Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Ưu thế riêng của hình thức nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 118 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.So với hình thức người kể chuyện thì hình thức nhân vật kể chuyện
xuất hiện muộn hơn, nhưng đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của người
sáng tạo và bạn đọc. Với những ưu thế riêng, hình thức nhân vật kể chuyện
xuất hiện ngày càng nhiều trong các tập truyện ngắn đương đại và trên các
báo văn nghệ. Trước thực trạng này, việc nghiên cứu những khả năng nghệ
thuật của hình thức kể chuyện mới là cần thiết, nếu có kết quả tin cậy, chắc
hẳn nó có giá trị khoa học và thực tiễn lớn lao.
Trước hết là ý kiến của nhà nghiên cứu Liên Xô Pospêlov trong Dẫn
luận nghiên cứu văn học (1960) đã đưa ra ý kiến khá sâu sắc về vấn đề này.
Ông khẳng định vị trí quan trọng không thể thiếu của trần thuật trong tác
phẩm tự sự : “Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người
nào đó. Trong sử thi, tiểu thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếp
đều có người trần thuật’’ [55, tr.88]. Theo Pospêlôv thì “Người trần thuật” là
loại người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và người nghe (người
đọc), là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc xảy ra’’ [55, tr.88]. Ông
cho rằng, có hai kiểu người trần thuật phổ biến đó là: “Trần thuật từ ngôi thứ
ba “không nhân vật hoá” mà đằng sau là tác giả. Nhưng người trần thuật cũng
hoàn toàn có thể xuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “tôi” nào
đó” [55, tr.89]. Pospêlôv cũng chỉ ra mối quan hệ tương đối linh hoạt và phức
tạp giữa người kể chuyện với nhân vật và với tác giả. Trong nhiều trường hợp
đặc biệt, trong các tác phẩm tự truyện, nhân vật người kể chuyện có các sự
kiện đời sống và trạng thái tinh thần gần gũi với bản thân tác giả nhưng
thường thì số phận, lập trường cuộc sống và cảm thụ của nhân vật người kể
chuyện khác hẳn với tác giả.
BÔ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2






TRẦN CÔNG BẰNG





ƯU THẾ RIÊNG CỦA HÌNH THỨC “ NHÂN VẬT KỂ CHUYỆN”
TRONG CHUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU




Chuyên nghành: Lý luận văn học
Mã số:60 22 32







LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Phùng Minh Hiến










HÀ NỘI, 2010
2
Theo Tz.Todorov trong công trình Thi pháp học cấu trúc (1971) cũng
đã đưa ra những ý kiến khá sâu sắc về người kể chuyện . Theo quan niệm của
ông: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng
tượng Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện
không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp
đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó
cuấn sách được kể có một vị thế hoàn toàn đặc biệt” [69, tr.75]. “Xuất phát từ
tương quan về dung lượng hiểu biết của người kể chuyện và nhân vật,
Todorov đã chia thành ba hình thức người kể chuyện: “Thứ người kể chuyện
lớn hơn nhân vật; người kể chuyện bằng nhân vật; người kể chuyện bé hơn
nhân vật” [69, tr.126].
Theo P.Lubbock nhà nghiên cứu người Anh trong tác phẩm Nghệ thuật
văn xuôi (1957) đã đưa ra bốn hình thức trần thuật cơ bản: Thứ nhất là “Toát
yếu toàn cảnh”. Đặc trưng của hình thức trần thuật này là sự hiện diện cảm
thấy được của người trần thuật biết tất cả, có toàn quyền, toàn năng trước các
nhân vật của mình. Hình thức thứ hai là “Người trần thuật kịch hoá”. Trong
hình thức này, người trần thuật đứng ở ngôi thứ nhất, kể lại câu chuyện từ góc
độ sự cảm thụ riêng tư. Hình thức thứ ba là “Ý thức kịch hoá”. Hình thức trần
thuật này cho phép miêu tả trực tiếp đời sống tâm lý, những trải nghiệm bên

trong của nhân vật . Hình thức trần thuật thứ tư là “Kịch thực thụ”. Hình thức
này gần gũi hơn cả với trình diễn sân khấu. Bởi vì ở đây trần thuật được đưa
ra dưới dạng một cảnh diễn trên sân khấu, độc giả chỉ thấy được hình dáng bề
ngoài và các cuộc đối thoại của nhân vật mà không biết gì về đời sống nội tâm
của chúng” [28, tr.223].
Các nhà nghiên cứu trong nước cũng có sự quan tâm đáng kể về vấn đề
người kể chuyện và nhân vật kể chuyện:
3
Trần Đình Sử trong giáo trình Lí luận văn học (1987) và Từ điển thuật
ngữ văn học (1992) đã đưa ra ý kiến tương đối sâu sắc về vấn đề này:
Theo ông “Người trần thuật là hình thái của hình tượng tác giả trong tác phẩm
văn học nghệ thuật, là người mang tiếng nói, quan điểm tác giả trong tác
phẩm văn xuôi” [52, tr.191]. Chức năng của người trần thuật là: “Phân tích,
nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, làm sáng tỏ mọi quan hệ phức tạp giữa nhân
vật và hoàn cảnh” [58, tr.211]. Người đọc có thể nhận ra hình tượng người
trần thuật qua “Cái nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư duy, năng lực trí tuệ
và chất tình cảm của anh ta” [58, tr.212]. Ngoài ra, người đọc cũng có thể
nhận ra người trần thuật qua giọng điệu, ngôn ngữ Và điểm cuối cùng ông
chỉ ra đó là sự phân biệt giữa người trần thuật với bản thân tác giả: “Không
phải bao giờ cũng có thể đồng nhất người trần thuật với bản thân tác giả. Có
nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong cuộc đời tác giả Nguyễn Du chín chắn, ít
nói, trầm mặc còn con người trần thuật trong Truyện Kiều thì lại quát tháo,
lắm tiếng, tinh nghịch, dí dỏm [58, tr.213].
Theo Nắng Mai( PGS. TS Phùng Minh Hiến) trong Diễn đàn văn nghệ
Việt Nam (Số3/2001): Từ khi hình thức “Nhân vật kể chuyện” xuất hiện,
người ta nhanh chóng nhận ra rằng việc theo dõi các thành tựu của hình thức
kể chuyện mới và sự phân biệt nó với hình thức kể chuyện truyền
thống(Người kể chuyện) đã trở nên cần thiết và có thể mang giá trị lí luận
cao. Càng cần thiết hơn nữa nếu theo dõi và khái quát được những nét độc
đáo nghệ thuật của hình thức mới này trong mỗi trào lưu nghệ thuật, nhất là

trong phong cách nghệ thuật của cá nhân này hay cá nhân khác. Theo ông “
Nhân vật kể chuyện được sáng tạo không ngừng với tư cách là con người xã
hội cụ thể và cá biệt. Cho nên, hình thức nhân vật kể chuyện khá đa dạng và
không lặp lại. Chúng có thể tạo ra những cái nhìn nghệ thuật khác nhau ở
cùng một tác giả” [39, tr.43]. “Nhân vật kể chuyện thường quan hệ với các
4
nhân vật khác trước hết với tư cách con người xã hội cụ thể và cá biệt. Do
vậy, sự kể của hình thức này có vẻ thực hơn, thấy được nhiều nỗi niềm hơn
của các nhân vật khác, đồng thời có thể bộc lộ thái độ của mình một cách cụ
thể, trực tiếp và phong phú đa dạng hơn” [39, tr.43- 44]. Mặt cụ thể cá biệt
của con người xã hội ở nhân vật kể chuyện còn đóng vai trò làm nền móng
toàn diện cho người nghệ sĩ ở trong đó. Sự độc đáo của người nghệ sĩ ở đây
tìm thấy trong các biểu hiện đặc trưng thuộc phong cách kể chuyện của nhân
vật và bắt nguồn sâu xa từ cái nhìn nghệ thuật của chính nó. “Mỗi nhân vật kể
chuyện cụ thể- cá biệt, trong trường hợp tốt nhất, có thể tạo nên một cái nhìn
nghệ thuật độc đáo. Đến lượt mình, cái nhìn nghệ thuật lại được cụ thể hoá và
cá biệt hoá thành một chuỗi nối tiếp những điểm nhìn nghệ thuật. Trong chuỗi
bao giờ cũng có điểm mở đầu, điểm tiếp diễn và điểm kết thúc” [39, tr.45].
Chính vì thế, hình thức nhân vật kể chuyện tạo nên được cái nhìn nghệ thuật
uyển chuyển khá nhiều mặt, nhiều chiều đối với đời sống. Chúng đã đem lại
sự sâu sắc, sinh động, xúc động và rất tiêu biểu cho sự khai thác nghệ thuật
loại này là của các nhà văn hiện đại Việt Nam và thế giới. Như vậy, Nắng Mai
dã khu biệt rất rõ hai hình thức “Người kể chuyện” và “Nhân vật kể chuyện”
đồng thời chỉ ra ưu thế riêng của hình thức “Nhân vật kể chuyện”.
Có thể nói rằng, phần lớn các ý kiến đều thống nhất ở chỗ khẳng định
người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện đều là người đứng ra kể lại câu
chuyện, người môi giới giữa tác phẩm với bạn đọc, đồng thời là người thay
mặt tác giả phát biểu những tư tưởng, quan điểm của mình về cuộc sống.
Người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện chính là một trong những yếu tố
quan trọng để phân biệt tác phẩm tự sự với tác phẩm thơ, trữ tình và kịch.

Tuy nhiên, vấn đề lí thuyết về người kể chuyện, nhân vật kể chuyện là
khá phức tạp nên giữa các ý kiến này vẫn còn nhiều chỗ chưa thống nhất .
5
Trong luận văn này chúng tôi nhất chí với quan điểm của Nắng Mai, ông khu
biệt rất rõ thành hai hình thức “Người kể chuyện” và “Nhân vật kể chuyện”.
Như vậy, các công trình nghiên cứu đã có của các tác giả trong và
ngoài nước chứng tỏ lý thuyết tự sự ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
việc nghiên cứu văn học. Người kể chuyện và nhân vật kể chuyện là những
phương diện không thể thiếu của lý thuyết này. Tìm hiểu người kể chuyện hay
nhân vật kể chuyện sẽ giúp chúng ta hiểu được phương diện chủ thể của tác
phẩm tự sự, hiểu tác phẩm một cách sâu sắc, trọn vẹn hơn. Trước đây, khi tìm
hiểu tác phẩm tự sự ta thường chỉ quan tâm nghiên cứu thế giới được kể, thì
bây giờ ta lại phải nghiên cứu cách kể của nhà văn. Trước đây ta chỉ quan tâm
đến nhân vật, đến điển hình nhân vật thì giờ đây ta còn phải xem xét nhà văn
đã hư cấu con đường tiếp cận nhân vật đó, đã kể nhân vật đó như thế nào.
Người kể chuyện và nhân vật kể chuyện trong văn bản tự sự là một
hiện tượng lý thuyết phức tạp. Trước đây, nếu có đề cập đến vấn đề này, thì
người ta thường đồng nhất nó với ngôi kể, thường chỉ quan tâm xem truyện
đó được kể theo “ngôi thứ nhất” hay “ngôi thứ ba”. Sự thực thì ngôi kể chẳng
qua chỉ là một biểu hiện ngữ pháp mang tính ước lệ, sự khác biệt giữa hai loại
ngôi kể này về thực chất chỉ là ở mức độ bộc lộ và hàm ẩn của người kể
chuyện hay nhân vật kể chuyện mà thôi. Nếu chỉ dừng lại ở đó, thì ta chưa thể
nào khám phá hết nét riêng biệt, độc đáo làm nên sức hấp dẫn của hình thức
người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện. Với việc lựa chọn đề tài nghiên cứu
này, luận văn sẽ xem xét người kể chuyện và nhân vật kể chuyện từ góc độ
điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu để từ đó khẳng định rằng người kể chuyện,
nhân vật kể chuyện không chỉ đơn thuần là người kể, người dẫn dắt câu
chuyện mà còn là người định giá tư tưởng thẩm mỹ. Cũng qua đề tài này, luận
văn sẽ khu biệt rõ hai hình thức người kể chuyện , nhân vật kể chuyện và chỉ
6

ra ưu thế riêng về những khả năng nghệ thuật của hình thức nhân vật kể
chuyện.
1.2.Với việc nghiên cứu hình thức người kể chuyện, nhân vật kể
chuyện ta có được một công cụ để đi vào phân tích, khám phá tác phẩm của
những nhà văn cụ thể, lý giải được một trong những yếu tố làm nên nét đặc
sắc trong phong cách nghệ thuật của họ. Tác giả mà chúng tôi chọn để nghiên
cứu ở đây là Nguyễn Minh Châu, bởi trong những gương mặt tiêu biểu của
văn học Việt Nam thế kỷ xx ông nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý.
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn, “người mở đường tinh anh”
cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975. Ba mươi năm cầm bút,
ông đã chiếm một vị trí không thể thay thế trong nền văn học Việt Nam hiện
đại. Vì vậy việc nghiên cứu những khả năng nghệ thuật của hình thức nhân
vật kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu chắc chắn có thêm
những căn cứ vừa khẳng định vừa bổ sung cho khái niệm “Nhân vật kể
chuyện”.
Theo dõi hành trình truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ta nhận thấy,
truyện ngắn của ông lôi cuấn ta không phải bởi cốt truyện tình tiết li kỳ mà
bởi cách kể chuyện hấp dẫn, có duyên. Chính vì thế tìm hiểu người kể chuyện
hay nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sẽ giúp ta lý
giải thêm được phần nào tài năng nghệ thuật, lý giải được một trong những
yếu tố quan trọng hình thành nên phong cách nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn
Minh Châu, đánh giá được khả năng tự sự mà ông mở ra cho văn xuôi Việt
Nam hiện đại.
1.3.Việc nghiên cứu hình thức “Nhân vật kể chuyện”, nắm vững những
khả năng nghệ thuật của nó, sẽ rất có ích cho việc vận dụng phân tích các
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được chọn trong sách giáo khoa ngữ văn
7
trung học phổ thông(Mảnh trăng cuối rừng, Chiếc thuyền ngoài xa, Bức
tranh )
Như vậy, đề tài “ Ưu thế riêng của hình thức “nhân vật kể chuyện”

trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu” mà chúng tôi nghiên cứu là một
đề tài vừa có cơ sở lí luận vừa có cơ sở thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua cơ sở lí luận trong nhiều tài liệu nghiên cứu có liên quan,
cần làm nổi bật ưu thế riêng của hình thức nhân vật kể chuyện so với hình
thức người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Trước hết, luận văn tìm hiểu những công trình lí luận về các hình thức
kể chuyện, đặc biệt là hình thức “Nhân vật kể chuyện” xuất hiện sau hình thức
“Người kể chuyện” truyền thống.
- Các công trình nghiên cứu phê bình có liên hệ ít nhiều đến các hình
thức kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
-Những truyện ngắn nổi tiếng của Nguyễn minh Châu mang một trong
hai hình thức kể chuyện trên.
-Những truyện ngắn của ông được chọn học ở phổ thông và đại học.
-Trên cơ sở lí thuyết chung, đặc biệt là qua những truyện ngắn tiêu biểu
luận văn làm sáng tỏ ưu thế riêng của hình thức “Nhân vật kể chuyện” so với
hình thức “Người kể chuyện”
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi không có điều kiện khảo sát toàn bộ
sáng tác của Nguyễn Minh Châu mà chỉ dừng lại ở thể loại truyện ngắn để
làm sáng rõ ưu thế riêng của hình thức nhân vật kể chuyện.
8
- Chúng tôi tiến hành khảo sát truyện ngắn nổi tiếng của ông ở các tập
truyện: Những vùng trời khác nhau(1970); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành(1983); Bến quê(1985); Chiếc thuyền ngoài xa(1987); Cỏ lau(1989).
5. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu
-Phương pháp loại hình
-Phương pháp khái quát, tổng hợp

-Phương pháp tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống và so sánh hệ
thống
Các phương pháp nghiên cứu này không tách rời nhau mà kết hợp hài
hoà với nhau, bổ sung cho nhau. Trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến
phương pháp phân tích, so sánh,đối chiếu để thấy được ưu thế riêng của hình
thức nhân vật kể chuyện. Vì vậy, đây chính là phương pháp quán xuyến toàn
bộ quá trình tiến hành luận văn.


6. Dự kiến đóng góp mới
- Luận văn sẽ xác định nội hàm của khái niệm “Người kể chuyện” và
“Nhân vật kể chuyện” một cách tương đối hệ thống để có thể sử dụng khái
niện này như một yếu tố cơ bản trong việc xem xét cấu trúc của tác phẩm tự
sự.
- Trong luận văn luận văn của chúng tôi, vấn đề nhân vật kể chuyện
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu mới được khảo sát một cách hệ
thống và thực sự trở thành đối tượng nghiên cứu độc lập so với hình thức
người kể chuyện.


9















CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH THỨC NHÂN VẬT KỂ
CHUYỆN TRONG SỰ ĐỐI SÁNH VỚI HÌNH THỨC NGƯỜI KỂ
CHUYỆN
1.1. Khái niệm
Cũng như nhiều khái niệm lí luận khác, khái niệm “Nhân vật kể
chuyện” và “Người kể chuyện” cho đến nay vẫn chưa được các nhà lí luận văn
học thống nhất hoàn toàn. Ngay trong tên gọi của nó cũng có những cách
khác nhau: Có người gọi là “Nhân vật người kể chuyện” còn người khác gọi
là “Nhân vật kể chuyện”. Trong luận văn này, chúng tôi khu biệt rõ thành hai
hình thức: “Nhân vật kể chuyện” và “Người kể chuyện”.
Về mặt nội hàm khái niệm cũng có nhiều cách hiểu. Nhà nghiên cứu
Tz.Todorov cho rằng người kể chuyện không chỉ là người kể mà còn là người
10
định giá: “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế
giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh hướng
mang tính xét đoán và đánh giá” [23, tr.490]. Theo Pospêlov thì : “Người trần
thuật là người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và người
nghe(người đọc), là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [55,
tr.88]. W.Kayser lại cho rằng người trần thuật là một khái niệm mang tính
chất cực kỳ hình thức: “Người trần thuật- đó là một hình hài được sáng tạo ra,
thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở nghệ thuật kể chuyện, không
bao giờ người trần thuật là vị tác giả đã hay chưa nổi danh, nhưng là cái vai
mà tác giả bịa ra và chấp nhận” [28, tr.245]. Còn GS Phùng Văn Tửu lại cho
rằng: “Nói đến người kể chuyện là nói tới điểm nhìn được xác định trong hệ

đa phương không gian, thời gian, tâm lý, tạo thành góc nhìn. Người kể
chuyện là ai, kể chuyện người khác hay kể chuyện chính bản thân mình,
khoảng cách về không gian từ nơi sự việc xảy ra đến chỗ đứng của người kể
chuyện cũng như độ lệch thời gian giữa lúc sự việc xảy ra và khi sự việc được
kể lại vẫn thường được các nhà tiểu thuyết quan tâm từ lâu” [72, tr.205].
So sánh các quan niệm trên về người trần thuật, người kể chuyện ta
thấy họ vừa khác nhau, lại vừa thống nhất. Nếu Tz.Todorov chỉ thấy “Người
kể chuyện” là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hư cấu,
W.Kayser lại cho “Người trần thuật” là một khái niệm mang tính chất cực kỳ
hình thức thì Pospêlov đã khái quát thấy và thừa nhận ở phía sau “Người trần
thuật” chính là tác giả. Cùng thừa nhận tầm quan trọng của tác giả, trong khi
Pospêlov nhấn mạnh vai trò “Người môi giới”, người chứng kiến và cắt
nghĩa các sự việc xảy ra thì Phùng Văn Tửu lại xoáy vào chỗ đứng và điểm
nhìn của người kể chuyện.
Từ việc kế thừa , tổng hợp những định nghĩa trên có thể đi tới xác lập
khái niệm “Người kể chuyện” và “Nhân vật kể chuyện” thông qua sự phân
11
biệt nó với người kể chuyện, nhân vật kể chuyện trong thực tế đời sống với
các nhân vật khác và với tác giả.
1.1.1 Nhân vật kể chuyện, người kể chuyện là những hình thức do nhà văn
sáng tạo ra để kể chuyện
Thứ nhất, người kể chuyện và nhân vật kể chuyện là sản phẩm của sự
sáng tạo nghệ thuật, do vậy nó khác với người kể chuyện, nhân vật kể chuyện
trong thực tế đời sống. Nếu người kể chuyện trong thực tế là những con người
cụ thể, hữu hình, có điệu bộ, cử chỉ, giọng nói xác định thì “người kể
chuyện”, “nhân vật kể chuyện” trong văn bản nghệ thuật tự sự là tất cả các
yếu tố xác định đó, nhưng đã được nhà văn chuyển tải vào văn bản thông qua
hệ thống thi pháp của nghệ thuật. Chính vì vậy, khác với người nghe-đối
tượng của người kể chuyện thực tế, người đọc-đối tượng của người kể chuyện
trong văn bản nghệ thuật sẽ có điều kiện phát huy tối đa khả năng liên tưởng,

tưởng tượng của mình, có khả năng thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác
giả thông qua người kể chuyện và nhân vật kể chuyện. Khi tiếp xúc với văn
bản, mỗi người đọc bằng vốn sống, vốn ngôn ngữ, hiểu biết riêng của mình có
thể hình dung ra câu chuyện theo cách riêng của mình. Đối tượng của người
kể chuyện, nhân vật kể chuyện trong văn bản nghệ thuật vì thế không thụ
động mà chủ động tiếp nhận một cách sáng tạo.
Thứ hai, điểm khác biệt giữa người kể chuyện, nhân vật kể chuyện
trong thực tế với người kể chuyện, nhân vật kể chuyện trong văn bản nghệ
thuật là ở khả năng điểu chỉnh câu chuyện được kể. Người kể chuyện, nhân
vật kể chuyện thực tế hoàn toàn có khả năng điều chỉnh câu chuyện theo ý
riêng của mình thì ngược lại người kể, nhân vật kể chuyện trong các văn bản
nghệ thuật không có được quyền đó cho dù phản ứng của người đọc với câu
chuyện họ kể là như thế nào. Những gì được kể ra trong văn bản nghệ thuật là
cố định, không thêm bớt hay sữa chữa được nữa.
12
Thứ ba, điểm khác biệt giữa người kể chuyện thực tế với người kể
chuyện, nhân vật kể chuyện trong văn bản nghệ thuật là ở trình tự thời gian kể
chuyện, cách sắp xếp câu chuyện được kể . Nếu người kể chuyện thực tế
thường kể theo tuần tự thời gian, theo trận tự tuyến tính để người nghe tiện
theo dõi thì người kể chuyện, nhân vật kể chuyện trong văn bản nghệ thuật tự
sự lại có thể sử dụng lối kể đảo tuyến, đan xen giữa hiện tại, quá khứ và tương
lai để làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện được kể.
Như vậy, “người kể chuyện” và “nhân vật kể chuyện” là sản phẩm sáng
tạo của nhà văn nhằm thực hiện tư tưởng, dụng ý nghệ thuật đồng thời chuyển
tải thông điệp mà nhà văn muốn hướng tới độc giả.
1.1.2 Nhân vật kể chuyện, người kể chuyện là những chủ thể kể chuyện
nhưng có quan hệ khác nhau với các nhân vật khác trong tác phẩm
Trước hết, người kể chuyện, nhân vật kể chuyện là người định giá tư
tưởng thẩm mỹ của tác phẩm, là một “hình tượng thái độ”(Chữ dùng của
Uspensky). Mỗi tác phẩm là một câu chuyện, một cách nhìn, cách đánh giá

của người kể chuyện, nhân vật kể chuyện về cuộc sống. Khi chúng ta tiếp xúc
với tác phẩm văn học thì bên cạnh những sự kiện được thông báo chúng ta
cũng tìm thấy sự đánh giá, thái độ của người kể chuyện hay nhân vật kể
chuyện. Bất cứ truyện kể nào cũng khắc in cái nhìn, cách cảm thụ, phương
thức tư duy, năng lực trí tuệ và tư cách, tình cảm của người kể chuyện và
nhân vật kể chuyện. Như vậy, người kể chuyện và nhân vật kể chuyện đều có
chức năng tổ chức kết cấu tác phẩm, tổ chức ngôn ngữ của các nhân vật khác:
“Người kể chuyện bắt tất cả các đặc điểm ngôn ngữ của các nhân vật mà họ
nhắc tới phải lệ thuộc vào mình ngay cả khi người kể chuyện cho nhân vật
một sự độc lập đầy đủ về mặt ngôn ngữ [34, tr.32]. Người kể chuyện, nhân
vật kể chuyện phải tìm được một cách tiếp cận nhân vật, kể về nhân vật sao
cho hấp dẫn nhất. Trong Tập truyện Pêtecbua của Gôgôn, người kể chuyện
13
khi khắc hoạ nhân vật trung uý Piaragop đã đặt nhân vật vào những buổi dạ
hội, những bữa ăn chiều tại nhà các vị cố vấn tam tứ phẩm, những buổi khiêu
vũ nhỏ để làm nổi bật căn bệnh giai cấp của nhân vật này.
Thứ hai, việc sử dụng hình thức người kể chuyện hay nhân vật kể
chuyện trong tác phẩm tuỳ thuộc vào động cơ, thái độ của tác giả:
Khi sử dụng hình thức nhân vật kể chuyện thì chủ thể kể có thể xuất
hiện một cách tường minh trong tác phẩm với tư cách là một nhân vật. Nhân
vật kể chuyện cũng như các nhân vật khác tham gia vào những sự kiện, biến
cố của cốt truyện và đứng cùng bình diện với các nhân vật khác. Trong trường
hợp này người đọc dễ dàng nhận ra nhân vật kể chuyện thông qua những dấu
hiệu như: tên tuổi, nghề nghiệp, dáng hình, cử chỉ, điệu bộ, tính cách. Chẳng
hạn, bé Hồng(Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng); Thuần(Tướng về hưu
của Nguyễn Huy Thiệp); Quỳ(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của
Nguyễn Minh Châu).
Khi sử dụng hình thức người kể chuyện, chủ thể kể thường hàm ẩn,
không có mặt trực tiếp trong tác phẩm, không đứng cùng bình diện với các
nhân vật khác trong tác phẩm. Chẳng hạn, người kể chuyện trong Chí phèo

(Nam Cao); Hai đứa trẻ (Thạch Lam); Giọt máu (Nguyễn Huy Thiệp). Nói
cách khác, ở hình thức người kể chuyện, chủ thể kể không có tên tuổi, hình
dáng, nội tâm, tính cách.
Chính vì nhân vật kể chuyện, người kể chuyện khác nhau như vậy, nên
nhà văn trong quá trình sáng tác phải lựa chọn cho được một hình thức kể
chuyện phù hợp, để bộc lộ rõ nét và sâu sắc nhất tư tưởng nghệ thuật và ý đồ
sáng tạo nghệ thuật của mình.
1.1.3. Nhân vật kể thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả
Trước hết, nhân vật kể chuyện chuyện thống nhất với tác giả.Theo quan
điểm của một số nhà tự sự học thì nhân vật kể chuyện chỉ là một yếu tố hình
14
thức thuần tuý, hoàn toàn tách biệt với tác giả thực tế. R.Barthes cho rằng:
“Người kể chuyện và nhân vật của anh ta bản chất là những thực thể trên mặt
giấy, tác giả thực tế của văn bản không có điểm gì chung với người kể
chuyện” [57, tr.487].Trên thực tế đây là những quan điểm cực đoan. Không ai
có thể phủ nhận được giữa nhân vật kể chuyện và tác giả có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Bởi lẽ, hình thức nhân vật kể chuyện là sản phẩm mà nhà văn
sáng tạo ra. Do vậy, ta vẫn có thể đoán định âm sắc tác giả qua đối tượng câu
chuyện kể cũng như qua chính câu chuyện mà nhân vật kể chuyện bộc lộ
trong quá trình kể. Đọc “Lão Hạc” của Nam Cao qua lời kể của nhân vật kể
chuyện ta cảm nhận được niềm đau đớn, cay đắng của tác giả trước thân phận
của con người.
Đặc biệt, qua các tác phẩm tự truyện, người đọc thấy rõ sự thống nhất
giữa nhân vật kể chuyện và tác giả. Bởi lẽ, tự truyện là một thể loại văn học
đặc biệt trong loại tự sự với đặc điểm là tác giả tự viết về mình, lấy chính
cuộc đời mình làm cơ sở cho sáng tạo nghệ thuật. Do vậy, nhân vật kể chuyện
trong tác phẩm tự sự ta thấy được khá rõ cái tôi của tác giả ngoài cuộc đời.
Chẳng hạn, qua lời kể mộc mạc, chân tình của nhân vật Tôi trong bộ ba tự
truyện(Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi) ta có thể hình
dung rất rõ cuộc đời cơ cực, gian khổ và lỗ lực vươn tới đỉnh cao văn hoá của

tác giả Gorki. Như vậy, giữa người kể chuyện, nhân vật kể chuyện và tác giả
có những nét thống nhất với nhau nhưng ta cũng tuyệt đối không được đồng
nhất là một. Có thể lý giải điều này bằng những lý do sau:
Thứ nhất, tư tưởng của tác giả bao giờ cũng rộng hơn tư tưởng của
nhân vật kể chuyện. Tư tưởng của tác giả được thể hiện trong toàn bộ tác
phẩm, qua hệ thống các nhân vật chứ không chỉ thể hiện duy nhất ở nhân vật
kể chuyện. Chẳng hạn, trong “Nhật ký người điên” của Lỗ Tấn, nhận thức của
nhân vật kể chuyện xưng Tôi-người điên mới chỉ là nhận thức cụ thể, trực
15
tiếp, cảm tính còn nhận thức của tác giả là nhận thức mang tính khái quát,
tổng hợp. Cái mà nhân vật kể chuyện xưng Tôi gọi là “ăn thịt người” thì chỉ là
ăn thịt về xác thịt còn hàm ý của tác giả là cả ăn thịt về mặt tinh thần. Những
kẻ trực tiếp ăn thịt người là: Ông Triệu, ông Cố Cửu, lão thầy thuốc nhưng
sâu xa hơn đó là biểu tượng của chế độ phong kiến cổ hủ, lạc hậu đương thời.
Thứ hai, nhân vật kể chuyện không thể đồng nhất với tác giả bởi hình
kể chuyện này vừa có mặt chủ quan vừa có mặt khách quan. Nhân vật kể
chuyện không chỉ mang thái độ chủ quan của tác giả mà còn mang trong mình
nội dung khách quan của thế giới được phản ánh. Chẳng hạn, qua nhân vật kể
chuyện trong các tác phẩm: Điếu văn, Cái mặt không chơi được, Mua nhà,
Những chuyện không muốn viết ta vừa thấy được bản thân nhà văn Nam
Cao vừa thấy được hình ảnh những người trí thức nghèo trong xã hội cũ.
Thậm chí, trong những tác phẩm có tính chất tự truyện thì giữa tác giả
với nhân vật kể chuyện vẫn có những nét khác nhau. Mặc dù tác phẩm tự
truyện thường lấy chính cuộc đời tác giả làm chất liệu sáng tác nhưng rõ ràng
thế giới tồn tại của nhân vật kể chuyện và thế giới tồn tại của nhân vật được
kể lại là hoàn toàn khác nhau về thời gian, không gian, khác nhau về cảm xúc,
tư tưởng. Nhân vật kể chuyện chỉ có thể ý thức lại được thế giới kia chứ
không thể thâm nhập, can thiệp vào thế giới kia được, không thể làm lại được.
Những hành động, tâm trạng, cảm giác mà nhân vật kể chuyện kể lại trong tác
phẩm tự truyện có thể là của nhà văn nhưng đó là những hành động, tâm trạng

đã xảy ra với nhà văn trong quá khứ chứ không phải là thời khắc hiện tại mà
nhà văn đang viết. Khoảng cách giữa cái xảy ra và những điều đang viết lại sẽ
không còn nguyên vẹn như nó có nữa. Chẳng hạn, trong tác phẩm Người tình
của M.Duras đã kể lại câu truyện xảy ra trên một địa điểm đúng như những gì
tác giả đã trãi qua với những sự kiện khiến độc giả dễ đi đến kết luận nhân vật
kể chuyện là tác giả. Nhưng thực tế không thể đồng nhất như vậy, bởi vì từ lai
16
lịch cuộc đời đến hình tượng nhân vật kể chuyện đã là một quá trình sản xuất
lại, hư cấu, sáng tạo của nhà văn. Do vậy, chúng ta chỉ xem đó là bóng dáng
chứ không phải là bản thân nhà văn. Chính nữ văn sĩ M.Duras cũng khẳng
định: “Câu chuyện về cuộc đời các bạn, cuộc đời tôi, không có hoặc đó là một
vấn đề từ vựng. Cuốn tiểu thuyết về cuộc đời tôi, cuộc đời chúng ta thì có
đấy, nhưng câu chuyện thì không có đâu. Đó là sự trình bày thời gian qua đầu
óc tưởng tượng mà hơi thở đã có sự sống” [59, tr.457]. Để chứng minh một
cách rõ ràng hơn cho luận điểm này chúng ta có thể dừng lại ý kiến của nhà
nghiên cứu M.Butor trong cuốn “Luận đề về tiểu thuyết”: “Người kể chuyện
trong tiểu thuyết không phải là một ngôi thứ nhất thuần tuý. Người đó chẳng
bao giờ hoàn toàn là chính bản thân tác giả. Không bao giờ nhập làm một
Robinxon với Defoe, Marul với Proust. Bản thân người kể chuyện là một hư
cấu, nhưng giữa đám nhân vật tưởng tượng, tất cả dĩ nhiên đều ở ngôi thứ ba,
y là đại diện của tác giả. Ta đừng quên rằng y cũng là đại diện của độc giả,
nói chính xác ra là điểm nhìn mà tác giả mời bạn đọc đặt mình vào để đánh
giá, thưởng thức, rút ra bài học cho mình về một chuỗi sự kiện nào đấy” [59,
tr.457].
Như vậy, ta có thể thấy rõ đằng sau câu chuyện của nhân vật kể chuyện
chúng ta đọc được một câu chuyện thứ hai nữa-câu chuyện của tác giả cùng
về cái mà nhân vật kể chuyện đã kể.Từ sự phân tích trên ta có thể đưa ra khái
niệm nhân vật kể chuyện như sau:
Nhân vật kể chuyện: Đây là hình thức kể chuyện mới xuất hiện trong
văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ xx. Đây là hình thức kể mà chủ thể kể tham

gia trực tiếp vào tác phẩm với một hình hài, vóc dáng, số phận cụ thể trong
câu chuyện được kể. Nhân vật kể chuyện do vậy không chỉ là người dẫn
chuyện mà còn là nhân vật chính hoặc phụ trong tác phẩm kể lại câu chuyện
về một người nào khác hoặc của chính bản thân mình. Đây là hình thức kể
17
chuyện được phát huy nhiều trong nghệ thuật kể chuyện hiện đại bởi những
ưu thế của nó so với nghệ thuật kể chuyện truyền thống. Nó tạo được sự chân
thực, tin tưởng nơi người đọc vì những điều “mắt thấy tai nghe”. Hình thức
nhân vật kể chuyện thường kể ở ngôi thứ nhất xưng Tôi hoặc Chúng Tôi và
đóng vai trò quan trọng trong việc bộc lộ quan điểm, tư tưởng của nhà văn,
đồng thời tạo nên tính khách quan của truyện kể.
1. 2. Chức năng của nhân vật kể chuyện, người kể chuyện trong tác phẩm
tự sự
Như trên ta đã thấy, người kể chuyện và nhân vật kể chuyện là những
hình thức được nhà văn sáng tạo ra để kể chuyện, để phục vụ cho việc gắn kết
giữa nhà văn-tác phẩm-độc giả. Do vậy, việc tác giả lựa chọn hình thức kể
chuyện nào để kể hoàn toàn không phải một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính
quan niệm, nhằm mục đích chuyển tải tư tưởng, nội dung một cách hiệu quả
nhất. Đây là lý do chính mà các nhà văn khi cầm bút đều cân nhắc rất kĩ khi
lựa chọn hình thức người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện.Ta hiểu vì sao
tác giả của những khúc ngâm như “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm” là
đàn ông nhưng chủ thể kể chuyện trong tác phẩm này lại là nữ. Có lẽ chỉ có
thể người kể chuyện là nữ thì mới có thể nói được một cách sâu sắc, chân
thực nhất tâm trạng của mình khi hạnh phúc bị chia ly, không trọn vẹn. Giả sử
nếu hai tác phẩm này được kể dưới hình thức người kể chuyện theo điểm nhìn
của một người kể chuyện đứng từ bên ngoài thì tâm lý nhân vật có được mô tả
chân thực, tinh tế như thế hay không? Hay đọc truyện ngắn của Trần Thuỳ
Mai, một nhà văn nữ lại hay xuất hiện ở hình thức nhân vật kể chuyện xưng
Tôi là nam. Phải chăng tác giả muốn đi vào miêu tả, khám phá bản chất phụ
nữ qua con mắt đàn ông? Hay phải chăng nhà văn nữ này muốn khám phá thế

giới bí ẩn của đàn ông, muốn thử nghiệm những cảm xúc của đàn ông?
18
Như vậy, người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện là cầu nối trung
gian kết nối nhà văn-tác phẩm-bạn đọc. Do vậy, nghiên cứu chức năng người
kể chuyện và nhân vật kể chuyện ta cũng phải xem xét đến mối quan hệ này.
1.2.1. Nhân vật kể chuyện, người kể chuyện với chức năng tổ chức kết cấu
tác phẩm
Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn, hoàn chỉnh với
nhiều khả năng kết cấu khác nhau và mỗi khả năng kết cấu chỉ thích hợp với
một quá trình khái quát nghệ thuật của người nghệ sĩ. Do đó, công việc của
người nghệ sĩ là phải làm sao tìm được một kết cấu hợp lý, tối ưu nhất để thể
hiện ý đồ sáng tạo nghệ thuật của mình. Ở phương diện này, vai trò của người
kể chuyện, nhân vật kể chuyện là hết sức quan trọng. Hai hình thức kể này có
khả năng tổ chức kết cấu câu chuyện làm cho nó hấp dẫn và lôi cuấn người
đọc. Vai trò tổ chức kết cấu tác phẩm của người kể chuyện và nhân vật kể
chuyện được thể hiện trên nhưng phương diện sau:
Thứ nhất, người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện là người tổ chức hệ
thống hình tượng nhân vật. Do vậy hai hình thức này có thể tổ chức các quan
hệ của nhân vật trong văn bản nghệ thuật theo nhiều hình thức: đối lập, đối
chiếu, tương phản hoặc bổ sung. Chẳng hạn, trong quan hệ giữa Đôn Kihôtê
và Panxa (Xecvantex); giữa anh béo và anh gầy (Sêkhôp) ; giữa Thuý Kiều và
Thuý Vân (Nguyễn Du) đều được chủ thể kể chuyện tổ chức theo lối này.
Thứ hai, nhân vật kể chuyện, người kể chuyện có chức năng tổ chức hệ
thống các sự kiện, liên kết chúng lại để tạo thành truyện. Người đọc sẽ tiếp
xúc lần lượt với những tình huống, chi tiết trong tác phẩm thông qua cái nhìn,
cách kể của người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện. Các tình huống, sự kiện
trong truyện được đưa ra trước hay sau, bằng cách nào đều tuỳ thuộc vào sự
lựa chọn và tổ chức của người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện nhằm phục
vụ cho ý đồ nghệ thuật của tác giả. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Anh hùng bĩ
19

vận của Nguyễn Khải nhà văn đã chứng tỏ sự kết nối tài hoa và khéo léo của
hình thức người kể chuyện. Tác phẩm bao gồm nhiều câu chuyện khác nhau,
có vẻ như chẳng liên quan gì đến nhau: Đó là câu chuyện đáng buồn của một
xã đã từng lừng lẫy tiếng tăm về thành tích lao động nay khủng hoảng đi vào
ngõ cụt; đó là câu chuyện về cuộc đời một nhà văn có số phận lao đao, bấp
bênh trong nền kinh tế thị trường; đó là câu chuyện về cuộc đời ông Cậy- chủ
một gia đình đã từng làm ăn giàu có, phát đạt bây giờ thua lỗ, sa sút con cái
phải tha hương khắp nơi. Rõ ràng người kể chuyện tài tình, khéo léo đã kết lối
các sự kiện, câu chuyện riêng lẻ ấy thành một mạch truyện thống nhất để làm
nổi bật chủ đề “Anh hùng bĩ vận”.
Với cách tổ chức hệ thống các sự kiện khác nhau ấy, người kể chuyện,
nhân vật kể chuyện sẽ hình thành nên các dạng cốt truyện khác nhau: cốt
truyện tuyến tính theo thời gian, cốt truyện tâm lí, cốt truyện “Chuyện lồng
trong chuyện” Sự khác nhau này còn hình thành nhiều dạng, nhiều kiểu kết
cấu truyện khác nhau: có truyện chỉ có một nhân vật kể chuyện và cũng chỉ kể
một câu chuyện ( Đồng hào có ma- Nguyễn Công Hoan); có truyện chỉ có
một người kể chuyện nhưng kể nhiều câu chuyện khác nhau( Đất kinh kì-
Nguyễn Khải); có truyện nhiều người kể chuyện cùng kể về một câu chuyện (
Khách ở quê ra- Nguyễn Minh Châu) ; có truyện trong đó nhiều người kể
chuyện và kể nhiều câu chuyện khác nhau ( Người đàn bà trên tuyến tàu tốc
hành- Nguyễn Minh Châu).
Thứ ba, người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện còn là người tổ chức
kết cấu tác phẩm nghệ thuật. Đó là việc sắp xếp bố cục trần thuật sao cho hợp
lí và thể hiện đúng ý đồ tác giả. Chúng ta hiểu vì sao Nam Cao lựa chọn miêu
tả tiếng chửi của Chí Phèo ngay khi bắt đầu câu chuyện chứ không phải là
miêu tả quãng thời thơ ấu của Chí Phèo. Sở dĩ có sự đảo ngược trình tự thời
gian ấy là vì người kể chuyện muốn cho chúng ta thấy hành trình trở lại làm
20
người của một con quỷ dữ chứ không muốn diễn tả quá trình trở thành quỷ dữ
của một người nông dân lương thiện. Khả năng tổ chức kết cấu của người kể

chuyện và nhân vật kể chuyện còn thể hiện ở việc lựa chọn, kết hợp các thành
phần trần thuật. Chẳng hạn trong tiểu thuyết Lão Gôriô của Banzac, người kể
chuyện không chỉ sử dụng những lời kể thuần tuý mà còn xen lẫn rất nhiều lời
miêu tả. Đoạn miêu tả quang cảnh quán trọ của bà Vônke độc giả thấy được
sự ảm đạm, buồn tẻ, ghê tởm của một nơi tối tăm, ẩm thấp, nghèo nàn và ô
hợp mà một ông già đã từng nắm trong tay rất nhiều của cải, tiền bạc phải
sống, phải thuê trọ. Miêu tả một quán trọ như thế tác giả muốn đối lập với
cảnh sống xa hoa, sang trọng trong gia đình của hai cô con gái lão Gôriô.
Người kể chuyện ở đây muốn phơi bày bản chất ích kỉ, vụ lợi, vô ơn và bất
hiếu của con người trong xã hội tư sản Pháp thế kỉ XIX.
Thứ tư, nhân vật kể chuyện và người kể chuyện còn tổ chức các điểm
nhìn trong tác phẩm. Chẳng hạn trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao,
điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi rất linh hoạt: Lúc thì là điểm nhìn của Chí
Phèo, lúc lại là điểm nhìn của người dân làng Vũ Đại, có lúc lại là điểm nhìn
của người kể chuyện Việc thay đổi linh hoạt với nhiều điểm nhìn khác nhau
như thế giúp câu chuyện được kể có được tính khách quan nhiều chiều. Nhà
văn có thể đi sâu khai thác được cả nhân vật, cả người kể chuyện, cả nhân vật
kể chuyện và người tiếp nhận câu chuyện.
Tóm lại, nhân vật kể chuyện và người kể chuyện có vai trò rất lớn trong
việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Viện sĩ Timofiev khẳng định : “Hình tượng
này có tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm, các biến
cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật và biến cố đều xuất phát từ cá nhân
người kể chuyện [34, tr. 44].
1.2.2. Nhân vật kể chuyện, người kể chuyện với chức năng dẫn dắt, định
hướng người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật
21
M. Gorki đã từng khẳng định: “Trong tiểu thuyết, những con người
được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả; tác giả luôn
bên cạnh họ, tác giả mách cho người đọc hiểu rõ cần phải hiểu như thế nào,
giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn ở

phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả” [58, tr.117]. “Tác
giả” mà Gorki nói đến ở đây chính là người kể chuyện. Bởi tác giả là người
sáng tạo ra tác phẩm nhưng tác giả không bao giờ xuất hiện trực tiếp trong tác
phẩm đó mà lại hư cấu ra người kể chuyện, nhân vật kể chuyện để thay mặt
mình dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Trước hết nhân vật kể chuyện, người kể chuyện là người môi giới, gợi
mở, dẫn dắt giúp người đọc tiếp cận với thế giới nhân vật, hiểu được bản chất
của nhân vật, rút ngắn khoảng cách giữa nhân vật với người đọc. Chẳng hạn,
trong Anna Karênina ( Lép Tônxtôi), người kể chuyện đã vừa kể, vừa tả, vừa
giải thích, bình luận giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật Anna. Mặc dù
trong quan niệm của xã hội thượng lưu phong kiến Anna là người phụ nữ sa
đoạ, đáng lên án nhưng trong cái nhìn của người kể chuyện nàng là một phụ
nữ “đáng thương chứ không đáng tội”, một phụ nữ đáng tôn trọng. Để người
đọc hiểu thêm về Anna, người kể chuyện đã miêu tả nàng qua cái nhìn của
nhiều nhân vật khác: Đối với Lêvin thì “Anna là người đàn bà tế nhị, cởi mở
Ngoài cái thông minh, duyên dáng, sắc đẹp nàng còn là người thẳng thắn
nữa”. Đối với nữ công tước Miaccaia thì “Anna đã làm cái điều mà tất cả
những người đàn bà, trừ tôi ra, đều làm vụng trộm. Chị ấy không muốn lừa
dối và đã xử sự tốt”. Chủ thể kể chuyện cứ dẫn dắt, gợi mở và truyền đến cho
người đọc một sự cảm thông đối với số phận của Anna.
Thứ hai, không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn về nhân vật mà
người kể chuyện, nhân vật kể chuyện còn hướng người đọc cùng suy ngẫm,
chia sẻ và đồng cảm với những chiêm nghiệm, những suy nghĩ của mình về
22
cuộc đời. Chẳng hạn, đọc Chiếc áo khoác của Gôgôn, qua lời kể của chủ thể
kể chuyện vừa mai mỉa vừa thương cảm người đọc cảm thấy xót xa cho thân
phận nhỏ bé của người viên chức trong bộ máy quan liêu của nước Nga. Hình
ảnh chiếc áo khoác đã trở thành món ăn tinh thần, nó đã làm thay đổi cuộc
sống của bác Akaki Akakievits nó làm cho “ Cuộc sống của bác có phần đầy
đủ hơn. Bác trở lên lanh lợi hơn, cương quyết hơn”. Chỉ một ước mơ rất nhỏ

bé cũng đủ soi sáng phần đời còn lại của con người tội nghiệp này.
Thứ ba, trong nhiều trường hợp khác nhân vật kể chuyện, người kể
chuyện còn tiến hành đối thoại, tranh luận với người đọc để cùng nhau tìm
kiếm, khám phá chân lí cuộc sống. Trong các tác phẩm được sáng tác trong
thời kì đương đại như tiểu thuyết của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Bảo
Ninh ; các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy
Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Minh Châu là những ví dụ rất tiêu biểu. Trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nhân vật kể chuyện, người kể chuyện
thường kể những chuyện phi lí, phản logíc, trái ngược với lịch sử, hoặc đưa
vào trong câu chuyện của mình kể những chi tiết mâu thuẫn với nhau, vênh
nhau một cách lộ liễu để kích thích sự phản ứng của người đọc, trọc tức người
đọc, buộc người đọc phải lên tiếng, đối thoại để rồi tự chiêm nghiệm, nhìn
nhận lại và tìm ra chân lí thực sự. Chẳng hạn, trong Kiếm sắc, Đặng Phú Lân
đã bị Gia Long chém chết bằng chính thanh bảo kiếm của mình. Nhưng sau
đó chủ thể kể chuyện lại điềm nhiên kể: “ Lân và Hoa trốn lên Đà Bắc, giả
làm người Mường, về sau lập trại sinh con ở đấy trở thành tổ phụ của ông
Quách Ngọc Minh”. Ở đây chủ thể kể chuyện đã đẩy người đọc vào những
tình huống hỗn độn, buộc người đọc không thể tin cậy hoàn toàn vào những
lời anh ta kể mà phải tìm tòi để đưa ra cách kiến giải của riêng mình.
1.2.3. Nhân vật kể chuyện thay mặt tác giả phát biểu những quan niệm về
cuộc sống, nghệ thuật
23
Mỗi nhà văn đến với văn học nghệ thuật với những động cơ và mục
đích khác nhau nhưng tất cả họ đều gặp nhau ở một điểm là đều mong muốn
thể hiện một quan niệm , một thái độ, một tư tưởng về cuộc sống và con
người. Tuy nhiên khác các nhà tư tưởng, các nhà văn không trực tiếp bày tỏ
chính kiến của mình bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày một cách
nghệ thuật thông qua các hình thức nghệ thuật do mình hư cấu nên, trong đó
có hình thức nhân vật kể chuyện
Thứ nhất, qua nhân vật kể chuyện ta phần nào thấy được tư tưởng, quan

niệm sống của nhà văn. Chẳng hạn, trong tập Giamalia- Truyện núi đồi và
thảo nguyên, qua thái độ, quan niệm của nhân vật kể chuyện ta thấy được tư
tưởng của nhà văn Aimatốp. Trước hết đó là thái độ phê phán quyết liệt đối
với những hủ tục lạc hậu của lối sống gia trưởng, coi thường phụ nữ, coi
“hạnh phúc của người phụ nữ chỉ là sinh con đẻ cái, trong nhà dư dật”. Gắn
thái độ lên án những hủ tục đó, nhân vật kể chuyện còn bày tỏ một sự nâng
niu, trân trọng, thông cảm đối với người phụ nữ. Nhân vật kể chuyện trong
truyện ngắn Giamalia đã bày tỏ một cách trực tiếp tình cảm của mình đối với
chị dâu, đã ca ngơi vẻ đẹp của chị, đồng cảm với việc chị dám vượt lên cuộc
sống, dám bước qua những tập tục quái gở để tìm hạnh phúc chân chính, đích
thực của mình. Dù cho dân bản coi Giamalia là kẻ phản bội thì nhân vật kể
chuyện vẫn khẳng định: “Có một mình tôi không chê trách Giamalia. Tôi
không phản bội chân lí, chân lí của cuộc sống, chân lí của hai người đó”. Sự
đồng tình của nhân vật kể chuyện xưngTôi với tình yêu của Giamalia cũng
chính là tấm lòng nhân đạo của tác giả, tư tưởng tiến bộ của Aimatốp. Trong
Cố hương, nhân vật kể chuyện thể hiện thái độ đau buồn vì xã hội thối nát đã
làm vẩn đục tình cảm con người, tạo nên một bức tường ngăn cách giữa người
với người: “Tôi đã lớn tiếng yêu cầu xoá bỏ sự ngăn cách người lao động với
trí thức, đạp đổ bức tường do chế độ phong kiến dựng lên”. Trong Nhật kí
24
người điên, nhân vật kể chuyện đã phê phán những kể ăn thịt người, đã kêu
gọi xã hội hãy cứu lấy trẻ em. Tư tưởng đó trước hết là của nhân vật kể
chuyện nhưng đó cũng chính là tư tưởng, thái độ của Lỗ Tấn trước thực tại xã
hhội đương thời.
Thứ hai, không chỉ quan niệm về cuộc sống qua nhân vật kể chuyện ta
còn thấy quan niệm về văn chương nghệ thuật của nhà văn. Đọc truyện ngắn
của Nam Cao, nếu ta tập hợp những suy nghĩ của nhân vật kể chuyện lại thì
có thể thấy được quan niện văn chương tương đối hoàn chỉnh, hệ thống và
nhất quán của nhà văn. Chẳng hạn, đó là quan niệm coi trong vai trò của nhà
văn trong sáng tạo nghệ thuật: “Nhà văn phải biết dùng những câu chuyện

chẳng có gì để nói những cái sâu sắc”(Nhỏ nhen). Cũng có khi, Nam Cao
thông qua nhân vật kể chuyện chế giễu những nhà văn a dua, chạy theo mốt
thời thượng, “Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào”(Những chuyyện
không muốn viết). Hay qua nhân vật Thuần-nhân vật kể chuyện trong Tướng
về hưu, Nguyễn Huy Thiệp đã nói lên được cảm nhận của mình về bản chất
của sự sáng tạo nghệ thuật: “Thuần cứ mơ hồ cảm thấy những nghệ sĩ trác
tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp”.
Từ những minh chứng trên có thể thấy, nhân vật kể chuyện là nhân tố
tích cực trong việc tổ chức tác phẩm; dẫn dắt, định hướng và khơi gợi khả
năng đối thoại, tranh luận của người đọc. Ngoài ra, hình thức này còn là một
điểm tựa để tác giả bộc lộ những quan điểm của mình về cuộc sống, nghệ
thuật.
1.3. Các tiêu chí để nhận diện nhân vật kể chuyện, người kể chuyện
1.3.1. Điểm nhìn kể chuyện
Nói đến người kể chuyện hay nhân vật kể chuyện trước hết ta phải nói
tới điểm nhìn của anh ta. Chính vì vậy, xung quanh khái niệm “ điểm nhìn” có
rất nhiều các nhà nghiên cứu bàn tới. Từ đầu thế kỉ XIX, nhà văn Anna
25
Barbauld là người đầu tiên đề xuất vấn đề điểm nhìn và đến cuối thế kỉ XIX
vấn đề này được Henry James và F. Schlegel trình bày cụ thể hơn. Sang đầu
thế kỉ XX hàng loạt các nhà nghiên cứu : K. Friedeman (1910), Fercy
Lubbock (1921) và E.M Poste (1927) lại tiếp tục đề cập đến điểm nhìn trong
tiểu thuyết hiện đại. Từ những năm 20 trở đi, điểm nhìn trở thành một trong
những tiêu điểm của nghiên cứu văn học. Các tác giả như: Tz Todorốp, B
Tômasepxki, M.Bakhtin, V.Vinôgrađốp trong các công trình nghiên cứu
đều bàn đến điểm nhìn trong văn bản nghệ thuật. Vì vậy điểm nhìn là vấn đề
then chốt của kết cấu văn bản trần thuật, là vấn đề quan hệ giữa nhân vật kể
chuyện, người kể chuyện với cái được kể. Nhà nghiên cứu Pospelov trong
Dẫn luận nghiên cứu văn học nhấn mạnh: “ Trong tác phẩm tự sự, điều quan
trọng là điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả”

[55, tr.90]. M.Bakhtin đã xem điểm nhìn như là “Cái lập trường mà xuất phát
từ đó câu chuyện được kể, hình tượng được miêu tả hay sự việc được thông
báo” [4, tr.86]. Trong Lí luận văn học các nhà lí luận cho rằng: “Nghệ sĩ
không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện về đời sống được nếu không xác
định cho mình một điểm nhìn đối với các sự vật, hiện tượng: Nhìn từ góc độ
nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong ra hay từ bên ngoài vào Điểm
nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu của sáng tạo nghệ thuật”
[48, tr.310]. Nguyễn Thái Hoà trong Những vấn đề thi pháp của truyện cũng
rất chú trọng đến vấn đề điểm nhìn và tác giả khẳng định điểm nhìn: “ Không
phải là lập trường xã hội mà là toạ độ thời gian được lựa chọn cho hành động
kể chuyện, phát triển nội dung, sắp xếp bố cục, hư cấu thành truyện” [25,
tr.122].
Những ý kiến trên tuy có những điểm khác nhau nhưng hầu như đều
thống nhất ở chỗ, xem điểm nhìn của người kể chuyện, nhân vật kể chuyện
chính là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn,

×