Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghiên cứu tách triết và đặc tính sinh dược học của một số hợp chất tự nhiên từ cây măng cụt (Garcinia mangostana L.) (LV00285)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 86 trang )



Lun vn thc s

Ngô Thị Hồng Thuý
1

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI 2



NGễ TH HNG THUí




Nghiên cứu tách chiết và đặc tính sinh dợc
học của một số hợp chất tự nhiên từ CÂY MĂNG
CụT (
garcinia mangostana
L.)





LUN VN THC S SINH HC










Hà Nội 2009





Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuộc sống ngày càng phát triển thì con người ngày càng phải đối mặt với
những căn bệnh nguy hiểm, đó là mặt trái của xã hội hiện đại. Không chỉ trên thế
giới mà ngay ở Việt Nam tỉ lệ người mắc bệnh: béo phì, tiểu đường, tim mạch, ung
thư…ngày càng gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển của xã hội công nghiệp và
đô thị hoá.
Hiện nay tình trạng thừa cân và béo phì đang tăng lên với tốc độ báo động
không những ở các quốc gia phát triển mà cả ở các quốc gia đang phát triển. Đây là
mối đe doạ tiềm ẩn của các bệnh rối loạn trao đổi chất và tim mạch trong tương lai.
Theo tổ chức Quốc tế theo dõi bệnh béo phì (Internation Obesity Tast Force - IOTF)
nghiên cứu, hiện nay trên thế giới đã có khoảng 1,7 tỷ người thừa cân và mắc bệnh
béo phì [2], [39]. Các kết quả điều tra được tiến hành gần đây cho thấy, Mỹ là nước
có số dân béo phì nhiều nhất trên thế giới với khoảng 60 triệu người dân bị béo phì.

Theo thống kê của Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (1991), tỷ lệ người thừa cân
và béo phì ở một số nước Châu Á như sau: Thái Lan 3,58%, Philipin 4,27%,
Malaysia 3,01%, Nam Triều Tiên 2,08%, Đài Loan 1,6%, Hồng Kông 3% [2], [16],
[22]. Theo điều tra mới nhất của Viện Dinh dưỡng cho thấy tình trạng thừa cân
(2007), béo phì ở người Việt Nam đang tăng nhanh, trong đó tỷ lệ béo phì ở người
trưởng thành, từ 25-64 tuổi, lên tới 16,8% [8]. Bệnh béo phì cũng là một trong các
nguyên nhân gây ra các biến chứng về tim mạch, đái tháo đường, mỡ máu, đột
quỵ…đã và đang ngày càng gia tăng, thậm chí xuất hiện ở cả trẻ em của các thành
phố công nghiệp.
Hiện nay, chi phí điều trị bệnh béo phì và các bệnh biến chứng bằng thuốc
tân dược rất tốn kém, ví dụ ở Hoa Kỳ trong năm 1997 chi phí cho điều trị bệnh béo
phì là 47,6 tỉ đô la [2], [39]. Hơn nữa các loại thuốc tân dược được dùng hiện nay
trên thị trường thường gây nhiều phản ứng phụ có thể gây nguy hại cho sức khoẻ,
và giá thành rất đắt. Trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về
sử dụng các hợp chất tự nhiên từ cây cỏ để chữa bệnh béo phì và đái tháo đường,


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
3
các loại thuốc dược liệu từ cây cỏ thường ít gây ra tác dụng phụ, đồng thời tác dụng
của thuốc có hiệu quả kéo dài [6], [12], [15], [24], [28], [41], [42].
Việt Nam có hệ thực vật vô cùng phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều
loài chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học cao có tác dụng chữa bệnh. Trong kinh
nghiệm dân gian người Việt ta đã biết sử dụng cỏ cây, nguồn thảo dược tự nhiên để
chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ. Tuy nhiên, các hợp chất tự nhiên từ các cây thuốc cổ
truyền dân tộc chống béo phì và một số bệnh biến chứng rối loạn trao đổi chất như
đái tháo đường, tim mạch… mặc dù rất phong phú ở nước ta nhưng chưa được khai
thác và nghiên cứu đầy đủ về cơ chế hoá sinh và dược lý.

Trong số các loại dược thảo thiên nhiên thì Măng cụt là một loại cây trái có
nhiều tác dụng dược lý quan trọng giúp cho người sử dụng tăng cường được hệ
miễn dịch có thể chống lại bệnh tật một cách hữu hiệu như: kháng khuẩn, chống
ĐTĐ, tim mạch Vỏ Măng cụt đã từng là một phương thuốc trị bệnh tại các nước
vùng Đông Nam Á như Thái Lan, Mã Lai, Việt Nam Chính vì vậy, tôi quyết định
chọn đề tài nghiên cứu khoa học là: “Nghiên cứu tách chiết và đặc tính sinh dược
học của một số hợp chất tự nhiên từ cây Măng cụt (Garcinia mangostana L.)” .
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu qui trình tách chiết, đặc tính hoá sinh và sinh học của một số
phân đoạn dịch chiết từ lá và vỏ quả măng cụt và tác dụng của chúng lên quá trình
trao đổi lipid – glucid ở mô hình chuột béo phì và rối loạn trao đổi chất.
- Xác định được phân đoạn dịch chiết có tác dụng chống béo phì và rối loạn
trao đổi chất trên mô hình chuột đã được gây bệnhbéo phì.
- Xác định khả năng kháng khuẩn đối với các chủng vi khuẩn Gram (-),
Gram (+) gây nhiễm độc thực phẩm.
3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu qui trình tách chiết, tinh chế phân đoạn dịch chiết và một số
hợp chất tự nhiên có tác dụng chống béo phì, chống tăng glucose huyết từ lá và vỏ
quả măng cụt.
- Nghiên cứu tạo mô hình chuột béo phì và rối loạn trao đổi glucid – lipid.


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
4
- Nghiên cứu tác dụng hoá sinh của một số phân đoạn dịch chiết từ vỏ quả và
lá măng cụt trong trao đổi glucid – lipid ở chuột béo phì.
- Nghiên cứu đáp ứng dược lý (liều độc LD
50

) của một số phân đoạn dịch
chiết vỏ quả và lá măng cụt lên chuột béo phì thực nghiệm bằng đường uống.
- Nghiên cứu đáp ứng trao đổi lipid – glucid (biểu hiện LDL
C
, VLDL
C
,
triglycerid, cholesterol, glucose máu…) và đáp ứng protein miễn dịch của chuột
béo phì thực nghiệm trước và sau khi được xử lý dịch chiết vỏ quả và lá măng cụt.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4.1.1. Mẫu thực vật
- Lá măng cụt (Garcinia mangostana L.)
- Vỏ quả măng cụt (Garcinia mangostana L.)
4.1.2. Mẫu động vật
Chuột nhắt trắng 4 tuần tuổi, cân nặng từ 14 – 16 g (Mus musculus chủng
Swiss) được mua của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
4.1.3. Mẫu vi sinh vật
- Vi khuẩn Gr âm: E. coli, Salmonella typhi
- Vi khuẩn Gr dương: Bacillus subtilis, Staphylococcus aureus
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu tách chiết và đặc tính sinh dược học của một số phân đoạn dịch
chiết (cao ethanol, cao n- hexan, cao chloroform, cao ethyl acetat) của vỏ quả và lá
măng cụt, tác dụng chống rối loạn trao đổi lipid – glucid trên mô hình chuột gây béo
phì thực nghiệm và tác dụng kháng một số chủng vi sinh vật.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Khảo sát sơ bộ thành phần hoá học của cây măng cụt bằng các phản ứng hoá
học đặc trưng
- Thử định tính flovanoid
- Thử định tính tannin

- Thử định tính glycoside


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
5
- Thử định tính alkaloid
- Thử định tính sapomin
5.2. Định lượng polyphenol tổng số theo phương pháp Folin Ciocalteau [31]
5.3. Phương pháp gây béo phì thực nghiệm cho chuột nhắt trắng chủng Mus
musculus Swiss .
5.4. Nghiên cứu tác dụng chống béo phì của dịch chiết vỏ quả và lá măng cụt trên
mô hình chuột béo phì thực nghiệm.
- Thử độc tính cấp, xác định LD
50
bằng đường uống.
- Phương pháp xác định các chỉ số hoá sinh trong máu chuột: glucose huyết,
cholesterol, triglycerid, HDL
C
, LDL
C

5.5. Phương pháp phân tách các hợp chất bằng sắc kí lớp mỏng
5.6. Phương pháp thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định
- Phương pháp nuôi cấy và bảo quản vi sinh vật
- Đo vòng vô khuẩn khi xử lý bằng dịch chiết
5.7. Phương pháp xử lý số liệu: xác suất thống kê toán học (sử dụng Microsoft –
Excell)
6. Đóng góp mới của đề tài: Tách chiết được một số phân đoạn dịch chiết từ vỏ

quả và lá măng cụt có tác dụng chống rối loạn trao đổi lipid – glucid trên mô hình
chuột béo phì và khả năng kháng khuẩn Gr (-), Gr (+) gây ngộ độc thực phẩm.












Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
6
NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các hợp chất phenol và polyphenol
1.1.1. Cấu tạo hóa học và phân loại
Hợp chất phenol là nhóm các hợp chất hóa học mà trong công thức hóa học
có chứa nhóm chức hydroxyl (-OH) gắn với vòng hydrocacbon thơm. Các hợp chất
này phổ biến trong giới thực vật. Nhóm hydroxyl là nhóm phản ứng chủ yếu của các
phenol. Tùy thuộc vào số lượng và vị trí tương hỗ của các nhóm này mà các tính
chất lý hóa hoặc hoạt tính sinh học thay đổi [34].
Dựa theo số lượng nhóm hydroxyl mà người ta phân biệt thành phenol một,
hai, ba và polyphenol. Polyphenol thực vật có thể phân chia thành flavonoid, axit
phenolic và tannin…

Hợp chất phenol được hình thành một cách dễ dàng trong tất cả các cơ quan
thực vật từ những sản phẩm đường phân và chu trình pentoza qua axit xikimic hay
theo con đường acetat malonat qua acetyl-SCoA. Cả hai con đường này đều tham
gia vào quá trình hình thành flavonoid. Nhiều chất phenol hòa tan trong nước được
tổng hợp trong lục lạp.
1.1.2. Vai trò của các hợp chất phenol và polyphenol thực vật
Các hợp chất phenol và polyphenol thực vật có vai trò quan trọng trong hóa
học, sinh học, nông nghiệp và y khoa [10].
- Phenol tham gia vào quá trình hô hấp như là chất vận chuyển hyđro.
- Các polyphenol có thể hình thành liên kết hyđro với các protein và enzym
làm thay đổi hoạt động của các enzym này với vai trò gây hiệu ứng dị lập thể, mang
tính chất tự điều hòa, do đó làm tăng hoặc giảm hoạt động của enzym.
- Phenol có tác dụng mạnh lên quá trình sinh trưởng của thực vật. Phenol
đóng vai trò là chất hoạt hóa IAA - oxydaza, nó còn tham gia vào sự sinh tổng hợp
enzym này. Phenol được coi như là chất điều khiển các chất sinh trưởng ở thực vật.


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
7
- Các hợp chất phenol có tính kháng khuẩn. Những phenol bảo vệ thường
không có ở cây khỏe. Nó được hình thành như những phản ứng tự vệ đối với các vết
thương do vi khuẩn gây bệnh tạo nên (như phản ứng kháng nguyên-kháng thể ở
động vật và người). Các hợp chất phenol có vai trò quan trọng trong việc liền sẹo do
vết thương cơ giới ở thực vật. Nó có tác dụng làm nhanh quá trình tái sinh, bảo vệ
bức xạ, chống lại các gốc tự do, chống các tác nhân gây đột biến và các chất gây
oxy hóa.
- Polyphenol được coi là hợp chất chống oxy hóa tiềm tàng do chúng có khả
năng dọn dẹp các gốc tự do trong cơ thể, ức chế sự oxy hóa của α-tocopherol trong

cholesterol xấu, tái chế α-tocopherol đã bị oxy hóa và loại bỏ các ion kim loại.
- Các flavonoid như flavonol và antoxyan có vai trò trong việc điều chỉnh sự
phân bố năng lượng ánh sáng ở lá cây, làm tăng hiệu quả quang hợp. Một số hợp
chất polyphenol tạo ra màu sắc tự nhiên của hoa quả nhằm hấp dẫn động vật thụ
phấn cho hoa.
1.1.3. Một số polyphenol quan trọng trong thực vật
1.1.3.1. Flavonoid thực vật [16], [17], [26].
Trong số các chất polyphenol tự nhiên, flavonoid là nhóm chất quan trọng vì
chúng có phổ biến ở hầu hết các loài thực vật và có nhiều hoạt tính sinh dược học
có giá trị.
Flavonoid là những sắc tố, phần lớn có màu vàng, dễ tan trong nước, nên có
tên là “flavonoid” (flavus có nghĩa là màu vàng). Tuy nhiên một số sắc tố xanh, đỏ,
tím hoặc không màu cũng được xếp vào nhóm flavonoid vì có chung đặc điểm cấu
tạo hóa học.
a. Đặc điểm cấu tạo hoá học của flavonoid
Flavonoid có cấu trúc chung là C
6
-C
3
-C
6
, gồm hai vòng thơm benzen A, B và
dị vòng-pyranC, trong đó vòng A kết hợp với vòng C tạo thành khung chroman.


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
8


O
A
C
B

Hình 1.1. Khung cacbon của flavonoid
Dựa vào vị trí liên kết của vòng thơm với khung chroman, nhóm hợp chất này có
thể được chia thành ba lớp: flavonoid (2-phenylbenzopyran), izoflavonoid (3-
benzopyran) và neoflavonoid (4-benzopyran).

O
A
C
B
1'
2'
3'
4'
5'
6'
1
2
3
4
5
6
7
8

O

3

O
4

A B C
Hình 1.2. Cấu trúc chung của flavonoid(A), izoflavonoid(B) và neoflavonoid(C)
* flavonoid:
Trong thực vật flavonoid tồn tại ở hai dạng: dạng tự do (aglycon) và dạng
liên kết (glycozit). Glycozit bị thủy phân bằng axit hoặc bazơ sẽ giải phóng đường
và aglycon.
Ví dụ: Rutin Quecetin + Glucose + Rhamnoza
Có khoảng 4000 hợp chất flavonoid đã được biết đến. Tùy theo mức độ oxy
hóa của mạch 3 cacbon, sự có mặt hay không có mặt của nối đôi giữa C
2
và C
3
,
nhóm cacbonyl ở C
4
mà có thể phân flavonoid thành các nhóm phụ sau:
- Flavan: không có nối đôi ở C
2
= C
3
, không có nhóm cacbonyl ở C
4
, không
có nhóm hyđroxyl ở C
3

.

O
H O
O H
*

Flavan (*: trung tâm stereo)


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
9
- Flavon: Có nối đôi ở C
2
= C
3
, có nhóm cacbonyl ở C
4
, không có nhóm
hyđroxyl ở C
3
(ví dụ như luteolin). Trong phân tử flavon có liên kết đôi và nhóm
cacbonyl tạo thành hệ thống nối đôi liên hợp. Đặc điểm này là nguyên nhân gây nên
màu vàng chanh của flavon.

O
O H
H O

O
O
O H
O
O H
H O

Flavon Luteolin
Các flavon có quang phổ hấp thụ cực đại ở vùng 320-350nm.
- Flavonol: Có nối đôi ở C
2
= C
3
, có nhóm cacbonyl ở C
4
, có nhóm hyđroxyl
ở C
3
(ví dụ: quecetin, myricetin).

O
O
O H
Flavonol (3- hidroxi flavon)
Quang phổ hấp thụ cực đại của flavonol nằm ở vùng 340-380nm.
Flavon và flavonol rất phổ biến trong tự nhiên, trong thực vật flavon và
flavonol không tồn tại dưới dạng tự do mà dưới dạng glycoside.
- Flavanon: Không có nối đôi giữa C
2
= C

3
, có nhóm cacbonyl ở C
4
, không
có nhóm hyđroxyl ở C
3
(ví dụ: naringenin). Các flavanon có quang phổ hấp thụ tia
tử ngoại mạnh ở vùng 290-320nm.
Công thức cấu tạo chung của các flavanon là:

O
O
Fl a v a n o n

O
O
O H
O H
H O

Naringenin


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
10
Các flavanon nằm trong cân bằng hỗ biến với các chalcol do vòng
dihydropyron của flavanon kém bền nên dễ xảy ra mở vòng chuyển thành chalcol.


O
O
O H
H
O H
O
Fla v a n o n
C h alc ol
-
+

- Flavanonol-3: không có nối đôi giữa C
2
và C
3
, không có nhóm cacbonyl
ở vị trí C
4
, có nhóm hyđroxyl ở vị trí C
3
.
Người ta đã biết đến khoảng 30 hợp chất thuộc nhóm này, phần lớn chúng ở
dạng aglycon chỉ có vài chất ở dạng glycoside. Flavanonol-3 có 2 nguyên tử cacbon
bất đối là C
2
và C
3
nên chúng có tính quang hoạt. Các hợp chất flavanonol-3 thường
gặp là aromadendrin, fustin và taxifolin.


O
O
O H
O
H O
O H
O
O H
O H
O H
T a xif oli n
F l a v a n o n ol -
3

-
Flavonoid phụ và các dẫn xuất của flavonoid:
+ Chalcol: Chalcol khác với các loại flavonoid khác là nhóm chalcol có
phân tử gồm 2 vòng benzen A và B được nối với nhau bởi một mạch hở có 3
nguyên tử cacbon, số thứ tự các nguyên tố bắt đầu được đánh từ vòng B. Công thức
cấu tạo chung của chalcol:

O
C h alc ol
1
2
3
4
5
6
1

,
2
,
3
,
4
,
5
,
6
,

Hiện nay, người ta đã biết đến khoảng 20 hợp chất chalcol. Chalcol có thể bị
đồng phân hoá thành flavanon khi đun nóng với acid chlohydric (HCl).


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
11
+ Auron: là hợp chất có vòng cacbon là một dị vòng 5 cạnh. Công thức cấu
tạo chung của nhóm auron là:

O
C H
O
A u r o n
A
C
B


Auron có màu vàng đậm và không tạo màu khi thực hiện phản ứng Shinoda
(phản ứng định tính flavonoid). Trong tự nhiên, các chalcol – glycoside dễ bị oxi
hoá thành auron – glycoside nên hai nhóm chất này tồn tại cạnh nhau.
+ Catechin: Catechin là dẫn xuất của flavan-3-ol. Do có hai trung tâm
cacbon bất đối nên chúng tồn tại dưới dạng hai cặp đồng phân đối quang. Ví dụ như
các cặp catechin và epicatechin. Trong đó chỉ có (+)- catechin và (-)- epicatechin
xuất hiện trong thiên nhiên.
Catechin có nhiều trong quả và lá chè. Catechin và leucoantoxyanidin có phổ
tử ngoại giống nhau, hấp thụ cực đại ở vùng 270-280nm.

O
H O
O H
O H
O H
O H
*
*
C at e c hi n

O
OH
OH
OH
HO
OH
(-)- epicatechin

- Leucoantoxyanidin (flavan-3,4-diol): Leucoantoxyanidin có 3 cacbon bất

đối, vì vậy chúng tồn tại ở các dạng đồng phân quang học khác nhau.

O
H O
O H
O H
R
O H
*
*
L e u c o a n t o x y a n i n d i n
*
O H
R
2
1

- Các glycoside của flavonoid:


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
12

O
H O
O H
O - R h a m n o z a - g l u c o z a
O H

R u t i n o z a
O
O H
H O
G l u c o z a
O
O
O H
S a p o n a r e ti n
O H
R h a m n o z a - g l u c o z a - O
O H O
O H
O
N a ri n g i n

Trong thiên nhiên trừ catechin và leucoantoxyanidin, phần lớn các flavonoid
đều tồn tại dưới dạng glycosid. Có hai dạng là: O-glycosid và C-glycosid. Đối với
O-glycosid phân tử đường liên kết với flavonoid thông qua nhóm hyđroxyl, như
rutinoza. Đối với C-glucosid, flavonoid liên kết với đường thông qua nguyên tử
cacbon, như saponaretin
- Các biflavonoid: Trong thiên nhiên thường gặp các hợp chất thuộc nhóm
biflavonoid. Đây là kết quả ngưng tụ hai phân tử flavonoid, ví dụ như
amentoflavon.

O
H O
O H
O
H O

O H
O
O H
O
A m e n t o f l a v o n

* Isoflavonoid: bao gồm các dẫn xuất của 3 – phenyl chroman, được chia
thành các nhóm nhỏ sau:


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
13

O
O
R O
O
O
O R
O
O
- P h e n yl c hr o m a n
Is o f l a v o n
I s o fl a v a n o n
3

* Rotenoid và neoflavonoid
Công thức chung của rotenoid như sau:


O
H
H
O M e
O M e
R o t e n o id
O
O
O

Nhìn vào cấu tạo chung của rotenoid thấy chúng có quan hệ chặt chẽ với
isoflavon về mặt cấu trúc. Khung cacbon được mở rộng thêm một nguyên tử cacbon
nên có thể tạo thêm một vòng pyran thứ hai.
b. Hoạt tính sinh học của flavonoid
Các hợp chất flavonoid thường gặp trong tự nhiên, phân bố phổ biến
trong thực vật. Việc nghiên cứu hoạt tính sinh học của flavonoid được quan tâm đặc
biệt vì giá trị to lớn của nó đối với đời sống con người và dưới đây là một số hoạt
tính sinh học chính của flavonoid.
* Tác dụng làm bền thành mạch [16]
Các flavonoid có hoạt tính của vitamin P như rutin, hesperindin… có tác
dụng làm tăng sức bền và tính đàn hồi của thành mao mạch, giảm sức thẩm thấu các
hồng cầu qua thành mạch. Hoạt tính này được ứng dụng trong chữa trị các rối loạn
chức năng tĩnh mạch, giãn hay suy yếu tĩnh mạch, trĩ, rối loạn tuần hoàn võng mạc.
Một số flavonoid có ảnh hưởng trên hệ tim mạch, dùng trong dự phòng các
bệnh này. Các nhà khoa học đã thử nghiệm proantoxyanidin có trong hạt nho trên


Luận văn thạc sỹ


Ng« ThÞ Hång Thuý
14
xơ vữa động mạch in vivo, kết quả cho thấy chất này ức chế sự phát triển bệnh xơ
vữa động mạch ở thỏ ăn cholesterol.
* Tác dụng chống oxy hóa [23]
Flavonoid có khả năng kìm hãm các quá trình oxy hóa dây chuyền sinh ra
bởi gốc tự do hoạt động. Tuy nhiên hoạt tính này thể hiện mạnh hay yếu phụ thuộc
vào đặc điểm cấu tạo hóa học của từng chất flavonoid cụ thể. Do bản chất cấu tạo
polyphenol nên flavonoid ở trong tế bào thực vật hoặc trong cơ thể động vật chịu
tác động của các biến đổi oxy hóa  khử, bị oxy hóa từng bước và tồn tại ở các
dạng hydroxyl  semiquinon  quinon. Những flavonoid có các nhóm hydroxyl
sắp xếp ở vị trí octo dễ dàng bị oxy hóa dưới tác dụng của các enzym
polyphenoloxydaza và peroxydaza có trong tế bào động vật, thực vật, phản ứng như
sau:
O
2
+ Flavonoid (khử) Flavonoid (oxy hóa)
(Hydroquinon) (Semiquinon hoặc quinon)
H
2
O
2
+ Flavonoid (khử) Flavonoid (oxy hóa)
(Hydroquinon) (Semiquinon hoặc quinon)
Semiquinon hoặc quinon là những gốc tự do bền vững, gọi là gốc phenoxy,
ký hiệu là A
r
O*, chúng có thể nhận điện tử và hydro từ chất cho khác nhau để trở
lại dạng hydroquinon. Các chất này có khả năng phản ứng với các gốc tự do hoạt
động sinh ra trong quá trình sinh lý và bệnh lý để triệt tiêu chúng.

Các gốc tự do sinh ra trong cơ thể ít bền và có khả năng phản ứng rất lớn.
Phản ứng của chúng là nguyên nhân sinh ra quá trình peroxy hóa các chất hữu cơ.
Các gốc *OH và oxy đơn bội
1
O
2
thường là tác nhân khơi mào phản ứng. Tiếp đó,
các gốc thứ cấp phản ứng với các phân tử mới khác ở cạnh, tạo ra phản ứng dây
chuyền, cứ thế nhân mãi lên, không dừng lại và kéo dài cho đến khi tiêu tốn hết cơ
chất (không có enzym tham gia). Vì thế, các cơ quan tổ chức bị phá hủy nghiêm
trọng gây nên những biến đổi bệnh lý như ung thư, hoại tử, rối loạn chuyển hóa

polyphenoloxydaza

Peroxydaza


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
15
Ngoài các gốc tự do sinh ra trong quá trình sinh lý bình thường, cơ thể còn bị
ảnh hưởng của các dạng oxy hóa hoạt động phát sinh bởi các yếu tố bên ngoài như:
tia tử ngoại, bức xạ mặt trời, thuốc trừ sâu diệt cỏ, các phẩm nhuộm, các stress Để
chống lại tác hại của các gốc tự do, mỗi cơ thể sống có những hệ thống chống oxy
hóa nội sinh. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học thì các gốc tự do có thể là nguyên
nhân phá hủy ADN, protein và lipid bất chấp hệ thống chống oxy hóa tự nhiên trong
cơ thể.
Ngoài ra, flavonoid còn có tác dụng bảo vệ các hệ thống sinh học nhờ có khả
năng tạo phức với các kim loại chuyển tiếp như Fe

2+
, Cu
2+
… hoạt hoá enzim chống
oxy hóa, làm ức chế oxydaza
Với tính chất chống oxy hóa, flavonoid đã thể hiện tác dụng bảo vệ chức
năng gan tích cực. Flavonoid đóng vai trò chủ yếu trong những liệu pháp phức tạp
để điều trị viêm gan cấp, mãn tính và xơ gan. Chúng giúp bảo toàn hoạt độ các
enzym có chức năng tạo cầu nối pentoza, các enzym của chu trình axit tricacboxylic
và của quá trình β-oxy hóa các axit béo trong gan, tăng cường chức năng chống độc
của gan, ngăn chặn sự phân hủy phospholipid do phospholipaza A gây ra, ngăn cản
sự nhiễm mỡ gan và hoại tử mô gan.
* Tác dụng với các enzym [34]
Các hợp chất phenol nói chung và flavonoid nói riêng có thể tương tác với
các protein, phản ứng ấy thường xảy ra giữa nhóm cacbonyl và hydroxyl của nhóm
peptid hình thành liên kết hydro.
Nhờ có tính chất này mà các flavonoid có thể làm thay đổi nhiều hoạt tính
enzym. Năm 1929, A.I.Oparin và A.L.Kursanop đã phát hiện ra rằng các
polyphenol trong đó có flavonoid có khả năng ức chế nhiều loại enzym nhưng tính
chất này không hoàn toàn đặc hiệu và nó có thể ức chế enzym này nhưng đồng thời
có thể làm tăng hoạt độ của một số enzym khác.
Thông qua tác động lên hoạt tính enzym, một số chất phenol có khả năng
làm tăng hoặc giảm sinh tổng hợp protein ở giai đoạn đầu. Kết quả nghiên cứu của


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
16
nhiều tác giả đã xác nhận một số hợp chất phenol tham gia vào sự điều hòa sinh

tổng hợp protein trong tế bào thực vật.
Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của flavonoid đối với các enzym
động vật (in vitro) cho biết, chúng có tác dụng ức chế nhiều enzym như: histidin-
decacboxylaza, kìm hãm không đặc hiệu phosphodiesteraza của AMP vòng, aldose-
reductaza Bên cạnh tác dụng kìm hãm, nhiều flavonoid có khả năng làm tăng hoạt
tính prolin-hydroxylaza là một enzym quan trọng trong quá trình làm lành các vết
thương và tạo sẹo. Dưới tác dụng của các flavonoid lên các enzym sinh học là một
trong những cơ sở hóa sinh để định hướng cho việc sử dụng các chất flavonoid
thiên nhiên vào lĩnh vực sinh-y học phục vụ sức khỏe và đời sống con người.
* Tác dụng kháng khuẩn
Flavonoid có khả năng kháng nhiều loại vi khuẩn khác nhau như E. coli,
Salmonella typhi, anti-bacterium…Chúng có khả năng ức chế và tiêu diệt vi khuẩn
với phổ kháng khuẩn rất rộng.
* Tác dụng làm giảm béo phì và lipid máu
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy khi chuột
béo phì được điều trị bằng dịch chiết lá bằng lăng (Lagerstroemia speciosa L.) thì
trọng lượng giảm đáng kể (~10%) [41]. Thí nghiệm với flavonoid chiết xuất từ hoa
kim ngân trên huyết tương chuột cống trắng uống cholesterol thực nghiệm, cũng
cho thấy flavonoid có tác dụng làm giảm chỉ số cholesterol toàn phần, triglycerid và
cholesterol tỷ trọng thấp hại cho tim, đồng thời làm tăng lipid-cholesterol có tỷ
trọng cao (HDLc) có lợi cho tim [15]. Naringin, một flavonoid có hàm lượng cao
trong các cây họ Cam chanh (Rutaceae) đã được nhiều nhà nghiên cứu chiết suất
cũng như thử tác dụng trên mô hình chuột béo phì (bằng chế độ ăn hàm lượng lipid
và cholesterol cao). Kết quả nghiên cứu cho thấy naringin có khả năng làm giảm
cholesterol tự do, cholesterol tỷ trọng thấp (LDLc) cũng như giảm triglycerid trong
máu của chuột béo phì [25, 29, 30].
1.1.3.2. Tannin


Luận văn thạc sỹ


Ng« ThÞ Hång Thuý
17
* Khái niệm: Tannin là những hợp chất phenolic rất phổ biến trong thực vật
bậc cao. Horvath (1981) đã đưa ra khái niệm về tannin như sau: “ tannin là những
hợp chất phenolic có trọng lượng phân tử cao, có chứa các nhóm hidroxyl và các
nhóm chức khác (chẳng hạn như nhóm cacbonxyl), có khả năng tạo phức với
protein và các phân tử lớn khác trong điều kiện đặc biệt” [5]
* Cấu tạo hoá học và tính chất: tannin được cấu tạo dựa trên acid tannic và
acid gallic, phổ biến trong cây ở dạng tự do hoặc ở dạng glycoside kết hợp với
đường.

O
O
H O
O H
O H
H O
O H
O H
O H
O H
O H
O H
P r o c y a n i d i n


Tannic Acid (C
34
H

28
O
21
)
Tannin thường là các hợp chất vô định hình, có màu trắng, màu vàng nhạt
hoặc gần như không màu có hoạt tính quang học, có vị chát, dễ bị oxi hoá khi đun
nóng và khi để ngoài ánh sáng, trong lượng phân tử dao động từ 5.000 đến 20.000
[27]. Tannin tan nhiều trong nước (tốt nhất là trong nước nóng), tan trong các dung
môi hữu cơ như ethanol, hoà tan một phần trong acetone, ethyl acetat và hầu như
không tan trong các dung môi kém phân cực như chloroform, benzene… Tannin tạo
phức màu đặc trưng với các kim loại nặng, tạo phức với protein, tinh bột, cenlulozơ
và muối khoáng.
* Chức năng sinh học: Tannin là các chất bảo vệ cho cây trước sự tấn công
của vi sinh vật gây bệnh, các loài động vật và côn trùng ăn lá [32], [37]. Trong y
học tannin được sử dụng làm thuốc cầm máu, thuốc chữa đi ngoài, chữa ngộ độc
kim loại nặng, thuốc chống ung thư, thuốc chữa trĩ, viêm miệng, viêm hang, điều trị
chứng cao huyết áp và chứng đột quỵ [21].


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
18
1.2. Bệnh béo phì
1.2.1. Bệnh béo phì và tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) béo phì là tình trạng tích lũy mỡ quá mức
và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức
khỏe. Người bị thừa cân và đạt mức bệnh béo phì có thể được đánh giá theo chỉ số
thể trọng BMI (Body Mass Index) và được tính theo công thức sau:
2

2
/
P
BMI kg m
h


Trong đó: P là trọng lượng cơ thể (kg); h là chiều cao
(m)
Chỉ số BMI được WHO thống nhất là một tiêu chuẩn để chẩn đoán mức độ
béo phì và thừa cân. Tuy nhiên tiêu chuẩn này có thay đổi một chút tùy theo các
vùng địa lý ở các châu lục khác nhau. Đối với người trưởng thành Châu Âu, chỉ số
BMI cao hơn so với các vùng khác, chẳng hạn như so với người trưởng thành Việt
Nam (bảng 1.1):
Bảng 1.1. Phân loại BMI của người trưởng thành Châu Âu và Châu Á [2]

Mức độ thể
trọng
BMI
Đánh giá yếu tố nguy cơ bệnh
Châu Âu Châu Á
Nhẹ cân < 18.5 < 18.5
Thấp, nguy cơ suy dinh dưỡng và các
bệnh khác
Bình thường 18.5 - 24.9 18.5-22.9
Bình thường

Quá cân ≥ 25-29.9
 23
Nguy cơ tăng cân

Béo phì độ I 30-34.9 >23-24.9
Nguy cơ cao của bệnh béo phì
Béo phì độ II 35-39.9 25-29.9
Nguy cơ nặng của bệnh béo phì
Béo phì độ III ≥ 40 >30
Nguy cơ rất nặng của bệnh béo phì


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
19
Theo tổ chức Quốc tế theo dõi bệnh béo phì (Internation Obesity Tast Force-
IOTF) cho biết, ngày nay trên thế giới đã có khoảng 1,7 tỷ người thừa cân và mắc
bệnh béo phì. Như vậy trên thế giới cứ 4 người trưởng thành thì có một người béo
phì, chiếm khoảng 25% [2]. Các kết quả điều tra được tiến hành gần đây cho thấy,
Mỹ chính là nước có số dân béo phì nhiều nhất trên thế giới. Theo Hiệp hội Béo phì
Mỹ, hiện nay có khoảng 60 triệu người dân Mỹ bị béo phì, tăng gần gấp 3 lần so với
năm 1991 (25 triệu người). Nước sát ngay Mỹ là Canada thì xu hướng tăng cân
cũng đã trở nên rất phổ biến trong dân chúng nước này (1/3 người dân Canada bị
béo phì). Còn ở châu Mỹ, chính phủ Braxil cho biết 40% dân chúng ở độ tuổi hơn
20 (khoảng 38,8 triệu người) bị thừa cân do tiêu thụ đường, đồ uống nhẹ và thực
phẩm giàu chất béo tăng, khoảng 16% dân số (10,5 triệu người) bị béo phì.
Trong khi đó, ở châu Á, theo báo cáo của chính phủ Trung Quốc, tốc độ gia
tăng của tình trạng béo phì ở Trung Quốc đã lên tới 97% trong 10 năm qua. Tổ chức
dinh dưỡng chính thức đầu tiên của Trung Quốc và cơ quan khảo sát sức khỏe cho
biết từ giữa năm 1992 đến năm 2002, đã có hơn 60 triệu người bị béo phì. Đặc biệt
ở những thành phố lớn của Trung Quốc, 12% thanh thiếu niên và 8% trẻ em mắc
bệnh béo phì. Theo thống kê của Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (1991), tỷ lệ
người thừa cân và béo phì ở một số nước Châu Á như sau: Thái Lan 3,58%, Philipin

4,27%, Malaysia 3,01%, Nam Triều Tiên 2,08%, Đài Loan 1,6%, Hồng Kông 3%
[2].
Ở Việt nam tỉ lệ số người mắc thừa cân và béo phì đang có chiều hướng gia
tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Đây cũng chính là bằng chứng về
nguyên nhân các bệnh huyết áp cao, rối loạn chuyển hóa lipid và đái tháo đường…
đang tăng lên trong những năm gần đây.
Theo Phan Sĩ Quốc, Lê Huy Liệu và cộng sự (1991) điều tra ngẫu nhiên
4.912 người từ 15 tuổi trở lên sống ở hai khu vực nội thành và ngoại thành Hà nội
(1991) cho thấy tỷ lệ mắc bệnh thừa cân và béo phì chung ở Hà nội là 1,1%, trong
nội thành 1,44% và ngoại thành là 0,63% [14].


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
20
Năm 1997, theo nghiên cứu của Mai Thế Trạch điều tra trên 5.416 người từ
15 tuổi trở lên ở thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ người thừa cân và béo phì chung là
2,52%.
Năm 2000, sau khi tiến hành điều tra ngẫu nhiên 2.017 người từ 16 tuổi trở
lên sống ở Hà nội, dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Tổ chức y tế thế giới năm
1998, Tô Văn Hải và cộng sự đã xác định tỷ lệ người thừa cân và béo phì ở Hà nội
là 2,62%, tăng 2,5 lần trong vòng 10 năm.
Điều tra mới nhất của Viện dinh dưỡng (2007) cho thấy tình trạng thừa cân,
béo phì ở người Việt nam đang tăng nhanh, trong đó tỷ lệ béo phì ở người trưởng
thành (từ 25-64 tuổi) lên tới 16,8%. Theo Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Nguyễn
Công Khẩn, kết quả khảo sát cũng cho thấy tình trạng thừa cân, béo phì tăng nhanh
nhất ở lứa tuổi từ 45 trở lên (chiếm 2/3 số người bị thừa cân, béo phì) và tỷ lệ béo
phì ở người dân thành thị cao gấp 3 lần so với nông thôn [8].
1.2.2. Các yếu tố gây tình trạng thừa cân và béo phì

a. Yếu tố di truyền [8], [33].
Theo một số nhà nghiên cứu đều cho rằng yếu tố di truyền có vai trò quan
trọng trong việc xuất hiện bệnh thừa cân và béo phì. Để minh chứng cho điều này
bác sĩ Jeffrey Fridman (Đại học Rockefeller ở New York) khám phá ra một gien gọi
là OB ở loài chuột béo phì. Tại mô mỡ của loài chuột này xuất hiện chất có tên là
leptin - một loại protein hormon điều chỉnh cân nặng. Leptin làm nhiệm vụ truyền
lên não thông tin về sự no, thiếu leptin con vật ăn mãi mà không có cảm giác no gây
ra béo phì. Vài tháng sau đó cũng nhóm nghiên cứu này tìm được gien tương ứng ở
người, cũng gọi là OB, nằm ở nhiễm sắc thể số 7. Điều thú vị là khi định lượng
leptin ở những người bị béo phì người ta thấy nồng độ chất này tăng cao. Điều này
có 2 lý do: hoặc là sự suy giảm những thụ thể tiếp nhận leptin ở não, hoặc là cơ thể
người béo phì sinh ra một chất kháng leptin khiến chất này không ức chế cảm giác
thèm ăn được.


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
21
Một nghiên cứu ở Thái Lan trên trẻ 6-13 tuổi (1996) cho thấy tỷ lệ con cái có
cha mẹ béo phì bị béo phì nhiều gấp 3,1 lần so với những trẻ có cha mẹ không bị
béo phì. Trong số trẻ béo phì, khoảng 80% có cha hoặc mẹ không béo phì, 30% có
cả cha và mẹ béo phì. Tuy nhiên trên cộng đồng, vai trò của những yếu tố di truyền
này không lớn.
b. Yếu tố nội tiết [2]
Các nhà khoa học đã tìm thấy có nhiều hormon liên quan đến bệnh béo phì
và được chia thành hai nhóm chính sau:
- Nhóm làm giảm ăn gồm: Serotonin, Pro-opiomelanocortin (POMC), alpha
Melatocyte Stimulating hormon (alpha MSH) và Cocain Amphetamin Regulated
Transcrip (CART).

- Nhóm gây kích thích ăn gồm: Norepinephrine, Neuropeptid Y và Agouti
Related protein (AgRP), Ghrelin.
c. Khẩu phần ăn và thói quen ăn uống [2],[ 8]
Khi chế độ ăn cung cấp năng lượng vượt quá nhu cầu, nếp sống làm việc tĩnh
tại, ít tiêu hao năng lượng sẽ làm cân nặng cơ thể tăng lên. Các nghiên cứu cho rằng
chỉ cần ăn dư 70 calo mỗi ngày sẽ dẫn tới tăng cân mặc dù số calo này nhỏ có thể
không nhận ra dễ dàng, nhất là khi ăn những thức ăn giàu năng lượng. Thói quen ăn
nhiều thức ăn giàu lipid, các chất bột, đường, ăn nhiều vào buổi tối…sẽ làm tăng
tích luỹ năng lượng dự trữ dưới dạng triglycerid (mỡ) dẫn tới thừa cân và béo phì.
d. Yếu tố kinh tế xã hội [2]
Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ người béo phì ở tầng lớp nghèo thường thấp
(do nguồn cung cấp thực phẩm còn hạn chế, lao động chân tay nặng, phương tiện đi
lại thô sơ) và béo phì được coi là bệnh của người giàu. Ngược lại, ở các nước phát
triển khi thiếu ǎn không còn phổ biến nữa thì tỉ lệ béo phì lại cao ở tầng lớp người
lao động nghèo, ít học so với ở các tầng lớp khá giả hơn do thói quen ăn uống thiếu
khoa học của họ.


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
22
Ở Việt Nam, tỷ lệ người béo tuy còn thấp nhưng đang có khuynh hướng gia
tǎng nhanh ở các đô thị và thành phố lớn. Đây là điều cần được chú ý để có các can
thiệp kịp thời nhằm nâng cao sức khỏe cộng đồng.
1.2.3. Một số chỉ số hóa sinh liên quan đến rối loạn trao đổi chất lipid và glucid.
Lipid là những este của acid béo. Lipid chủ yếu có mặt trong huyết tương là
acid béo, triglycerid, cholesterol và phospholipid. Một số thành phần khác của lipid
có khả năng hòa tan trong huyết tương và có mặt với số lượng ít hơn rất nhiều
nhưng giữ vai trò sinh lý quan trọng, bao gồm các hormon steroid, các vitamin tan

trong mỡ.
Nồng độ lipid trong huyết tương cao, đặc biệt là cholesterol liên quan đến
nguyên nhân gây ra các trạng thái bệnh lý xơ vữa động mạch, bệnh lý tim mạch
(bệnh mạch vành, bệnh mạch não, bệnh mạch ngoại vi…), béo phì, tiểu đường type
2…[12].
* Cholesterol
Cholesterol là steroid chính của con người, có mặt trong tất cả các tế bào và
hầu hết các dịch trong cơ thể. Trong cơ thể cholesterol chủ yếu ở dạng tự do (chưa
este hóa), chính dạng này là thành phần cấu trúc của các màng tế bào. Các
cholesterol este trong tế bào bình thường là kho dữ liệu và xuất hiện trên vi thể là
các giọt ở bên trong tế bào. Cholesterol được tạo ra từ hai nguồn chính: cơ thể tự
sản xuất ra (gan sản xuất , chiếm 80%) và do thức ăn cung cấp. Cholesterol đóng
vai trò là một tiền chất để tổng hợp các hormon steroid (các hormon sinh dục,
hormon tuyến thượng thận và vitamin D), các axit mật và muối mật.
Cholesterol thực chất không hoà tan trong máu, nên khi lưu thông trong máu
chúng được bao quanh bởi một lớp áo protein (lipoprotein), chúng giống như những
chiếc xe vận tải chở cholesterol. Có hai loại lipoprotein quan trọng là lipoprotein tỷ
trọng thấp (LDL – Low density lipoprotein) và lipoprotein tỷ trọng cao (HDL –
Hight density lipoprotein). LDL có vai trò vận chuyển cholesterol một chiều từ gan
đến các mô của cơ thể, vì vậy khi lượng LDL trong máu cao, thành mạch sẽ bị đóng


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
23
mỡ gây xơ vữa động mạch, do đó chúng được gọi là cholesterol “xấu”. Ngược lại,
HDL vận chuyển cholesterol dư thừa từ các mô và trong mạch máu đưa trở về gan,
chuyển giao cho mật để thải ra ngoài, ngăn không cho chúng xâm nhập vào thành
động mạch, chúng là cholesterol “tốt”.

* Triglycerid
Triglycerid trong mô mỡ là nguồn dự trữ năng lượng chủ yếu của cơ thể.
Triglycerid có nguồn gốc ngoại sinh và nội sinh. Khoảng 90% triglycerid trong
huyết tương có nguồn gốc ngoại sinh từ các bữa ăn giàu lipid. Triglycerid nội sinh
được tổng hợp ở gan và mô mỡ. Ở người béo phì, nồng độ acid béo tự do và
triglycerid trong máu tăng cao gây ra hiện tượng “nhiễm độc mỡ”, có thể gây chết
cho tế bào không phải là tế bào mỡ (trong đó có tế bào β tuyến tuỵ) [2], [33].
1.2.4. Rối loạn lipid máu và thuốc điều trị [12]
Người ta nhận thấy có mối tương quan thuận giữa mức tiêu thụ chất béo bão
hòa với nồng độ cholesterol máu: người có thói quen ăn nhiều mỡ có hàm lượng
cholesterol máu cao hơn người có thói quen ăn ít mỡ, đồng thời tỷ lệ người mắc
bệnh lý liên quan tới tăng lipid máu như xơ vữa động mạch, bệnh tim mạch…cũng
cao hơn.
Năm 1965, Fredrickson căn cứ vào kỹ thuật điện di và siêu ly tâm đối với
các thành phần lipid huyết thanh đã phân hội chứng tăng lipid máu làm 5 type dựa
trên những thay đổi của thành phần lipid (bảng 1.2). Bảng phân loại này trở thành
phân loại quốc tế của WHO từ năm 1970.
Bảng 1.2. Phân loại rối loạn lipid máu theo Fredickson [12]
Týp I IIa IIb III IV V
Cholesterol
   
 / 

Triglycerid
     
Lipoprotein


 LDL
C


 LDL
C

 VLDL
C

 LDL
C
 VLDL
C

 VLDL
C




Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
24
Chú thích:

( bình thường),

( tăng)
Tăng lipid máu có thể tiên phát do di truyền hoặc thứ phát sau các bệnh khác
như béo phì, nghiện rượu, đái tháo đường, suy giáp trạng, hội chứng thận hư…
Trên cơ sở những hiểu biết về chuyển hóa lipid, người ta đã tìm ra nhiều loại

thuốc để điều trị các rối loạn lipid máu. Dựa vào tác dụng hạ lipid máu, thuốc tân
dược được chia làm hai nhóm chính sau:
Nhóm thuốc làm giảm hấp thu và tăng thải trừ lipid: Cholestyramin,
colestipol, neomycin… là những thuốc có tính hấp thu mạnh, tạo phức hợp với acid
mật, làm giảm quá trình nhũ hóa lipid ở ruột, dẫn đến sự giảm hấp thu và tăng đào
thải lipid qua phân. Ngoài ra, chúng còn có tác dụng tăng số lượng và hoạt tính của
receptor LDL
C
ở màng tế bào.
Nhóm thuốc ảnh hưởng đến sinh tổng hợp lipid: gồm dẫn xuất của acid
fibric, dẫn xuất của statin, acid nicotinic… Nhóm fibrat giảm vận chuyển acid béo
về gan, giảm tổng hợp và giảm sự oxy hóa LDL
C
, thuốc còn có tác dụng giảm sự
kết tập của tiểu cầu, giảm fibrinogen và giảm acid uric máu. Nhóm statin là loại
thuốc ức chế cạnh tranh với enzym HMG-CoA reductase, dẫn đến ức chế sự tổng
hợp cholesterol ở tế bào gan, tăng receptor LDL
C
và tăng thoái hóa LDL
C
.

Một số thuốc từ nguồn thảo dược (nghệ, ngưu tất…) cũng có tác dụng trên sự
rối loạn lipid máu. Mỗi nhóm có cơ chế tác động riêng của nó. Naringin, flavonoid
có nhiều trong các loài Citrus có tác dụng giảm cholesterol và triglycerid trong máu
chuột gây béo phì thực nghiệm.
1.2.5. Bệnh lý phát sinh do béo phì và chiến lược điều trị
Bệnh béo phì là một trong những nguyên nhân quan trọng gây rối loạn trao
đổi chất lipid và glucid ở người trưởng thành thậm chí cả ở những trẻ em chưa đến
tuổi trưởng thành. Trong các năm 1991, Porter và Banks đã công bố các nghiên cứu

cho thấy bệnh béo phì là nhân tố tiên đoán thường gây ra bệnh viêm tụy ác tính dễ
dẫn đến tổn thương các tế bào  của đảo tụy Langerhan, là nơi chuyên tiết hormon


Luận văn thạc sỹ

Ng« ThÞ Hång Thuý
25
insulin điều hoà ổn định nồng độ glucose của máu. Như vậy béo phì thường gây
trạng thái bệnh lý đái tháo đường type 2 [36].
Béo phì là yếu tố gây ra sự rối loạn trao đổi lipid được đặc trưng bằng sự
biến động bất thường các chỉ số mỡ máu như: làm tăng hàm lượng của triglycerid,
tăng LDLc (Low Density Lipoprotein cholesterol) và làm hạ thấp HDLc (Hight
density Lipoprotein cholesterol) so với người không bị bệnh. Các rối loạn này gây
ra hiện tượng xơ vữa động mạch, dẫn tới chứng nhồi máu cơ tim…
Hiện nay, để phòng và điều trị bệnh béo phì cũng như các bệnh liên quan đến
rối loạn trao đổi chất lipid-glucid người ta đã đưa ra một số giải pháp sau:
- Kết hợp chế độ ăn uống hợp lý (giảm khẩu phần ăn giàu lipid, chất bột,
đường; tăng cường sử dụng nguồn thức ăn giàu vitamin như rau quả và các loại
thức ăn đủ đạm) với luyện tập thể thao thường xuyên, khoa học.
- Đối với bệnh nhân béo phì, có thể sử dụng một số loại thuốc giảm cân, tuy
nhiên cũng cần phải khuyến cáo các bệnh nhân rằng: thuốc giảm cân không được sử
dụng vì mục đích thẩm mỹ, mà chỉ được dùng cho những bệnh nhân có BMI > 27
và có các vấn đề về sức khoẻ chỉ có giảm cân mới cải thiện được và việc sử dụng
thuốc giảm cân sẽ gây ra các tác dụng phụ không mong muốn [38]. Chẳng hạn như:
+ Metformin: có tác dụng giảm mỡ máu, dẫn đến giảm trọng lượng, nhưng
lại gây tác dụng phụ là buồn nôn, tiêu chảy, gây toan máu…
+ Orlistat (Xenical) làm ức chế lipase và sự hấp thu mỡ ở ruột, nhưng tác
dụng phụ của nó là làm suy giảm khả năng hấp thụ vitamin tan trong mỡ máu.
+ Các thuốc ức chế sự thèm ăn: ephedrine, caffeine [2]

- Phẫu thuật giảm cân: áp dụng với các bệnh nhân có BMI > 35, kèm theo
các bệnh lý và rối loạn liên quan. Kết quả mang lại từ phẫu thuật là rất lớn, tuy
nhiên nó cũng gây ra nhiều tác dụng phụ như suy nhược, khô da, rụng tóc tạm
thời…

×