụ cho các đợt đàm phán tới.
Nhìn chung phần dự thảo Hiệp định liên quan đến sửa đổi các điều khoản của
GATT 94 có thể sớm kết thúc, không còn khác biệt gì lớn giữa các thành viên.
 Các vấn đề tồn tại
Vấn đề chính còn tồn tại trong đàm phán TLHTM là các qui định về đối
xử S&D dành cho các thành viên đang phát triển và LDCs. Đây là một nội dung
trụ cột trong Hiệp định TLHTM, tùy thuộc vào khả năng của các thành viên đang
phát triển và LDC và sự hỗ trợ của các ccộng đồng quốc tế.
20

GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Ngoài ra, đối với các điều khác của Dự thảo Hiệp định, hiện vẫn còn một
số vấn đề tồn tại với những khác biệt quan điểm cần được giải quyết như sau:
- Điều 7: về Xử lý trước khi hàng đến (do Hongkong, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Mông Cổ, Thụy Sỹ và EU đề xuất) và Giao hàng nhanh của Hoa Kỳ: các
thành viên đang phát triển và LDCs đều quan ngại về phạm vi đề xuất; chủng loại
và tiêu chí xác định hàng giao nhanh và vấn đề hạn chế năng lực thực hiện của các
thành viên này.
- Điều 8: về Cấm yêu cầu giao dịch lãnh sự (do Hoa Kỳ và Uganda đề
xuất): các thành viên đang phát triển như Ai cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Kuwait, vẫn kiên
trì phản đối đề xuất loại bỏ và cũng xem đây là biện pháp hợp lệ theo Điều VIII của
GATT.
- Điều 10: về Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế (do Na Uy, Thụy Sỹ, Nam
Phi, Mông Cổ đề xuất) là vấn đề lựa chọn các tiêu chuẩn liên quan nào phù hợp, xử
lý vấn đề này đối với các thành viên chưa tham gia các thảo thuận quốc tế như
Nghị định thư Kyoto, ; Hải quan một cửa/đệ trình 1 lần (do Hàn Quốc, Singapore
và Thái Lan đề xuất): là vấn đề lựa chọn các tiêu chuẩn quốc tế phù hợp, một số
thành viên LDCs đề nghị thực hiện trên cơ sở tự nguyện không ràng buộc; Loại bỏ
giám định trước khi chuyển hàng (do EU và Đài Loan đề xuất): một số thành viên
Châu phi và Trung đông vẫn phản đối đề xuất này với lập luận đây là một biện
pháp được GATT cho phép.
- Điều 12: về Hợp tác hải quan: có một số đề xuất liên quan đến hợp tác
hải quan từ các thành viên phát triển và đang phát triển, hiện tại vẫn tồn tại một số
vấn đề cần tiếp tục làm rõ như phạm vi hợp tác, mức độ cam kết, các loại thông tin
được trao đổi và xác định các cơ quan chức trách nào sẽ tham gia.
Với bản chất là tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế, thực hiện hài hòa
hóa - đơn giản hóa – hiện đại hóa thủ tục hải quan quốc gia, từ đó cắt giảm chi phí
hành chính và kinh doanh, Dự thảo Hiệp định hiện nay cơ bản có nội dung tích cực
đối với sự phát triển kinh tế thương mại của các thành viên.
III.3.7. Tình hình đàm phán trong lĩnh vực thương mại và môi trường

 Các vấn đề cơ bản đã kết thúc
Đàm phán về thương mại và môi trường có một số nhiệm vụ chính bao
gồm: i) xử lý mối quan hệ giữa các nguyên tắc của WTO với các nghĩa vụ thương
mại trong các hiệp định đa phương về môi trường (MEAs); ii) thực hiện cắt giảm
và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa dịch vụ
môi trường và iii) chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực quản lý trong lĩnh
vực thương mại và môi trường đối với các nước đang phát triển và LDC; vấn đề
chia sẻ kinh nghiệm giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển và LDC.
21
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
Đàm phán được thực hiện thông qua hai ủy ban: Ủy ban đàm phán về
thương mại môi trường và Ủy ban đàm phán về thương mại môi trường. Cho đến
nay, các thành viên đã đạt được một số tiến bộ đối với những vấn đề sau đây:
- Xây dựng cơ chế phối hợp xử lý các vấn đề liên quan đến hàng hóa,
dịch vụ môi trường tại WTO với các nội dung qui định trong các MEAs mà các
nước thành viên đã phê chuẩn: nội dung này không có sự khác biệt lớn về quan
điểm giữa các thành viên. Tuy nhiên cho tới nay vẫn chỉ dừng ở mức thảo luận
chung chung, chưa ra được văn kiện đàm phán.
- Vấn đề tư cách quan sát viên của MEAs tại các hội nghị của WTO:
quan điểm của các thành viên tương đối đồng thuận về các nội dung thảo luận
nhưng hiện nay vẫn chưa có dự thảo văn kiện đàm phán.
 Các vấn đề tồn tại
Đối với vấn đề cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan đối với hàng
hoá và dịch vụ môi trường: cho tới nay, vẫn tồn tại sự khác biệt trong cách tiếp cận
về tiến trình, cơ sở xác định hàng hóa, dịch vụ và cách thức cắt giảm thuế quan đối
với hàng hóa, dịch vụ môi trường. Các cuộc đàm phán trong năm 2009 chưa tạo
được bước đột phá về phương pháp xác định danh mục hàng hóa môi trường. Hiện
tại chưa có cơ quan nghiên cứu nào đưa ra được định nghĩa cụ thể, rõ ràng về hàng
hóa môi trường, do vậy hiện các thành viên tạm thống nhất 5 nhóm hàng chính để
thảo luận là ô nhiễm không khí; Năng lượng tái tạo; Quản lý chất thải; Công nghệ

trong lĩnh vực môi trường (bảo vệ, giám sát, phân tích, đánh giá) và các lĩnh vực
khác .
Chủ tịch CTESS đã đề nghị các thành viên thông báo quan điểm xác định
hàng hóa môi trường, đề xuất danh mục hàng hóa đưa vào diện thảo luận cắt giảm
thuế trước mắt theo hình thức yêu cầu và bản chào. Tuy nhiên cho đến nay mới chỉ
có HoaKỳ, Arab Saudi, và Thái Lan đã đưa ra danh mục hàng hoá dịch vụ nước
mình quan tâm.
Đối với các vấn đề như ảnh hưởng của các biện pháp môi trường đến
tiếp cận thị trường, nhất là đối với các nước ĐPT trong lĩnh vực hàng hóa môi
trường; vấn đề hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ: các nội dung
này đang tiếp tục thảo luận và chưa có văn kiện đàm phán.
22
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
PHẦN II: CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO:
I. Cam kết gia nhập WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa (thuế và các
biện pháp phi thuế):
I.1. Thuế quan
Tổng hợp chung toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO
như được thể hiện trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt Nam. Có thể rút ra một
số nét lớn như sau:
- Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành
gồm 10.600 dòng thuế.
- Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức
thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn
13,4%). Thời gian thực hiện sau 5- 7 năm.
- Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800
dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành
với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức
thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số
dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá

chất, một số phương tiện vận tải.
Mức độ cam kết và cắt giảm thuế của Việt Nam tổng hợp theo một số nhóm
ngành hàng và nhóm mặt hàng chính với thời gian thực hiện được cụ thể hoá trong
các bảng dưới đây:
Bảng 1: Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhóm hàng mặt
Thuế suất cam kết
tại thời điểm gia
nhập WTO (%)
Thuế suất cam kết cắt
giảm cuối cùng cho
WTO (%)
1. Nông sản 25,2 21,0
2.Cá, sản phẩm cá 29,1 18,0
3. Dầu khí 36,8 36,6
4. Gỗ, giấy 14,6 10,5
5. Dệt may 13,7 13,7
6. Da, cao su 19,1 14,6
7. Kim loại 14,8 11,4
8. Hóa chất 11,1 6,9
23
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
9. Thiết bị vận tải 46,9 37,4
10. Máy móc thiết bị cơ khí 9,2 7,3
11. Máy móc thiết bị điện 13,9 9,5
12. Khoáng sản 16,1 14,1
13. Hàng chế tạo khác 12,9 10,2
Cả biểu thuế 17,2 13,4
Bảng 2: Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng chính
Cam kết với WTO

STT
Ngành hàng/Mức thuế
suất
Thuế
suất
MFN
Thuế suất
khi gia
nhập
Thuế
suất cuối
cùng
Thời gian
thực hiện
1 Một số sản phẩm nông
nghiệp

- Thịt bò 20 20 14 5 năm
- Thịt lợn 30 30 15 5 năm
- Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm
- Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm
- Thịt chế biến 50 40 22 5 năm
- Bánh kẹo (thuế suất
bình quân)
39,3 34,4 25,3 3-5 năm
Bia 80 65 35 5 năm
Rượu 65 65 45-50 5-6 năm
Thuốc lá điếu 100 150 135 5 năm
Xì gà 100 150 100 5 năm
Thức ăn gia súc 10 10 7 2 năm


24
GVHD: GS-TS Võ Thanh Thu WTO: World Trade Organization
2. Một số sản phẩm công
nghiệp
- Xăng dầu 0-10 38,7 38,7
- Sắt thép (thuế suất
bình quân)
7,5 17,7 13 5-7 năm
- Xi măng
40 40 32 2 năm
- Phân hoá học (thuế
suất bình quân)
0,7 6,5 6,4 2 năm
- Giấy (thuế suất bình
quân)
22,3 20,7 15,1 5 năm
- Tivi 50 40 25 5 năm
- Điều hoà 50 40 25 3 năm
- Máy giặt 40 38 25 4 năm

- Dệt may (thuế suất
bình quân)
37,3 13,7 13,7
Ngay khi gia
nhập (thực
tế đã thực
hiện theo
hiệp định
dệt may với

Mỹ và EU
- Giày dép 50 40 30 5 năm
- Xe ôtô con
+ Xe từ 2.500 cc trở
lên, chạy xăng
90 90 52 12 năm
+ Xe từ 2.500 cc trở
lên, loại 2 cầu
90 90 47 10 năm
+ Dưới 2.500 cc và
các loại khác
90 100 70 7 năm
- xe tải
+ Loại không quá 5 100 80 50 10 năm
25

×