Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Nghiên cứu đặc tính sinh dược học của một số phân đoạn dịch chiết từ củ Hành tây (Allium Cepa L.)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (993.46 KB, 77 trang )

MỞ ĐẦU
ĐTĐ là một bệnh rối loạn chuyển hóa mãn tính mang tính chất xã hội, mà rối loạn
chuyển hóa lipid máu rất thường gặp, các rối loạn này kéo dài sẽ dẫn đến các biến
chứng mạn tính, đặc biệt là biến chứng mạch máu [18].
Phát triển kinh tế kéo theo sự thay đổi lối sống công nghiệp, giảm các hoạt động
thể lực, mức sống cao với sự dồi dào về thực phẩm gắn liền với tình trạng béo phì,
cùng với sự già đi của dân số thế giới, tốc độ đô thị hóa nhanh tạo điều kiện thuận
lợi cho bệnh ĐTĐ phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới. Điều đáng lo
ngại là ĐTĐ tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Cùng với ung thư và tim mạch,
ĐTĐ là một trong 3 bệnh có tốc độ phát triển nhanh chóng nhất. Theo Tổ chức Y tế
thế giới (WHO): năm 1994, thế giới có 98.9 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, cuối năm
2002 có khoảng 177 triệu người, con số này đã tăng lên 300 triệu người vào năm
2025 [1], [2].
Riêng châu Á, số liệu công bố tại hội nghị ĐTĐ quốc tế tổ chức vào tháng 12
năm 1997 tại Singapo: năm 1995 châu Á có khoảng 62 triệu người mắc bệnh ĐTĐ,
cuối năm 2002 con số này là 89 triệu người. Theo đánh giá của Hiệp hội ĐTĐ quốc
tế (IDF) năm 2005 số người mắc bệnh ĐTĐ tại châu Á tăng lên 1.7 lần. WHO đã
cảnh báo có thể xuất hiện đại dịch ĐTĐ ở châu Á vào thế kỷ 21 [27], [2], [3].
Việt Nam, năm 1990 tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở Hà Nội là 1.2%, Huế là 0.96%
và Thành phố Hồ Chí Minh là 2.5%, năm 2000 Viện Nội tiết Trung ương điều tra
tại khu vực nội thành Hà Nội tỷ lệ ĐTĐ là 4% dân số và 7% ở tuổi > 35 tuổi. Cuộc
điều tra do Viện Nội tiết tiến hành năm 2001 tại 4 thành phố Hà Nội, Hải Phòng,
Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy tỷ lệ ĐTĐ trong độ tuổi 30- 64
tuổi là 4.9% [2], [3].
ĐTĐ không chỉ có tính chất là một bệnh mạn tính, ĐTĐ còn kèm theo nhiều
biến chứng nguy hiểm như các bệnh về thận dẫn đến suy thận, bệnh về mắt dẫn đến
mù lòa, tổn thương hệ thần kinh và đặc biệt là các biến chứng về mạch máu (xơ
vữa động mạch) có thể dẫn đến tử vong như bệnh mạch vành, nhồi máu não, xuất
huyết não…[19], [47], [26], [7], [43], [18].
Với tốc độ phát triển nhanh chóng, mức độ nguy hại đến sức khoẻ, ĐTĐ trở
thành bệnh mang tính xã hội cao ở nhiều quốc gia, nó trở thành lực cản của sự phát


triển kinh tế, gánh nặng cho toàn xã hội khi mà mỗi năm thế giới phải chi số tiền
1
khổng lồ là trên 1000 tỷ USD cho việc chăm sóc ĐTĐ và những biến chứng của
bệnh. Vấn đề gia tăng gánh nặng của ĐTĐ và tác động xã hội của bệnh đối với cả
các nước phát triển và đang phát triển. Ngày 21 tháng 12 năm 2006 là một ngày hết
sức quan trọng đối với cộng đồng ĐTĐ toàn cầu. Vào ngày này, Hội Đồng Liên
Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết thống nhất chung, tuyên bố ĐTĐ là một
vấn đề sức khỏe cộng đồng quốc tế.
Đây là lần đầu tiên một bệnh không truyền nhiễm lại được xem là một vấn đề
sức khỏe cộng đồng quốc tế và ĐTĐ là bệnh thứ hai chỉ sau AIDS đạt đến tầm
quan trọng như vậy. Trong những năm sắp đến, ĐTĐ là mối đe dọa sức khỏe cộng
đồng đang tăng lên ở các nước phát triển và đang phát triển. Y học ngày nay đã có
nhiều loại thuốc chữa bệnh ĐTĐ có hiệu quả như insulin, sulfonylurea, biguanid,
Tuy nhiên, hầu hết các loại thuốc này đều có tác dụng phụ và chi phí điều trị đắt đỏ
[11], [33], [2], [25].
Nếu không có những can thiệp đối với bệnh ĐTĐ một cách hiệu quả với chi
phí chấp nhận được thì tần suất của cả biến chứng mạch máu nhỏ và mạch máu lớn
sẽ tăng lên trên quy mô toàn cầu.
Trong thời đại ngày nay, loại thuốc thảo dược đã đạt được tầm quan trọng
toàn cầu với cả những tác động kinh tế và y học. Sử dụng các loại thảo mộc lan
rộng trên khắp thế giới đã dấy lên lo ngại nghiêm trọng về an toàn, chất lượng và
hiệu quả. Vì vậy, chính xác khoa học đánh giá đã trở thành một điều kiện tiên quyết
để chấp nhận các yêu sách của sức khỏe. Hành tây (Allium Cepa L.), một thành
viên của chi Allium, nó được sử dụng như là một nguồn quan trọng của
phytoconstituents và thực phẩm hương vị. Hành tây là một trong những nguồn
giàu chất flavonoid và các hợp chất organosulphur, họ có một hoạt tính cao trong
các hoạt động chống oxy hóa do flavonoid, quercetin, myricetin; sắc tố như
anthocyanins và organonosulphur hợp chất. Điều quan trọng nhất trong số các hợp
chất lưu huỳnh là những chất dẫn xuất cysteine non-volatile, S- axit amin, S-alk
(en) YL-cysteine thay thế sulphoxides, thiosulfinates của họ và các sản phẩm như

polysulfides. Các hợp chất flavonoid có sulphure và chất chống oxy hóa;
ntidiabetic chống viêm, chống ung thư, kháng khuẩn; antihyperlipidaemic,
anticholesterolaemic, fibrinolytic, antiatherosclerotic, anticataractogenetic chống
tiểu cầu tập hợp, điều hòa miễn dịch, bảo vệ thần kinh trong thiếu máu cục bộ và
2
gây ra thương tích não và nhiều khác các hoạt động sinh học. Phổ rộng các hoạt
động sinh học làm cho Allium Cepa L. là một thực phẩm liệu pháp tiềm năng [53].
Việc nghiên cứu, khảo sát về thành phần hóa học và tác dụng dược lý của các
loài cây thuốc có giá trị của Việt Nam nhằm đặt cơ sở khoa học cho việc sử dụng
chúng một cách hợp lý, hiệu quả có tầm quan trọng đặc biệt, chúng tôi quyết định
chọn đề tài nghiên cứu : “Nghiên cứu đặc tính sinh dược học của một số phân
đoạn dịch chiết từ củ Hành tây (Allium Cepa L.)”
Nghiên cứu được thực hiện với những mục tiêu sau:
- Tìm hiểu thành phần hóa học cơ bản của củ Hành tây.
- Tìm hiểu tác dụng hạ đường huyết của một số phân đoạn dịch chiết củ
Hành tây trên mô hình chuột gây ĐTĐ thực nghiệm bằng STZ.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của một số phân đoạn dịch chiết từ củ
Hành tây trên mô hình chuột ĐTĐ type 2 thực nghiệm.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Khảo sát sơ bộ thành phần các hợp chất tự nhiên có trong củ Hành tây
(Allium Cepa L.).
2. Định lượng polyphenol tổng số theo phương pháp Folin – Ciocalteau.
3. Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của các phân đoạn dịch chiết củ
Hành tây (Allium Cepa L.) trên mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng type 2.
4. Định hàm lượng glycogen trong gan chuột ĐTĐ type 2 sau 21 ngày điều
trị thực nghiệm.
4. Đóng góp mới của đề tài
Đánh giá được khả năng hạ glucose huyết của các phân đoạn dịch chiết lên
mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng type 2 thông qua chỉ số glucose huyết và xác định

hàm lượng glycogen của gan, các chỉ số lipit máu trên chuột sau 21 ngày điều trị.
3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU VỀ MỘT SỐ HỢP CHẤT TỰ NHIÊN Ở THỰC VẬT
1.1.1. Flavonoid thực vật [9], [40]
Trong số các polyphenol tự nhiên, flavonoid là nhóm chất quan trọng vì
chúng phổ biến ở hầu hết các loài thực vật và có nhiều hoạt tính sinh - dược học có
giá trị.
1.1.1.1. Cấu tạo hoá học và phân loại
Các flavonoid là dẫn xuất của 2-phenyl chroman (flavan). Chúng là các hợp
chất có cấu tạo gồm 2 vòng benzen A, B được kết hợp bởi một dị vòng C (vòng
pyran) với khung cacbon C
6
-C
3
-C
6
.
9
10
8
5
7
6
2
3
O
1
4
1'

5'6'
4'
3'
2'
A
C
B
Flavan (2-phenyl chroman)
Trong đó vòng A được tạo thành từ 3 đơn vị acetate (đi từ acid malonic) và
vòng B với cầu nối 3C được xây dựng từ một đơn vị phenyl propan (đi từ acid
sikimic). Ở vòng A thì các nhóm hydroxyl thường thấy ở các vị trí C
5
, C
7
còn ở
vòng B thường mang nhóm hydroxyl và ankoxyl ở vị trí C
4
hoặc cả C
3
và C
4
.
Tùy theo mức độ oxy hoá của vòng pyran, sự có mặt hay không có mặt của
nối đôi giữa C
2
và C
3
và nhóm cacbonyl ở C
4
mà có thể phân biệt flavonoid thành

các nhóm phụ sau: flavon, flavonol, flavanon, chalcon và auron, antoxyanidin,
leucoantoxyanidin, catechin, isoflavonoid, rotenoid, neoflavonoid. Trong đó nhóm
có độ oxy hóa cao nhất là flavonol, nhóm có độ oxy hóa thấp nhất là catechin.
Các flavonoid có thể được phân lớp tùy theo nguồn gốc sinh tổng hợp. Một
vài flavonoid là các dạng trung gian trong quá trình sinh tổng hợp, một số khác
được biết đến như là các sản phẩm cuối cùng. Các flavonoid trung gian được tích
lũy trong mô thực vật, những chất thuộc dạng này gồm chalcon (được hình thành
sớm nhất với cấu trúc C
15
từ malonyl Co-A và P-coumanyl Co-A), flavanon, flavol-
4
3-ol và flavan-3,4-diol. Còn những chất khác được biết đến như là sản phẩm cuối
của quá trình sinh tổng hợp, ví dụ: anthocyanin, flavon và flavonol
Ngoài ra, các flavonoid cũng có thể được phân lớp tùy theo khối lượng phân
tử của chúng. Flavonoid được sắp xếp theo khối lượng phân tử tăng dần từ các
monomer, dimer, rồi đến oligomer. Các flavonoid phân tử lượng lớn là các
oligomer và polymer, ví dụ các proanthocyanidin thu được bằng con đường sinh
tổng hợp từ flavan-3-ol.
Flavonoid tồn tại ở hai dạng: dạng tự do gọi là aglycon và dạng liên kết với
đường gọi là glycoside. Các glycoside khi bị thuỷ phân bằng acid hoặc enzyme sẽ
giải phóng ra đường và aglycon tương ứng. Trong tự nhiên, trừ catechin và
leucoantoxyanidin, phần lớn flavonoid đều tồn tại dưới dạng glycoside. Có 2 dạng
glycoside là O-glycoside và C-glycoside. Đối với O-glycoside phân tử đường liên
kết với flavonoid thông qua nhóm hydroxyl như rutin; đối với C-glycoside,
flavonoid liên kết với đường thông qua nguyên tử cacbon như saponin.
O
OH
OH
O - Rhamnose - glucose
OH

O
OH
Glucose
Rutin Saponin
1.1.1.2. Tính chất vật lý
Ở dạng tinh khiết flavonoid là chất kết tinh hay vô định hình và có nhiệt độ
nóng chảy nhất định. Chúng có màu vàng như flavon, flavonol, chalcon hoặc không
màu như isoflavonoid, catechin. Các aglycol của flavonoid hoà tan tốt trong dung
môi hữu cơ như: ether, ethanol, acetone và hầu như không tan trong nước, khi ở
dạng liên kết thì chúng hoà tan được trong nước nhưng không hoà tan được trong
ether hay chloroform.
Flavonoid có khả năng hấp thụ tử ngoại do hệ thống nối đôi liên hợp được
tạo ra do 2 vòng benzen A, B và vòng pyran. Phổ hấp thụ tử ngoại giúp ích cho
việc xác định cấu trúc của flavonoid. Flavonoid có hai dải hấp thụ cực đại, dải 1 ở
bước sóng 290 nm ứng với vòng A và dải 2 ở bước sóng 220-280 nm ứng với vòng
B.
5
1.1.1.3. Tính chất hoá học
Flavonoid có các nhóm hydroxyl phenolic, nhóm carbonyl, vòng thơm
benzen nên chúng có khả năng phản ứng rất lớn.
- Phản ứng của nhóm hydroxyl (OH): phản ứng với các chất oxy hoá (bạc
nitrat, persulfat, ferixianit và các gốc tự do) tạo thành các gốc phenoxyl ArO
*
(gốc
tự do bền) ở trong cơ thể.
- Flavonoid có tính acid nên dễ dàng phản ứng với dung dịch kiềm (dung
dịch amoniac) tạo các muối tan màu vàng da cam, đỏ, xanh hoặc tím.
- Phản ứng của vòng thơm (phản ứng diazo hoá) cho màu đỏ, da cam.
- Phản ứng của nhóm carbonyl: phản ứng Shinoda tạo phức với kim loại.
Đây là phản ứng khử, có sự tham gia của các kim loại như Fe, Zn, Mg và HCl cho

sản phẩm có màu da cam, hồng hoặc đỏ.
Phản ứng này đặc trưng cho các chất flavonoid có nhóm cacbonyl (C=O) ở
vị trí C
4
và có nối đôi giữa C
4
và C
3
, điển hình là flavon, flavanon-3-ol. Flavon
không có nhóm OH nên phản ứng khó hơn, cho màu nhạt hơn, do đó đôi khi khó
phát hiện.
1.1.1.4. Tác dụng sinh học
- Tác dụng chống oxy hoá (antioxydant): flavonoid có khả năng kìm hãm các
quá trình oxy hoá dây chuyền sinh ra bởi gốc tự do hoạt động. Những flavonoid có
các nhóm hydroxyl sắp xếp ở vị trí octo dễ dàng bị oxy hoá dưới tác dụng của các
enzyme polyphenoloxydase và peroxydase tạo thành dạng semiquinon hoặc
quinon.
Polyphenoloxydase
O
2
+Flavonoid (dạng khử)
(dạng Hydroquinon)
Flavonoid (dạng oxi hoá)
(Semiquinon hoặc Quinon)
Peroxydase
H
2
O
2
+Flavonoid (dạng khử)

(dạng Hydroquinon)
Flavonoid (dạng oxi hoá)
(Semiquinon hoặc Quinon)+ H
2
O
Semiquinon hoặc quinon là những gốc tự do bền vững, chúng có thể nhận
điện tử và hydro từ chất cho khác nhau để trở lại dạng hydroquinon. Các chất này
có khả năng phản ứng với các gốc tự do hoạt động sinh ra trong quá trình sinh lý và
bệnh lý để tiêu diệt chúng.
6
- Flavonoid có khả năng điều hòa hoạt độ enzyme do khả năng liên kết với
nhóm amin trong phân tử protein, làm thay đổi cấu hình không gian của enzyme do
đó tạo hiệu ứng điều hòa dị lập thể.
- Flavonoid có tính kháng khuẩn, kháng virus, tăng khả năng đề kháng của
cơ thể do kích thích lympho bào, tăng sản xuất interferon, ức chế hiện tượng thoát
bọng (digramilation) [9].
- Flavonoid có hoạt tính của vitamin PP, làm tăng tính bền và đàn hồi của
thành mạch, giảm sức thấm của mao mạch.
- Flavonoid có tác dụng chống ung thư do kìm hãm các enzyme oxy hoá khử,
quá trình đường phân và hô hấp, kìm hãm phân bào, phá vỡ cân bằng trong các quá
trình trao đổi chất của tế bào ung thư [6], [45].
- Tác dụng giảm béo phì và lipid máu
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật cho thấy khi chuột béo
phì được điều trị bằng dịch chiết giàu flavonoid từ lá Bằng lăng (Lagerstroemia
specciosa L.) thì có trọng lượng giảm đáng kể (~ 10% ) [75]. Thí nghiệm tương tự
với flavonoid từ lá Kim ngân (Lonicera japonica Thunb.) đối với chuột cống trắng
uống cholesterol cũng cho thấy có tác dụng làm giảm các chỉ số cholesterol,
triglycerid, LDL-c đồng thời tăng HDL-c [35]. Naringin (C
17
H

32
O
4
) và hesperidin
(C
28
H
34
O
15
) là những flavonoid có hàm lượng cao trên họ cam chanh (Rutaceae) đã
được nhiều nhà nghiên cứu chiết xuất và thử tác dụng trên mô hình chuột béo phì
cho kết quả tốt trong việc làm hạ các chỉ số lipid máu [34], [41].
- Tác dụng hạ glucose huyết
O
O
OH
OH
OH
OH
OH
O
OH
OH
OH
CH
3
O
O
O

OH
OH
H
3
OC
O
O
OH
OH
OH
O
OH
OH
OH
OH
OH
Quercetin Hesperidin Epicatechin
Một số flavonoid được tách chiết từ nguyên liệu thực vật đã được chứng
minh là có tác dụng điều hòa glucose huyết như: quercetin có trong Đỗ trọng
(Eucommia ulmoides Oliver.) [62], Hesperidin và Naringin có trong các cây thuộc
họ Rutaceae [39], Genistein và Daidzein có trong Đậu nành (Glycine max L.) [12],
Myricetin có trong cây Vông vang (Abelmoschus moschatus) [12].
7
1.1.2. Hợp chất phenolic [40], [45]
1.1.2.1. Phân loại
Hợp chất phenolic là nhóm các chất khác nhau rất phổ biến trong thực vật.
Đặc điểm chung của chúng là trong phân tử có vòng thơm (benzen) mang một, hai
hay ba nhóm hydroxyl (OH) gắn trực tiếp vào vòng benzen. Dựa vào thành phần và
cấu trúc, người ta chia hợp chất phenolic thành 3 nhóm: hợp chất phenolic đơn
giản, hợp chất phenolic phức tạp và nhóm hợp chất phenolic đa vòng (polyphenol).

- Nhóm hợp chất phenolic đơn giản: trong phân tử chỉ có một vòng benzen
và một vài nhóm hydroxyl. Tuỳ thuộc vào số lượng nhóm hydroxyl mà chúng được
gọi là các monophenol (phenol), diphenol (pyrocatechin, hydroquinon, ),
triphenol (pyrogalol, oxyhydroquinol, ).
- Nhóm hợp chất phenolic phức tạp: trong thành phần cấu trúc phân tử của
chúng ngoài vòng thơm benzen (C
6
) chúng còn có dị vòng, mạch nhánh. Đại diện
nhóm này có acid cynamic, acid cumaric.
- Nhóm hợp chất phenolic đa vòng: là nhóm đa dạng nhất trong các hợp chất
phenol, có cấu trúc phức tạp do sự liên kết hoặc trùng hợp của các đơn phân. Ngoài
gốc phenol còn có các nhóm phụ dị vòng mạch nhánh hoặc đa vòng. Nhóm này có
flavonoid, tannin và coumarin.
1.1.2.2. Vai trò của hợp chất phenolic trong thực vật [9], [63]
Hợp chất phenolic có ở hầu hết các bộ phận của cây đặc biệt là tế bào thực
vật quang hợp. Chúng được hình thành từ những sản phẩm của quá trình đường
phân và con đường pentose qua acid cynamic hay theo con đường acetate malonate
qua Acetyl- CoA. Nhóm hợp chất này có một số chức năng trong đời sống thực vật.
- Các hợp chất phenolic tham gia vào quá trình hô hấp như là một chất vận
chuyển hydro.
- Các polyphenol có thể hình thành liên kết hydro với các protein và enzyme
làm thay đổi hoạt động của các enzyme này tương tự như hiệu ứng điều hòa dị lập
thể.
- Tác dụng mạnh lên quá trình sinh trưởng, nó đóng vai trò là chất hoạt hoá
IAA- oxydase và tham gia vào quá trình sinh tổng hợp enzyme này. Hợp chất
phenol tác dụng như chất điều hoà các chất điều khiển sinh trưởng ở thực vật.
8
- Hợp chất phenol có tính chất kháng khuẩn. Những hợp chất phenol bảo vệ
thường không có ở cây khoẻ. Nó được hình thành như những phản ứng tự vệ đối
với các vết thương do vi khuẩn gây bệnh gây nên tương tự như phản ứng kháng

nguyên - kháng thể ở người và động vật. Các hợp chất phenol có vai trò quan trọng
trong việc liền sẹo do vết thương cơ học ở thực vật. Nó có tác dụng đẩy nhanh quá
trình tái sinh, chống bức xạ, gốc tự do, tác nhân gây đột biến và các chất gây oxy
hoá.
- Hàm lượng và thành phần các polyphenol phụ thuộc nhiều vào nhân tố sinh
thái. Ví dụ: trong điều kiện lạnh, cây tích luỹ nhiều antoxyan xanh và tím. Các
flavonoid như flavonol và antoxyan có vai trò trong việc điều chỉnh sự phân bố
năng lượng ánh sáng ở lá cây, làm tăng hiệu quả quang hợp. Một số hợp chất
polyphenol tạo màu sắc tự nhiên của hoa quả, hấp dẫn côn trùng thụ phấn cho hoa.
1.1.3. Tannin [9], [33], [40]
1.1.3.1. Cấu trúc hoá học và phân loại
Tannin là hợp chất phenol có trọng lượng phân tử cao, có chứa các nhóm
chức hydroxyl và các nhóm chức khác (như cacboxyl), có khả năng tạo phức với
protein và các phân tử lớn khác trong điều kiện môi trường đặc biệt.
OOH
OH
OH
OH
OH
O
OH
OH
OH
OH
OH
Procyanidin Quebracho
Tannin được cấu tạo dựa trên acid gallic và acid tanic. Tannin có 2 nhóm
chính: tannin thuỷ phân và tannin ngưng tụ.
- Tannin thuỷ phân: gồm có các tannin mà thành phần chính để tạo polymer
thường là ester của acid gallic với gốc đường, các ester không mang đường của

acid phenolcacbonic và ester của acid ellagovic với đường.
- Tannin ngưng tụ: là các oligomer hay polymer của các đơn vị flavonoid
(flavan 3-ol) nối với các dây nối C - C không bị cắt khi thuỷ phân như catechin,
epicatechin hoặc các chất tương tự. Tannin ngưng tụ có thể có từ 2 tới 50 hay hơn
các đơn vị flavonoid.
9
1.1.3.2. Tính chất vật lý
Tannin thường là hợp chất vô định hình hoặc tinh thể, không màu, có tính
quang học, vị chát. Tannin tan trong nước tạo dung dịch keo và độ hoà tan thay đổi
tuỳ thuộc vào mức độ polymer hoá. Chúng tan tốt trong ethanol, acetone.
1.1.3.3. Tính chất hóa học
- Tannin dễ bị oxi hóa khi đun nóng hay để ngoài ánh sáng. Khi bị oxy hóa,
tannin biến thành chất màu đỏ hoặc màu nâu hoặc màu đen xám.
- Tannin phản ứng với FeCl
3
, chúng cũng tủa với muối kim loại nặng và
gelatin. Dựa vào tính chất này để người ta tách tannin.
- Tannin có thể tạo phức với protein, tinh bột, cellulose, muối khoáng
- Tannin dễ bị thuỷ phân trong môi trường acid nhẹ, kiềm nhẹ, nước nóng
hay enzyme (tannase) tạo thành carbohydrat và acid phenolic.
- Tannin ngưng tụ khó bị thuỷ phân trong môi trường acid, kiềm nhẹ, nước
nóng hay enzyme. Tannin pyrocatechin cho tủa màu xanh đậm với muối sắt III và
tủa bông với nước brom.
1.1.3.4. Tác dụng sinh học
- Tannin là chất cầm rửa do có tác dụng giảm sự bài tiết trong ống tiêu hóa,
kết tủa protein tạo thành một màng che niêm mạc.
- Tannin còn chữa ngộ độc kim loại nặng và alkaloid do tạo tủa với chúng.
- Tannin có tác dụng chống ung thư do có khả năng kết hợp với các chất gây
ung thư.
- Tannin ở nồng độ cao ức chế hoạt động của các enzyme nhưng ở nồng độ

thấp chúng thường kích hoạt enzyme.
- Tannin có tác dụng ức chế và diệt khuẩn, tác dụng cầm máu do làm se hệ
mao mạch hay tác dụng làm giảm đau tại chỗ do làm giảm tác dụng ở đầu dây thần
kinh trung ương.
1.1.4. Alkaloid [9], [33], [40]
1.1.4.1. Khái niệm và phân loại
Alkaloid là các hợp chất hữu cơ có chứa nitơ, đa số có nhân chứa nitơ dị
vòng, có đặc tính kiềm (alka – có tính kiềm), thường gặp ở thực vật và đôi khi ở cả
10
động vật, thường có hoạt tính sinh học mạnh và cho phản ứng hoá học với một số
thuốc thử gọi là thuốc thử chung của alkaloid.
Cafein Morphine Nicotin
Dựa vào cấu tạo vòng hydrocacbon và vị trí của các nhóm nitơ người ta chia
các alkaloid thực vật thành 12 nhóm như sau:
- Nhóm 1: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Pyrolindine và Pyperidine. Đại
diện là Cacpain có trong cây họ Dừa.
- Nhóm 2: gồm các alkaloid là dẫn xuất của các Pyridine và Pyperdine. Đại
diện là các Nicotin có trong cây Thuốc lá.
- Nhóm 3: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Quinolin. Đại diện là thuốc chữa
sốt rét từ vỏ cây Quinin.
- Nhóm 4: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Acridin. Các alkaloid của nhóm
này ít gặp mà thường chỉ có ở một số cây nhiệt đới.
- Nhóm 5: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Isoquilolin.
- Nhóm 6: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Indol. Đại diện là Rezecpin của
cây Ba gạc.
- Nhóm 7: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Imidazol. Đại diện là Pilocarpin.
- Nhóm 8: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Quinazolin. Đại diện là
Febrifugin và Peganin.
- Nhóm 9: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Purin. Đại diện là Cafein,
Theobromin, có trong cây Chè, Cà phê, Cacao,

- Nhóm 10: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Steroid. Đại diện là Solacodin.
- Nhóm 11: gồm các alkaloid là dẫn xuất của Ditecpen, là các alkaloid ít gặp
ở thực vật.
- Nhóm 12: gồm các alkaloid có chứa N ở ngoài vòng (N nằm trong mạch
nhánh của mạch hydrocacbon).
1.1.4.2. Tính chất vật lý
11
Ở nhiệt độ thường, đa số các alkaloid trong công thức cấu tạo có oxy thường
ở thể rắn (ví dụ cafein), alkaloid không có oxy thường ở thể lỏng dễ bay hơi (ví dụ
nicotin). Đa số các alkaloid không màu, không mùi, vị đắng. Một số alkaloid có
màu vàng như berberin, palmitin.
Alkaloid ở dạng base thường không tan trong nước mà tan trong dung môi
hữu cơ ít phân cực như: ether, chloroform, benzen, methanol. Trái lại, các alkaloid
ở dạng muối thường dễ tan trong nước và hầu hết không tan trong dung môi không
phân cực.
1.1.4.3. Tính chất hóa học [11], [36]
- Tính chất quan trọng nhất của các alkaloid là tính kiềm, tính chất này là do
mạch cacbon chứa nitơ quyết định.

Người ta thấy các amin mạch thẳng hoặc vòng
bão hoà có tính base mạnh, nhóm amin nằm trong nhân thơm có tính base yếu.
- Alkaloid có tính kiềm yếu nên có thể giải phóng alkaloid ra khỏi muối của
nó bằng kiềm mạnh hay trung bình như: NH
4
OH, MgO, NaOH. Khi tác dụng với
acid, alkaloid tạo muối tương ứng.
- Alkaloid kết hợp với kim loại nặng (Hg, Bi, Pb) tạo ra muối phức.
- Alkaloid phản ứng với một số thuốc thử gọi là thuốc thử chung của
alkaloid. Những phản ứng chung này chia làm hai loại :
+ Phản ứng tạo kết tủa với thuốc thử Vans–Mayer, thuốc thử Bouchardat,

acid picric bão hoà, …
+ Phản ứng tạo màu với thuốc thử Dragendorff, acid H
2
SO
4
đặc, acid HNO
3
đặc, …
1.1.4.4. Tác dụng sinh học [40]
Alkaloid được hình thành từ các sản phẩm của quá trình trao đổi chất như
trao đổi protein. Ở trong cây, alkaloid được coi như là chất dự trữ cho tổng hợp
protein, các chất bảo vệ cây, tham gia vào sự chuyển hoá hydro ở các mức độ khác
nhau,
Alkaloid được sử dụng nhiều trong công nghiệp dược, có rất nhiều thuốc
chữa bệnh được sử dụng trong y học là các alkaloid tự nhiên hoặc nhân tạo, ví dụ
như: atrophin, morphin, cocain,
1.1.5. Terpen thực vật
12
Terpen là nhóm hydrocacbon thực vật lớn và đa dạng nhất, được hình thành
từ quá trình polyme hoá các tiểu đơn vị isopren 5-carbon (C
5
H
8
), có công thức cấu
tạo chung là (C
5
H
8
)
n

. Trong thực vật terpen được tổng hợp thông qua con đường
trao đổi chất acetate/mevalonate hoặc con đường glyceraldehyde 3-
phosphate/pyruvate. Hầu hết các terpen đều thuộc nhóm hydrocarbon, tuy nhiên
chúng có thể bị khử hoặc bị oxy hóa để hình thành các hợp chất terpenoid khác
nhau như alcohol, ketone, acid và aldehyd. Vì vậy, một số tác giả sử dụng thuật
ngữ “terpenes” để chỉ chung một nhóm lớn các hợp chất bao gồm cả terpen và
terpenoid. Terpen là thành phần chính của các loại tinh dầu, được dùng trong công
nghệ hương mỹ phẩm, thực phẩm và dược phẩm. Những terpen bậc cao thường là
các chất có hoạt tính sinh học.
1.1.6. Hợp chất coumarin
Coumarin là dẫn chất của α- purone có cấu trúc C
6
- C
3
dị vòng chứa oxy.
Coumarin kết tinh không màu hoặc màu vàng nhạt, vị đắng, cay, có mùi thơm [32].
Tính chất hóa học đặc trưng là dễ dàng kết hợp với đường glucose tạo thành
glycosid dễ tan trong nước.
Hiện nay chúng ta biết đến 1500 hợp chất coumarin khác nhau khi nghiên
cứu 800 loài thực vật. Ta cũng dễ dàng tìm thấy coumarin trong tất cả các bộ phận
khác nhau của cây như: áo hạt, quả, hoa, rễ, lá, thân…Coumarin cũng có vai trò là
một nhóm chất phòng thủ hóa học hữu hiệu chống lại vi khuẩn và tác nhân có hại
của môi trường. Tuy nhiên cho tới nay con đường tổng hợp coumarin vẫn chưa
hoàn toàn sáng tỏ [41].
O
O
Coumarin
Coumarin sử dụng trong đời sống hàng ngày như làm nước hoa, hương liệu,
làm chất chống đông máu và chất diệt loài gặm nhấm. Trong y học dẫn xuất của
coumarin có tác dụng chống co thắt, giãn nở động mạch vành, làm bền và bảo vệ

thành mạch, ngăn cản đột qụy [41]. Một số coumarin khác có tác dụng kháng
khuẩn, kháng nấm, kháng khối u, trừ giun sán và giảm đau.
13
1.2. BÉO PHÌ: KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
Tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì (Obesity) là tình trạng tích
lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng hay toàn bộ cơ thể gây ảnh
hưởng tới sức khỏe.
Để nhận định tình trạng béo gầy WHO thường dùng chỉ số khối cơ thể (BMI-
Body Mass Index). Chỉ số khối cơ thể được tính theo công thức như sau:
Trong đó: W: Khối lượng (kg )
H: Chiều cao (m )
Bảng 1.1. Phân loại BMI của người trưởng thành châu Âu và châu Á [2]
Mức độ thể trọng
Người trưởng thành
châu Âu
Người trưởng thành
châu Á
Nhẹ cân < 18.5 < 18.5
Bình thường 18.5 - 24.9 18.5 - 22.9
Quá cân ≥ 25 - 29.9 ≥ 23
Béo phì độ 1 30 - 34.9 >23 - 24.9
Béo phì độ 2 35 - 39.9 25 - 29.9
Béo phì độ 3 ≥ 40 ≥ 30
1.2.1. Thực trạng béo phì trên thế giới và Việt Nam
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) hiện nay số người béo phì đã lên tới 1,7 tỉ
người [3], không chỉ gặp nhiều ở các quốc gia phát triển mà còn gặp cả ở các quốc
gia đang phát triển. Mỹ là nước có số dân mắc bệnh cao nhất thế giới, khoảng 60
triệu người (chiếm 30% dân số), tăng gấp 3 lần so với điều tra năm 1991. Ở châu
Âu, Anh là quốc gia đứng đầu bảng với 23% dân số. Tại châu Á tỉ lệ thừa cân béo
phì ở một số nước như sau: Thái Lan 3,5%, Philipin 4,27%, Malaysia 3,01%, Nhật

3%, Trung Quốc 2%, Hồng Kông 3%.
Tại Việt Nam, theo tiêu chuẩn cho người châu Á, số người thừa cân béo phì
cũng tăng theo thời gian. Năm 1991 theo điều tra của Lê Huy Liệu và cộng sự thì tỉ
lệ thừa cân mắc bệnh béo phì nói chung tại Hà Nội là 1,1%. Đến năm 2000 con số
này đã là 2,62% tăng gần 2,5 lần trong vòng 10 năm (điều tra của Lê Văn Hải) [3].
Năm 2007, Viện dinh dưỡng Quốc gia điều tra trên đối tượng người trưởng
thành 25 - 64 tuổi cho thấy tỉ lệ thừa cân béo phì là 16,8% và còn có xu hướng tăng
lên. Theo Viện trưởng TS. Nguyễn Công Khẩn thì tỉ lệ này ở thành thị lớn hơn
nông thôn, ở nữ giới cao hơn nam giới. Trẻ em Việt Nam cũng có 16,3% mắc thừa
14
cân béo phì [15]. Hà Nội có 4,9% trẻ 4 - 6 tuổi mắc bệnh, Thành phố Hồ Chí Minh
6% trẻ dưới 5 tuổi và 22,7% học sinh tiểu học cũng rơi vào tình trạng này [58]. Với
những hiểu biết hiện nay, thừa cân, béo phì được coi là những đối tượng “ngiễm
nhiên” tiến tới ĐTĐ typ 2, đặc biệt với những người có chỉ số BMI cao lại có vòng
eo lớn – béo trung tâm [2]. Trước tình hình đó Bộ y tế đã kí quyết định thành lập
“Trung tâm phục hồi dinh dưỡng và kiểm soát béo phì” trực thuộc Viện dinh
dưỡng, chính thức tuyên chiến với bệnh béo phì.
1.2.3.Tác hại và nguy cơ của bệnh béo phì
Chứng thừa cân và bệnh béo phì gây nhiều tác hại cho cuộc sống con người
như mất thoải mái trong sinh hoạt, giảm hiệu suất lao động, khối lượng cơ thể nặng
nề kém lanh lợi.
Người béo phì có nguy cơ bệnh tật cao hơn so với người thường do nhiễm
độc mỡ máu, tiêu biểu như:
- Bệnh tim mạch: do mỡ tạng làm tim khó co bóp và mỡ máu làm xơ cứng
mạch vành và các mạch máu khác gây nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp.
- Rối loạn lipid máu: tình trạng này rất hay gặp ở người béo bụng và có biểu
hiện đặc trưng là tăng triglycerid và lipid có hại (LDL-c), giảm lipid có lợi (HDL-
c).
- Tiểu đường: béo phì toàn thân có nguy cơ mắc ĐTĐ type 2.
- Đột qụy: những người có BMI > 30 dễ bị tử vong do bệnh liên quan đến

mạch máu não.
- Ngoài ra béo phì còn làm gia tăng nguy cơ của nhiều bệnh khác: xấu đi tình
trạng rối loạn tiền mãn kinh ở phụ nữ, suy giảm chức năng hô hấp, rối loạn hoạt
động cơ xương, ung thư, sỏi mật và các vấn đề bệnh lý tâm thần khác [3], [15],
[38].
1.2.4. Nguyên nhân và giải pháp phòng, điều trị béo phì
Nguyên nhân chính dẫn đến thừa cân béo phì là do khẩu phần và thói quen
dinh dưỡng không hợp lý, hoạt động thể lực kém dẫn đến năng lượng hấp thụ
vào cơ thể vượt quá mức cần thiết và tích lũy dưới dạng mỡ. Ngoài ra một số
bệnh lý nội tiết như: hội chứng Cushing (do hormone cortisosteroid trong cơ
thể tăng quá cao), bệnh suy tuyến giáp trạng, bệnh trứng đa nang hoặc có chứa
gen béo phì di truyền.
15
Để phòng bệnh béo phì có hiệu quả, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận thức về
dinh dưỡng và hoạt động thể lực. Trên phạm vi xã hội, việc phòng bệnh cần tập
trung vào nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh này.
Điều trị thừa cân béo phì dựa trên nguyên tắc kết hợp giữa chế độ ăn uống,
luyện tập và dùng thuốc. Trong đó thuốc và phẫu thuật chỉ dùng trong trường hợp
bắt buộc. Thuốc chống béo phì được chia làm hai nhóm lớn.
- Nhóm có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương.
- Nhóm tác dụng lên hệ tiêu hóa.
Thuốc điều trị béo phì phổ biến hiện nay là Metformin thuộc nhóm hai với
tác dụng chủ yếu là ức chế phân giải glycogen thành glucose ở gan, làm tăng tính
nhạy cảm của insulin ngoại vi, tác động hạ glucose trong khoảng 2 - 4 mmol/l,
giảm HbA
1
C đến 2%. Vì thế, Metformin được dùng cho cả bệnh nhân béo phì và
tiểu đường. Tuy nhiên thuốc cũng có một số tác dụng phụ với đường tiêu hóa,
chống chỉ định với người suy tim nặng, bệnh gan, bệnh thận và những người từng
có tiền sử nhiễm toan lactic.

1.2.5. Rối loạn trao đổi lipid máu
Huyết thanh người bình thường có 5 - 7g/l lipid toàn phần bao gồm acid béo
tự do, triglycerid, cholesterol toàn phần với hai dạng cholesterol tự do và
cholesterol este, các photpholipid. Vì không tan trong nước nên lipid được vận
chuyển trong máu dưới dạng kết hợp với các protein đặc hiệu. Các acid béo tự do
được vận chuyển chủ yếu bởi albumin, các lipid khác được lưu hành trong máu
dưới dạng phức hợp lipoprotein như: các hạt chymomicron, VLDL, HDL, IDL,
LDL. Các lipoprotein này có kích thước, thành phần, tỉ trọng và chức năng khác
nhau trong quá trình chuyển hóa lipid [10], [29], [59], [81].
Để đánh giá lượng mỡ trong máu người ta làm xét nghiệm với các chỉ số:
- Cholesterol toàn phần (2,9 – 5,2 mmol/l);
- Triglycerid (0,8 – 2,3 mmol/l);
- HDL-c (0,90 – 1,50 mmol/l);
- LDL-c (0,5 – 3,4 mmol/l).
Tình trạng rối loạn và hoặc tăng nồng độ các thành phần lipid trong máu, hậu
quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch làm tăng nguy cơ biến chứng
tim mạch và đột qụy, tăng các biến chứng mạch máu khác, hậu quả nặng nề nhất là
16
dẫn đến tử vong hoặc tàn phế gọi là rối loạn chuyển hóa [2]. Ngày nay người ta đã
xem là có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ thành phần của lipid máu có sự thay
đổi. Khái niệm này chỉ rõ rối loạn lipid máu có thể xảy ra từ rất sớm, ngay cả khi
chưa có tăng các giá trị tuyệt đối nồng độ của các thành phần trong máu [2]. Rối
loạn này có thể tiên phát do di truyền hoặc thứ phát sau các bệnh khác như: béo
phì, ĐTĐ, nghiện rượu, suy giáp trạng. Fredrickson căn cứ vào kĩ thuật điện di và
siêu ly tâm với các thành phần huyết thanh đã phân loại chứng tăng lipid máu thành
5 type dựa trên những thay đổi thành phần lipoprotein. Cách phân loại này đã được
WHO chính thức sử dụng vào năm 1970 [28]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh
người mắc bệnh béo phì có nguy cơ cao mắc các bệnh rối loạn lipid máu dẫn đến
xơ vữa động mạch (liên quan chủ yếu đến các lipoprotein) hoặc hiện tượng “nhiễm
độc mỡ tế bào” [20], [28].

1.2.6. Mối quan hệ giữa béo phì và ĐTĐ
Béo phì và ĐTĐ là hai bệnh không truyền nhiễm nhưng nguy hiểm nhất của
thế kỉ 21. Hai căn bệnh này có mối liên quan chặt chẽ với nhau thể hiện ở chỗ tỉ lệ
người béo phì luôn tăng tương đương với số bệnh nhân bị ĐTĐ. Một cuộc khảo sát
của Mỹ gần đây đã chỉ ra rằng có tới 58% số người bị ĐTĐ type 2 được quy cho là
do béo phì. Béo phì liên quan tới ĐTĐ type 2 thông qua sự đề kháng insulin. Nồng
độ acid béo tự do cứ tăng 100µM thì mức đề kháng insulin tăng khoảng 5-10% [2].
Thiếu insulin dẫn đến sự tăng trọng lượng cơ thể, tăng đường máu, cuối cùng dẫn
đến bệnh ĐTĐ type 2.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa béo phì và bệnh ĐTĐ type
2 bao gồm: chỉ số khối cơ thể, thời gian béo phì, chế độ dinh dưỡng, sự vận động
thân thể. Một thống kê đã chỉ ra rằng những người có chỉ số khối cơ thể lớn hơn 30
kg/m
2
trong 10 năm có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ type 2 cao gấp hai lần người bị béo
phì dưới 5 năm và nếu trọng lượng cơ thể tăng một kilogam thì rủi ro về bệnh ĐTĐ
type 2 tăng 4,5% [38]. Đây chính là cơ sở để Reed và cộng sự đưa ra phương pháp
gây mô hình ĐTĐ thực nghiệm ở động vật bằng cách tiêm STZ liều đơn cho chuột
đã được vỗ béo nhiều ngày [68], [72]. Tại Việt Nam, Trần Thị Chi Mai đã áp dụng
phương pháp này và đạt hiệu quả 90% chuột xuất hiện ĐTĐ với nồng độ glucose
máu ≥10 mmol/l [21].
17
Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy acid béo tự do có vai trò trong bệnh
sinh ĐTĐ type 2. Phần lớn người béo phì có nồng độ acid béo trong huyết tương
tăng cao. Sự tăng này ức chế quá trình hấp thu glucose ngoại vi dưới tác dụng của
insulin, ức chế sử dụng glucose của toàn cơ thể, ức chế oxy hóa glucose ở cơ [39].
ĐTĐ đặc trưng bởi sự rối loạn chuyển hóa glucid, sự rối loạn này ảnh hưởng
đến môi trường nội môi do đó kéo theo hoặc làm cho quá trình rối loạn chuyển hóa
lipid ở mỗi loại ĐTĐ mang những đặc trưng riêng. Đặc trưng chung của rối loạn
chuyển hóa lipid trong ĐTĐ là sự tăng triglycerid, giảm HDL-c và LDL-c vẫn nằm

trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên ở ĐTĐ type 1 rối loạn tăng triglycerid
sẽ mất đi khi kiểm soát được glucose máu khác với type 2, rối loạn này có thể
vẫn kéo dài mặc dù có sự điều trị giảm glucose máu thích hợp. LDL-c của type
2 cũng có thể tăng nhẹ và xuất hiện nhiều LDL-c với kích thước nhỏ và nặng
hơn khi việc kiểm soát glucose kém. Đây chính là yếu tố làm tăng nguy cơ
bệnh xơ vữa động mạch [20].
1.3. BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG (ĐTĐ)
Tên gọi chuyên môn của căn bệnh này là Diabetes mellitus, theo tiếng Hy lạp
đó là từ chỉ mật ong. Vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, bác sĩ Aretaios từ
Kappadokie đã miêu tả nước tiểu của người bệnh có vị ngọt như mật ong [8]. ĐTĐ
là bệnh mạn tính phổ biến nhất và đang ngày càng phát triển trên toàn cầu. Biểu
hiện của bệnh là sự tăng nồng độ glucose trong máu và kéo theo những rối loạn
chuyển hóa glucid, lipid và protein, không dung nạp glucose dẫn đến ĐTĐ. ĐTĐ
cũng là nguyên nhân gây các biến chứng mù mắt, suy gan, thần kinh, tim mạch,
Nguyên nhân ĐTĐ là do tế bào β của đảo tụy Langerhan bị phá hủy mất khả năng
sản xuất insulin, một hormon điều hòa nồng độ glucose máu (ĐTĐ type 1) hoặc do
rối loạn trao đổi chất lipid - glucid dẫn đến đối kháng insulin (ĐTĐ type 2) [23].
1.3.1. Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ
Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ thay đổi theo lứa tuổi, dân tộc, các vùng địa lý khác
nhau và theo sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Những số liệu mới nhất cho
thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở châu Á hiện nay đã vượt xa châu Âu, nơi vốn được xem
là ổ bệnh. Trong khi có khoảng 5% số người trưởng thành ở châu Âu mắc bệnh thì
ở châu Á số người mắc bệnh là từ 10-12% và ở những quốc gia đảo thuộc Thái
18
Bình Dương là 30-40%. Điều nguy hiểm là châu Á đang có chiều hướng gia tăng
bệnh ĐTĐ ở lứa tuổi thanh thiếu niên và trẻ nhỏ. Cũng theo tổ chức này thì nếu
năm 2000 có 146 triệu người mắc bệnh ĐTĐ thì năm 2010 sẽ là 220 triệu người và
năm 2025 sẽ có thể lên tới 300 triệu người, chiếm 5% dân số thế giới [4].
Việt Nam là một nước đang phát triển nằm trong khu vực Tây Thái Bình
Dương, khu vực đang có những thay đổi lớn không chỉ về kinh tế mà cả về các lĩnh

vực môi trường, hình thái bệnh tật…cùng với các bệnh không lây nhiễm khác, bệnh
ĐTĐ đang phát triển với tốc độ nhanh. Điều tra năm 2001 tỷ lệ ĐTĐ ở 4 thành phố
lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh) trong lứa tuổi 30 – 46 là
4.1%; đến điều tra toàn quốc năm 2002 ở cùng đối tượng, tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc là
2.7%. Trong đó ở thành phố và khu công nghiệp là 4.4%, đồng bằng – 2.7%, trung
du – 2.2% và miền núi là 2.1%. Hiện nay có khoảng trên 2 triệu người mắc bệnh
ĐTĐ, nhưng có tới 65% người bệnh không biết mình đã mắc căn bệnh này. Trong
10 năm qua, số bệnh nhân ĐTĐ đã tăng 3- 4 lần ở khu vực thành thị. Khu vực nông
thôn trước đây thường rất ít thì nay bệnh đã trở nên phổ biến [4], [2].
Rõ ràng ĐTĐ đang có chiều hướng phát triển nhanh chóng nhất là khu vực
châu Á. Mối liên quan chặt chẽ giữa dinh dưỡng - lối sống và bệnh ĐTĐ từ lâu đã
được nhiều nhà khoa học trên thế giới công nhận. Dinh dưỡng không hợp lý dẫn
đến thừa cân, béo phì và rối loạn chuyển hóa là một trong những cơ chế quan trọng
trong sinh bệnh học của rối loạn dung nạp glucose và bệnh ĐTĐ. Hơn nữa bệnh
ĐTĐ lại có nhiều biến chứng về tim mạch, thần kinh, gây đột qụy, mù lòa, tổn
thương thận, giảm tuổi thọ, Vì thế, ĐTĐ không chỉ là mối quan tâm của ngành y
tế mà còn thu hút cả sự chú ý của các nhà quản lý xã hội.
1.3.2. Chẩn đoán và phân loại bệnh ĐTĐ
Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định:
Theo ADA năm 1997 và được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận năm 1998,
tuyên bố áp dụng vào năm 1999, ĐTĐ được chẩn đoán xác định khi có bất kỳ một
trong ba tiêu chuẩn sau:
19
- Tiêu chuẩn 1: glucose máu bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l. Kèm theo các triệu chứng
uống nhiều, đái nhiều, sút cân không có nguyên nhân.
- Tiêu chuẩn 2: glucose máu lúc đói ≥ 7,0 mmol/l, xét nghiệm lúc bệnh nhân
đã nhịn đói sau 6 - 8 giờ không ăn.
- Tiêu chuẩn 3: glucose máu ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp tăng
glucose máu ≥ 11,1 mmol/l.
Các xét nghiệm trên phải được lặp lại 1 - 2 lần trong những ngày sau đó [2].

1.3.3. Phân loại bệnh ĐTĐ
1.3.3.1. ĐTĐ týp 1
ĐTĐ týp 1 chiếm tỷ lệ khoảng 5 - 10% tổng số bệnh nhân ĐTĐ thế giới.
Nguyên nhân do tế bào β bị phá hủy, gây nên sự thiếu hụt insulin tuyệt đối cho cơ
thể (nồng độ insulin giảm thấp hoặc mất hoàn toàn). Các kháng nguyên bạch cầu
người (HLA) chắc chắn có mối liên quan chặt chẽ với sự phát triển của ĐTĐ týp 1
[1], [22], [76 ].
ĐTĐ týp 1 phụ thuộc nhiều vào yếu tố gen và thường được phát hiện trước
40 tuổi. Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành niên biểu hiện nhiễm
toan ceton là triệu chứng đầu tiên của bệnh. Đa số các trường hợp được chẩn đoán
bệnh ĐTĐ týp 1 thường là người có thể trạng gầy, tuy nhiên người béo cũng không
loại trừ. Người bệnh ĐTĐ týp 1 sẽ có đời sống phụ thuộc insulin hoàn toàn.
1.3.3.2. ĐTĐ týp 2 [1], [22], [60], [72].
ĐTĐ týp 2 chiếm tỷ lệ khoảng 90% ĐTĐ trên thế giới, thường gặp ở người
trưởng thành trên 40 tuổi. Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Tuy nhiên, do có
sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, về thói quen ăn uống, ĐTĐ týp 2 ở lứa tuổi trẻ
đang có xu hướng phát triển nhanh.
Đặc trưng của ĐTĐ týp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt tiết insulin
tương đối. ĐTĐ týp 2 thường được chẩn đoán rất muộn vì giai đoạn đầu tăng
glucose máu tiến triển âm thầm không có triệu chứng.
Khi có biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về chuyển hoá
lipid, các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thần kinh, thận…, nhiều khi các biến
chứng này đã ở mức độ rất nặng.
Đặc điểm lớn nhất trong sinh lý bệnh của ĐTĐ týp 2 là có sự tương tác giữa
yếu tố gen và yếu tố môi trường trong cơ chế bệnh sinh. Người mắc bệnh ĐTĐ týp
20
2 có thể điều trị bằng cách thay đổi thói quen, kết hợp dùng thuốc để kiểm soát
glucose máu, tuy nhiên nếu quá trình này thực hiện không tốt thì bệnh nhân cũng sẽ
phải điều trị bằng cách dùng insulin.
* Sinh bệnh học ĐTĐ type 2 diễn biến qua ba giai đoạn:

- Giai đoạn 1: mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn bình thường, nhưng có
hiện tượng kháng insulin vì insulin tăng cao hơn mức bình thường trong máu.
- Giai đoạn 2: tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần do có hiện
tượng tăng glucose huyết sau ăn.
- Giai đoạn 3: kháng insulin không đổi nhưng bài tiết insulin suy giảm gây
tăng glucose huyết lúc đói, bệnh ĐTĐ biểu hiện ra bên ngoài.
1.3.3.3. ĐTĐ thai nghén
Đái đường thai nghén thường gặp ở phụ nữ có thai, có glucose máu tăng, gặp
khi có thai lần đầu. Sự tiến triển của ĐTĐ thai nghén sau đẻ theo 3 khả năng: bị
ĐTĐ, giảm dung nạp glucose, bình thường [24].
1.3.3.4. Các thể ĐTĐ khác (hiếm gặp)
Nguyên nhân liên quan đến một số bệnh, thuốc, hoá chất:
- Thiếu hụt di truyền chức năng tế bào β;
- Thiếu hụt di truyền về tác động của insulin;
- Bệnh tuyến tụy ngoại tiết;
- Các bệnh nội tiết;
- Thuốc hoặc hóa chất;
- Nhiễm khuẩn;
- Những thể ĐTĐ miễn dịch trung gian ít gặp;
- Một số hội chứng di truyền kết hợp với ĐTĐ.
21
1.3.4. Chuyển hóa glucose và sự điều hòa glucose huyết
1.3.4.1. Trong điều kiện sinh lý
Glucose trong cơ thể có nguồn gốc chủ yếu từ thức ăn thông qua quá trình
tiêu hóa. Vào các thời điểm xa bữa ăn hoặc khi glucid thức ăn không đủ, cơ thể sẽ
huy động nguồn glucose thứ hai nhờ sự thoái hóa glycogen ở gan, cơ. Ngoài ra
glucose còn có được nhờ quá trình tân tạo glucose nhờ hệ thống enzyme đặc hiệu
riêng biệt (xảy ra ở gan, thận, ruột) từ pyruvat, lactat hay các sản phẩm trung gian
của chu trình Krebs.
Glucose sau khi được hấp thu hoặc tạo thành trong cơ thể sẽ tan trong máu

và được vận chuyển vào trong tế bào nhờ các protein vận chuyển. Cuối cùng
glucose sẽ thoái hóa để tạo năng lượng hay các sản phẩm trung gian thông qua quá
trình đường phân, chu trình pentose phosphat hay con đường tạo uronic và
ascorbic. Glucose dư thừa khi nhu cầu năng lượng của cơ thể thấp lại được chuyển
thành dạng glucid dự trữ là glycogen ở gan [31]. Để duy trì nồng độ glucose ổn
định trong máu cơ thể phải huy động nhiều cơ chế, có sự xúc tác của nhiều loại
enzyme khác nhau nhằm cân bằng giữa lượng glucose đi vào máu và lượng glucose
được thu nạp bởi các tổ chức. Trong đó quan trọng nhất là việc điều hòa quá trình
tân tạo glucose và quá trình thoái hóa glucose có sự tham gia của nhiều protein vận
chuyển glucose qua màng tế bào [40].
Glucose trong cơ thể được điều hòa ổn định bởi các hormon mà chủ yếu là
các hormon tuyến tụy nội tiết. Insulin là hormon tiết bởi các tế bào β của đảo tụy
Langerhans có tác dụng làm giảm glucose máu do làm tăng dự trữ glycogen ở gan,
cơ; ức chế quá trình tân tạo đường mới. Glucagon là hormon tiết bởi tế bào α đảo
tụy, có tác dụng ngược với insulin, nghĩa là làm tăng sự phân giải glycogen và tăng
tân tạo đường mới do đó giảm glucose huyết.
1.3.4.2. Trong trường hợp mắc bệnh ĐTĐ
ĐTĐ gây ra rất nhiều các biến chứng mạn tính cũng như cấp tính. Gần đây
có rất nhiều nghiên cứu về tác hại của glucose lên các tế bào gây ra các biến chứng
của bệnh.
Có 3 giả thiết chính:
- Chuyển hóa đường theo con đường polyol: ở người bệnh ĐTĐ do tăng
glucose máu liên tục nên chuyển hóa theo con đường này cũng tăng lên rõ rệt, kết
22
quả tạo ra fructose và sorbitol. Sorbitol không dễ dàng đi qua màng tế bào nên tích
tụ trong tế bào, gây hậu quả xấu lên các tế bào như:
+ Tăng áp lực thẩm thấu trong các tế bào;
+ Biến đổi hệ thống coenzim oxy hóa khử về tỷ lệ NAD/NADH và
NADP/NADPH làm giảm nồng độ glutathion, acid ascobic, vitamin E là các chất
chống lại các gốc tự do gây độc với các tế bào;

+ Tăng quá trình chuyển hóa myoinositol làm giảm lượng myoinositol (chất
điều hòa hoạt động của Na
+
-K
+
-ATPase), do đó gây rối loạn tính thấm của màng tế
bào.
- Đường hóa protein không cần enzim (glycation): khi tăng glucose mạn tính
thì phản ứng này trở nên mạnh tạo nên những sản phẩm tận bậc cao là AGE
(Advanced Glycosylation End products). Các sản phẩm này có thể tác động tới
chức năng của nhiều loại protein và gây tác động qua vai trò trung gian gốc tự do
trong quá trình gây nên những biến chứng mạn tính ở người ĐTĐ. AGE gắn đồng
hóa trị với các protein (như lipoprotein trọng lượng thấp albumin và IgG); gắn với
các yếu tố thành mạch gây rối loạn cấu trúc 3D của protein, làm biến đổi lớp anion
proteoglycan làm thay đổi diện tích trên thành mạch và tương tác với các protein
vận chuyển của mạch máu. Ngoài ra AGE còn gắn với các protein tổ chức nhất là
colagen, đặc biệt là các colagen ở màng cơ bản ở các màng đáy cần thận. Nó làm
màng đáy dầy lên và phá hủy lớp hepafan sulfat làm màng đáy cầu thận bị tổn
thương khiến các lỗ lọc rộng ra. Đây là lý do xuất hiện albumin niệu.
- Stress oxy hóa: việc tăng mạn tính glucose làm tăng các dẫn xuất của oxy có
hoạt tính, đã gây giảm các các chất có hoạt tính chống oxy hóa, làm rối loạn cân
bằng oxy hóa – khử, dẫn đến làm rối loạn chức năng tế bào.
Tóm lại toàn bộ các biến chứng của người mắc bệnh ĐTĐ là hậu quả của quá
trình tăng glucose máu mạn tính gây ra [2].
1.3.5. Biến chứng bệnh ĐTĐ
ĐTĐ nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh sẽ tiến triển
nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh nhân có thể tử
vong do các biến chứng này.
23
1.3.5.1. Biến chứng cấp tính

Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đoán muộn, nhiễm khuẩn
cấp tính hoặc điều trị không thích hợp. Ngay cả khi điều trị đúng, hôn mê nhiễm
toan ceton và hôn mê tăng áp lực thẩm thấu vẫn có thể là hai biến chứng nguy
hiểm.
Nhiễm toan ceton: là hiện tượng nhiễm axit chuyển hóa, do sản xuất quá
nhiều các thể cetonic (acid β hydroxybutyric, acid acetoacetic và aceton). Rối loạn
trực tiếp gây ra nhiễm toan – ceton là sự thiếu hụt insulin một cách trầm trọng,
giảm thể tích tuần hoàn, tăng các hoocmon trong huyết thanh như catecholamin,
glucagon, cortisol, GH gây ra tăng glucose trong máu, tăng áp lực thẩm thấu huyết
tương và tăng các chất cetonic trong máu. Hôn mê do tăng cetonic là biến chứng
nặng nhất ở bệnh nhân ĐTĐ do thiếu isulin, tỷ lệ tử vong cao (8 – 18%).
Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu là tình trạng rối loạn chuyển hóa glucose
nặng, đường huyết tăng cao. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu chiếm 5 - 10% [23],
[2], [25].
1.3.5.2. Biến chứng mạn tính
1.3.5.2.1. Bệnh ĐTĐ và lipid máu
Nồng độ lipid và lipoprotein không bình thường là biểu hiện thường gặp ở
bệnh nhân ĐTĐ, đặc biệt là ở ĐTĐ không phụ thuộc insulin: nồng độ cholesterol
và LDL cholesterol thường cao rõ rệt, nhưng không bình thường chính là tăng lipit
máu và HDL giảm. ĐTĐ tăng triglycerid máu được đặc trưng bởi ứ đọng phần dư
sau khi thủy phân VLDL. Những tiểu phần này có tỷ trọng trung bình, là yếu tố xơ
vữa động mạch.
ĐTĐ tăng triglycerid kết hợp với sự thay đổi kích thước và tỷ trọng của tiểu
phần LDL với sự tăng nồng độ của tiểu phần nhỏ. Tiểu phần nhỏ LDL có thể thúc
đẩy tiềm năng xơ vữa vì tăng sự nhạy cảm với sự oxy hóa và tăng ái lực gắn với
lớp glycosaminoglycan của động mạch [23], [2], [25].
1.3.5.2.2. Bệnh lý mắt ở bệnh nhân ĐTĐ
Hiện nay 10% bệnh nhân ĐTĐ có bệnh lý võng mạc, sau 10 năm tỷ lệ này là
30 – 35%, sau 20 – 30 năm là 80%. Tình trạng tăng nồng độ glucose mạn tính trong
máu gây ra hiện tượng glycosyl hóa, gluco oxy hóa tạo thành các gốc tự do. Các

gốc tự do sẽ tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp dập tắt NO – chất được nội mô sản
24
xuất có tác dụng dãn mạch phụ thuộc nội mô. Các gốc tự do cũng làm tăng sinh tế
bào cơ trơn. Hậu quả là gây ra lòng mạch máu thắt hẹp, độ mềm mại và giãn mạch
bị giảm. Giảm sự giãn mạch gây ra rối loạn huyết động, gây tình trạng thiếu oxy tổ
chức. Nguyên nhân thiếu oxy tổ chức cũng còn do hiện tượng glycosyl hóa Hb tạo
thành HbAc1, đồng thời với sự glycosyl hóa 2.3. diphotphosglycerat mutase (2.3.
DPG) làm cho nồng độ 2.3. DPG giảm trong hồng cầu, dẫn tới khả năng tách oxy
ra khỏ Hb ở tổ chức giảm. Hậu quả là: – Thay đổi về huyết động học, tăng dòng
máu và giảm sự điều hòa tuần hoàn võng mạc; - Tăng tính thấm mao mạch, gây
phù và xuất tiết; - Hẹp và tắc các vi mạch kéo dài gây hiện tượng tự sửa chữa bằng
cách phát triển các mạch máu tân tạo. Tổn thương các mạch máu võng mạc mắt ở
bệnh nhân ĐTĐ là những biểu hiện lâm sàng rõ nhất của rối loạn các vi mạch máu.
Ở đây có hiện tượng tăng sinh trong tổ chức lưới võng mạc và các mạch máu tân
tạo, xuất huyết nhiều và rộng, có thể bong võng mạc và gây ra hiện tượng mù.
Bệnh ĐTĐ còn gây ra đục thủy tinh thể, tỷ lệ chiếm từ 22 – 30%. Đục thủy
tinh thể ở người bệnh ĐTĐ là kết quả của sự hư hỏng tính thẩm thấu của thủy tinh
thể vì hoạt động của con đường chuyển hóa polyol, glucose sẽ bị khử thành
sorbitol, lượng sorbitol tích lũy nhiều (sự khuếch tán ra ngoài thủy tinh thể rất
chậm) làm tăng thẩm thấu thủy tinh thể, từ đó ảnh hưởng đến cấu trúc hữu cơ của
những protein có tính trong suốt ở tế bào thủy tinh thể, làm tăng tỷ lệ tập trung và
biến tính các protein này. Hậu quả là tại đó xảy ra sự tăng đặc tính phân tán ánh
sáng. Đó chính là hiện tượng đục thủy tinh thể ở bệnh nhân ĐTĐ.
Theo nghiên cứu của Tô Văn Hải, Phạm Hoài Anh tại Bệnh viện Thanh
Nhàn - Hà Nội, số bệnh nhân có bệnh về mắt chiếm 72,5%, trong đó tỷ lệ bệnh
võng mạc ĐTĐ 60,5%, đục thủy tinh thể 59% [19 ], [2], [25].
1.3.5.2.3. Biến chứng thận
Biến chứng thận do ĐTĐ là một trong những biến chứng thường gặp, tỷ lệ
biến chứng tăng theo thời gian. Bệnh thận do ĐTĐ với dấu hiệu đầu tiên là tăng sự
bài tiết albumin một cách ổn định trong nước tiểu. Đây là dấu hiệu báo trước thận

bị tổn thương, sự tăng huyết áp thường kèm theo giảm mức lọc ở cầu thận sẽ dẫn
đến giảm albumin trong máu, bệnh nhân giữ nước và phù xuất hiện. Sau đó khi
chức năng thận giảm xuống, ure và creatinin sẽ tích tụ trong máu.
25

×