Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Ứng dụng khoa học phong thủy trong bố trí nội thất và nhà ở nội đô phường Bắc Sơn - thành phố Hải Phòng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 77 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


NGUYỄN HỒNG HẠNH


Tên chuyên đề:
ỨNG DỤNG PHONG THỦY TRONG BỐ TRÍ NỘI THẤT VÀ NH
Ở NỘI ĐÔ PHƯỜNG BẮC SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Sư phạm kỹ thuật
Khoa : Chăn nuôi Thú y
Khoá học : 2013 – 2015



THÁI NGUYÊN, 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN HỒNG HẠNH


Tên chuyên đề:
ỨNG DỤNG PHONG THỦY TRONG BỐ TRÍ NỘI THẤT VÀ NH
Ở NỘI ĐÔ PHƯỜNG BẮC SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Sư phạm kỹ thuật
Lớp : Liên thông SPKT – K9
Khoa : Chăn nuôi Thú y
Khoá học : 2013 – 2015
Giáo viên hướng dẫn :
GS.TS. Nguyễn Thế Đặng




THÁI NGUYÊN, 2014


LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là một giai đoạn cần thiết của mỗi sinh viên, nhằm vận
dụng và củng cố những kiến thức mà mình đã học được trong nhà trường. Được sự

nhất trí của ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Quản Lý Tài Nguyên trường
Đại học Nông Lâm, em đã nghiên cứu đề tài: “
Ứng dụng khoa học phong thủy trong bố
trí nội thất và nhà ở nội đô phường Bắc Sơn- thành phố Hải Phòng
”.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tốt nghiệp tại phường Bắc Sơn
thành phố Hải Phòng đã hoàn thành. Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành
cảm ơn:
Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban Chủ nhiệm
khoa Quản Lí Tài Nguyên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng toàn thể
các thầy cô giáo trong khoa đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ cho em trong thời gian
học tập và rèn luyện tại trường.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo GS.TS. Nguyễn Thế Đặng.
Thầy đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn phòng Địa Chính và UBND phường Bắc Sơn
thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập cũng
như trong việc hoàn thành bản khoá luận này.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã luôn
cổ vũ, động viên em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Do trình độ bản thân còn hạn chế và thời gian có hạn, bước đầu làm quen với
thực tế và phương pháp nghiên cứu nên trong khoá luận không thể tránh khỏi những sai
sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để khoá luận
tốt nghiệp của em được hoàn chỉnh và sâu sắc hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hải Phòng, ngày tháng năm 2014
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hồng Mạnh



DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH

Bảng 4.1. Đông tứ và Tây tứ 31
Hình 2.1: Ngũ hành 11
Hình 2.2: Bát quái, phương vị 12
Hình 4.1. Phòng khách theo phong thủy 34
Hình 4.2: Ghế ngồi phòng khách 36
Hình 4.3: Tranh ảnh và vật dụng trong phòng khách 39
Hình 4.4: Phòng ngủ theo phong thủy 40
Hình 4.5: Giường ngủ 43
Hình 4.6: Nhà bếp 44
Hình 4.7: Bàn thờ 48
Hình 4.8 : Phòng thờ 49
Hình 4.9 : Người cung ly(9) 51
Hình 4.10: Nhà ông Nguyễn Hải Phong 51
Hình 4.11: Phòng khách của nhà ông Nguyễn Hải Phong 52
Hình 4.12: Phòng ngủ của vợ chồng ông Nguyễn Hải Phong 53
Hình 4.13: Phòng ngủ của Nguyễn Hải Huy 54
Hình 4.14: Nhà bếp của gia đình ông Nguyễn Hải Phong 54
Hình 4.15: Phòng thờ của gia đình ông Nguyễn Hải Phong 55
Hình 4.16: Nhà của ông Nguyễn Thái Bình 56
Hình 4.17: Người thuộc cung Khôn (2) 57
Hình 4.18 : Phòng khá

ch nhà ông Nguyễn Thái Bình 58
Hình 4.19 : Phòng ngủ của 2 vợ chồng ông Nguyễn Thái Bình 59
Hình 4.20 : Phòng ngủ của con trai ông Nguyễn Thái Bình 60
Hình 4.21 : Nhà bếp của gia đình ông Bình 60
Hình 4.22 : Phòng thờ nhà ông Bình 61
Hình 4.23 : Người cung ly(9) 62

Hình 4.24: Nhà ông Nguyễn Hải Quân 63
Hình 4.25: Phòng khách của nhà ông Nguyễn Hải Quân 64
Hình 4.26: Phòng ngủ của vợ chồng ông Nguyễn Hải Quân 65
Hình 4.27: Nhà bếp của gia đình ông Nguyễn Hải Quân 65
Hình 4.28: Phòng thờ của gia đình ông Nguyễn Hải Quân 66



MỤC LỤC

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Yêu cầu của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu 3
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4
2.1.1. Khái niệm về phong thủy 4
2.1.2.
Nguồn gốc ra đời của khoa học phong thủy 6
2.1.3. Một số khái niệm căn bản trong phong thủy 8
2.1.3.1. Khí 8
2.1.3.2. Âm dương 9
2.1.3.3. Ngũ hành 10
2.1.3.4. Bát quái 11
2.1.3.5. Phương vị phong thủy 12
2.1.4. Bản chất khoa học của phong thủy 12
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 13

2.2.1. Thuật phong thủy trên thế giới 13
2.2.2. Thuật phong thủy ở Trung Quốc 15
2.2.3. Thuật phong thủy tại Việt Nam 17
2.3. Ứng dụng phong thủy trong bài trí nhà ở, công trình xây dựng, cảnh quan 20
2.3.1. Ứng dụng Phong thủy trong bài trí nhà ở 20
2.3.1.1. Môi trường xung quanh 20
2.3.1.2. Chú ý đến diện tích nhà 20
2.3.1.3. Hình dạng của phòng 21


2.3.1.4. Chú ý đến ánh sáng 21
2.3.1.5. Chú ý đến màu sắc 21
2.3.1.6. Chú ý đến ban công và cửa 22
2.3.2. Ứng dụng phong thủy trong bố trí công trình xây dựng 22
2.3.3. Ứng dụng phong thủy trong bố trí cảnh quan 23
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 25
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 25
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 25
3.3. Nội dung nghiên cứu 25
3.4. Phương pháp nghiên cứu 26
3.4.1. Phương pháp kế thừa tài liệu 26
3.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa 26
PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 27
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn ngiên cứu 27
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 27
4.1.2. Các nguồn tài nguyên 27
4.1.3. Thực trạng cảnh quan môi trường 27
4.1.4. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 28

4.1.5. An ninh quốc phòng 29
4.2. Khoa học phong thủy trong bố trí công trình nhà ở nội đô 30
4.2.1. Chọn chất đất và thế đất 30
4.2.2. Lựa chọn hướng nhà 31
4.2.2.1. Trạch mệnh tương phối 31
4.2.2.2. Cách tìm quẻ mệnh 32
4.2.3. Bố trí cổng nhà và cửa nhà 32
4.2.3.1. Cổng 32
4.2.3.2. Cửa 33


LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là một giai đoạn cần thiết của mỗi sinh viên, nhằm vận
dụng và củng cố những kiến thức mà mình đã học được trong nhà trường. Được sự
nhất trí của ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Quản Lý Tài Nguyên trường
Đại học Nông Lâm, em đã nghiên cứu đề tài: “
Ứng dụng khoa học phong thủy trong bố
trí nội thất và nhà ở nội đô phường Bắc Sơn- thành phố Hải Phòng
”.
Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tốt nghiệp tại phường Bắc Sơn
thành phố Hải Phòng đã hoàn thành. Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành
cảm ơn:
Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban Chủ nhiệm
khoa Quản Lí Tài Nguyên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cùng toàn thể
các thầy cô giáo trong khoa đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ cho em trong thời gian
học tập và rèn luyện tại trường.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo GS.TS. Nguyễn Thế Đặng.
Thầy đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn phòng Địa Chính và UBND phường Bắc Sơn

thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập cũng
như trong việc hoàn thành bản khoá luận này.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã luôn
cổ vũ, động viên em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Do trình độ bản thân còn hạn chế và thời gian có hạn, bước đầu làm quen với
thực tế và phương pháp nghiên cứu nên trong khoá luận không thể tránh khỏi những sai
sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để khoá luận
tốt nghiệp của em được hoàn chỉnh và sâu sắc hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hải Phòng, ngày tháng năm 2014
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hồng Mạnh

1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết sự tồn tại của con người bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tác
động của các yếu tố tự nhiên, con người và thiên nhiên luôn có một mối quan hệ
gắn bó mật thiết với nhau, địa thế và môi trường có ảnh hưởng trực tiếp và có ý
nghĩa quyết định đến đời sống của con người. Từ xa xưa, con người đã biết vận
dụng những kinh nghiệm sống để phù hợp với tự nhiên. Cụ thể là họ đã vận dụng
những hiểu biết của mình về tự nhiên vào việc xây dựng, chọn lựa nơi sinh sống. Những
kiến thức sống ấy trải qua hàng ngàn năm đã dần hình thành nên thuật phong thủy.
Thuật phong thủy là nghệ thuật vận dụng bố cục, sắp đặt, trang trí nhà cửa,
văn phòng công ty, cơ sở thương mại theo những nguyên tắc cụ thể khai thông và
hướng dẫn sinh khí làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, công việc làm ăn phát đạt.
Trong cuộc sống thực tế, chúng ta vẫn được thấy những trường hợp khác

nhau, người làm nhà xong thì ăn lên làm ra, thăng quan tiến chức, con cái đỗ đạt.
Ngược lại, người thì lụi bại, thất thế sa cơ, suy sụp sức khỏe…
Vậy để tránh được những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người cần
phải bố trí công trình, nhà ở, bố trí nội ngoại thất như thế nào thì mới phù hợp với
quy luật phong thủy? Môi trường cảnh quan xung quanh công trình, nhà ở có ảnh
hưởng như thế nào đến vận mệnh công trình, nhà ở và những người sống trong đó?
Ngày nay, hầu hết các gia đình trước khi bắt tay vào tiến hành việc xây nhà
đều tham khảo kỹ lưỡng về Phong thủy nhưng vẫn lúng túng trong việc thực
hiện đúng tuần tự các bước hoặc như người xưa nói rằng “lắm thầy nhiều ma”,
tức là quá nhiều lời khuyên Phong thủy, quá nhiều không gian cần tuân theo
một nguyên tắc nào đó nhằm mục đích đạt được sự hanh thông, đón tài đón
lộc…. Phong thủy đóng vai trò quan trọng trong xây dựng nhà ở nhưng chỉ áp
dụng đúng lúc đúng chỗ mới phát huy được tối đa lợi thế và ngược lại sẽ gây
bất tiện cho người sử dụng.

2
Phong thủy dù còn vẻ huyền bí nhưng rất thực tế và gần gũi với đời sống
con người, phong thủy sẽ giúp tạo ra một không gian sống tốt hơn, hài hòa hơn,
và tự nhiên hơn. Từ đó con người cảm thấy được bình an, thoải mái, viên mãn
tạo động lực giúp họ làm việc tốt hơn, thành đạt hơn, giàu có hơn, sống hạnh
phúc hơn.
Được sự phân công của ban chủ nhiệm Khoa Quản lý Tài nguyên, Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo GS.TS.
Nguyễn Thế Đặng, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Ứng dụng phong thủy
trong bố trí nội thất và nhà ở nội đô phường Bắc Sơn , Thành phố Hải Phòng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích được việc áp dụng Phong thủy trong lựa chọn đất và thế đất tốt.

- Khái quát được những lý luận cơ bản của Phong thủy áp dụng trong
xây dựng nhà ở và bố trí nội thất.

- Phân tích được việc áp dụng Phong thủy trong bố trí nhà ở nội đô và bố
trí nội thất hợp Phong thủy.
- Phân tích được ứng dụng phong thủy tron bố trí nội thất và nhà ở nội
đô phường Bắc Sơn, thành phố Hải Phòng.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Thu thập các tài liệu nghiên cứu về khoa học phong thủy.
- Nắm bắt được một số quy luật cơ bản của phong thủy trong xây dựng
nhà ở, công trình kiến trúc.
- Xác định rõ ảnh hưởng của việc xây dựng công trình nhà ở nội đô theo
phong thủy
- Ứng dụng Phong thủy trong xây dựng nhà ở nội đô.
- Ứng dụng Phong thủy trong cách bài trí nội thất ngoại thất.

3
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong học tập và nghiên cứu khoa học, giúp
cho người học tập nghiên cứu củng cố lại những kiến thức đã học, biết cách thực
hiện một đề tài khoa học và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Đối với thực tiễn, đề tài góp phần đề xuất các cách giúp chúng ta có được
một ngôi nhà như ý, vừa đảm bảo về mặt thẩm mỹ vừa đảm bảo hài hòa giữa thiên
nhiên và con người, đồng thời đón lành, tránh dữ.
Thấy được mức độ ảnh hưởng khi ứng dụng Phong thủy đến đời sống con người.

4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU



2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Khái niệm về phong thủy
Có rất nhiều nhà khoa học, kiến trúc sư, học giả… đã đưa ra khái niệm
về phong thủy, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính xác nào về
phong thủy là gì?
"Từ Hải" viết: "Phong Thuỷ, còn gọi là Kham Dư, một loại mê tín ở
nước Trung Quốc cổ. Cho rằng hình thể, hướng gió, dòng chảy xung quanh nhà
ở hoặc mồ mả, có thể đem lại họa, phúc cho người ở hoặc cho người chôn. Từ
đó chỉ cách xem nhà ở, phần mộ" (Hoàng Gia Ngôn – Qúy Long) .
"Từ Nguyên" viết: "Phong Thuỷ, chỉ địa thế, phương hướng đất nhà ở hoặc
đất phần mộ. Thời xa, mê tín căn cứ vào đó để xem lành giữ, tốt xấu và nhân sự".
Mới đây, Trường Ðại học Ðông Nam Trung Quốc xuất bản quyển "Nguồn gốc
Phong thuỷ", giáo sư Phan Cốc Tây trong lời tựa viết: "Nội dung chính của Phong
thủy là một loại học vấn mà người ta dùng để xử lý và chọn lựa hoàn cảnh ăn ở, cung
thất, chùa chiền, lăng mộ, thôn xóm. Phong Thuỷ và hoàn cảnh ăn ở, ảnh hưởng chủ
yếu trên ba mặt: Một, sự lựa chọn địa điểm, tức tìm một địa hình thỏa mãn cả hai mặt
tâm lý và sinh lý; Hai, xử lý về mặt hình thái trong cách bố trí, bao gồm lợi dụng và
cải tạo hoàn cảnh thiên nhiên, hướng nhà, vị trí, cao thấp to nhỏ, cửa ra vào, đường
đi, nguồn cấp nước, thoát nước…v.v ; Ba, trên cơ sở nói trên, thêm vào một dấu
hiệu, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý tránh cái dữ, lấy cái lành cho con người".
Học viện Dân tộc Trung Nguyên xuất bản cuốn "Tìm hiểu sự lành dữ trong
Phong Thuỷ nhà ở", tác giả trong "Lời nói đầu" viết: "Trong vốn kiến thức lâu đời
của Trung Quốc, có một môn học gọi là Kham Dư, thông thường gọi là Phong
Thuỷ. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của tác giả, thì cái gọi là
Phong thuỷ, nói theo ngôn ngữ hiện đại là "khoa học và mối quan hệ giữa từ trường

5
trái đất và con người". Về nội dung, môn Phong thuỷ gồm hai phần, phần một là
xem xét hình thái của núi, phần hai là xem xét phương và lý khí.
Học giả Rosk Kowski khoa địa lý trường Ðại học New Zealand là một

chuyên gia về nghiên cứu Phong Thuỷ, tác phẩm ông có "Mối quan hệ Phong thuỷ
giữa Văn hoá, thiên nhiên Triều Tiên", những năm gần đây nghiên cứu về Phong
thuỷ Trung Quốc, trong bài đăng trên tạp chí "Nghiên cứu lịch sử khoa học tự
nhiên" tháng 1 năm 1989, viết: "Phong Thuỷ là một hệ thống đánh giá cảnh quan
nhằm tìm một địa điểm tốt lành cho công trình kiến trúc. Nó là nghệ thuật lựa chọn
địa điểm và bố cục địa lý của Trung Quốc cổ đại, không thể căn cứ vào khái niệm
của phương Tây mà nói một cách đơn giản rằng là mê tín hay khoa học Phong
thuỷ Trung Quốc được xây dựng trên ba cơ sở: Một: địa điểm này có lợi cho xây
nhà hoặc xây phần mộ so với các địa điểm khác. Hai: Ðịa điểm tốt lành chỉ có thể
căn cứ vào những nguyên tắc Phong Thuỷ thông qua việc khảo sát địa điểm ấy mà
lựa chọn. Ba: Một khi đã có một địa điểm như thế, thì tổ tiên và con cháu sống hoặc
mai táng ở địa điểm ấy, sẽ được hưởng một sự tốt lành do địa điểm ấy mang lại"
(Trần Di Khôi).
Theo Ths. KTS Phan Đăng Trình, phong thủy là một hiện tượng văn hóa có
từ thời cổ đại, là thuật số đón lành, tránh dữ, phong tục dân gian lưu truyền sâu
rộng, là quan niệm về mối quan hệ giữa con người với môi trường. PGS. Lê Kiều
định nghĩa thì phong thủy là địa thế, địa hình, là đất và nước quanh ta. Phong thủy
là môi trường sống mà con người tồn tại trong đó. Phong thủy còn có nghĩa rộng là
những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, sao trời, vũ trụ trái đất, khí tượng, địa thế
làm nhà, đặt mồ mả nên phong thủy vừa gần gũi vừa xa lạ với con người…. Còn
KTS. Lý Thái Sơn thì đưa ra nhận định: Phong thủy là nơi đan xen nhiều chiều
(không chỉ về không gian địa lý, lịch sử, chủng tộc, dân tộc), phức tạp giữa các yếu
tố khoa học tự nhiên và kỹ thuật (kiến trúc, xây dựng, quy hoạch đô thị - nông thôn,
môi trường sinh thái, nghệ thuật tạo hình và tổ chức không gian) và khoa học xã hội
nhân văn (tâm lý cư trú cá nhân, cộng đồng tín ngưỡng dân tộc, cách tư duy, kiểu
sống) giữa vật thể và phi vật thể…

6
Có thể hiểu rằng: Phong thủy là học thuyết chuyên nghiệp nghiên cứu sự
ảnh hưởng của địa lý đến đời sống họa phúc của con người. Là sự ảnh hưởng

của hướng gió, khí, mạch nước đến mỗi cá nhân. Phong thủy có vai trò rất to
lớn, tuy nhiên nó chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ không làm thay ðổi hoàn
toàn vận mệnh.
Trên thực tế, phong thủy học chính là môn khoa học tự nhiên tổng
hợp nhiều ngành như địa lý, địa chất, khí tượng học, cảnh quan học, kiến trúc học,
sinh thái học và nhân thể học. Tôn chỉ của nó là khảo sát, tìm hiểu kĩ càng về môi
trường tự nhiên, thuận theo tự nhiên, sử dụng và cải tạo tự nhiên hợp lý, tạo ra môi
trường sinh sống tốt, được thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

2.1.2.
Nguồn gốc ra đời của khoa học phong thủy
Nguồn gốc phong thủy bí ẩn như chính tên gọi của nó. Thực ra cũng khó có
thể xác định chắc chắn rằng phong thủy xuất hiện từ bao giờ. Có lẽ là ngay từ khi
con người xuất hiện trên trái đất thì họ đã có tư duy về phong thủy. Tất nhiên vào
những thời kỳ còn nguyên thủy thì khái niệm phong thủy còn rất manh nha nhưng
chắc chắn con người đã tìm mọi cách để có thể thích ứng với thiên nhiên và mục
đích hòa hợp với tự nhiên vẫn là một trong những nội dung chính của phong
thủy cho đến ngày nay.
Đã có thời gian Phong thủy được đánh đồng với tôn giáo. Thậm chí bị coi là nhảm
nhí, là mê tín dị đoan cũng do cách giải thích thiếu hiểu biết của chính các thầy Phong
thủy, muốn thần thánh hóa, làm thần bí phức tạp thêm trong con mắt của gia chủ nhằm
trục lợi cho bản thân. Ngày nay, Phong thủy đã được coi là một đối tượng nghiên cứu khoa
học. Nhiều nước tiên tiến trên thế giới đã có những cơ quan nghiên cứu về Phong thủy.
Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu chính xác nào nghiên cứu về nguồn gốc ra đời của khoa
học phong thủy mà chỉ là những phỏng đoán theo tiến trình lịch sử của Trung Quốc là nơi
đã phát sinh khoa Phong thủy. Một trong những giả thuyết cho rằng khoa Phong thủy
ra đời cùng với thời gian mà người Trung Hoa khám phá ra đặc tính của nam châm
và sử dụng để làm la bàn tìm phương hướng, đó là thời gian mà người ta ước đoán
là khoảng năm 2600 trước Công Nguyên.


7
Bởi vậy, chúng ta chỉ lưu ý đến tiến trình của khoa Phong Thủy và những
người đã có công hoàn chỉnh bộ môn này với những dữ kiện có thể tin tưởng được.
Lão Tử, vị giáo chủ của đạo Lão, là nhân vật đầu tiên mà đa số những người tìm
hiểu về khoa Phong Thủy nghĩ rằng ông đã có công góp phần không ít cho bộ môn
này trong buổi sơ khai. Tuy không có một tài liệu chính xác nào lưu lại, nhưng
người ta tin tưởng Lão Tử đã dựa vào Kinh Dịch để đặt nền tảng cho khoa Phong
Thủy vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Bậc thầy thứ hai là Hồng Phạm,
trong thời nhà Hán, người đã lập ra hệ phái Cửu Tinh Bát Môn, dựa vào chòm sao
Đại Hùng Tinh là 7 sao có thật trên vòm trời mà hồi đó ông đã phát hiện được, cộng
thêm với hai sao tượng trưng là Tả Phù và Hữu Bật làm thành nhóm Cửu Tinh. Và
trong suốt thời Tam Quốc phân tranh, một người được xưng tụng với danh hiệu Vạn
Thế Biểu Sư chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng (181 - 234 sau Công Nguyên).
Ông là một chiến thuật, chiến lược gia kỳ tài và là một bậc tôn sư về môn Phong
Thủy, ông đã áp dụng những nguyên tắc căn bản của môn này vào lãnh vực binh bị,
như việc lập doanh trại, địa thế nơi đóng quân… làm cho khoa Phong Thủy được
người đời tin tưởng và nghiên cứu để học hỏi nhiều hơn.
Vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên, tức là những năm đầu của nhà
Hán cho đến thời Hán Sở tranh hùng, qua tài liệu khảo cổ, chúng ta thấy di tích một
vài tác phẩm nói về cách chôn cất và cách đặt mộ phần, tức là khoa Phong Thủy
Âm Trạch sau này. Nhưng tiếc thay, những tác phẩm nói trên đều viết bằng loại cổ
tự Trung Hoa, cách diễn tả khó hiểu và bị mất mát quá nhiều, lại thêm tình trạng
“tam sao thất bản”, nên người đời sau không thể dựa vào đó để tham khảo được gì.
Khoảng năm 618 sau Công Nguyên, tức là vào đời nhà Tần, đã xuất hiện
nhiều nhà Phong Thủy nổi tiếng, họ như những bậc tôn sư của thời đại, có công
hoàn chỉnh và phổ biến sâu rộng khoa học Phong Thủy trong nhân gian.
Và cũng từ thời điểm này, khoa học Phong Thủy chia ra làm nhiều hệ phái
như Cửu Tinh Bát Môn, Ngũ Hành Chính Thống, Huyền Không Ngũ Hành, Hồng
Phạm Ngũ Hành… và phân ra làm hai lãnh vực: Âm trạch, chủ về mộ phần và
Dương trạch, chủ về nhà cửa, cơ sở thương mại.



DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH

Bảng 4.1. Đông tứ và Tây tứ 31
Hình 2.1: Ngũ hành 11
Hình 2.2: Bát quái, phương vị 12
Hình 4.1. Phòng khách theo phong thủy 34
Hình 4.2: Ghế ngồi phòng khách 36
Hình 4.3: Tranh ảnh và vật dụng trong phòng khách 39
Hình 4.4: Phòng ngủ theo phong thủy 40
Hình 4.5: Giường ngủ 43
Hình 4.6: Nhà bếp 44
Hình 4.7: Bàn thờ 48
Hình 4.8 : Phòng thờ 49
Hình 4.9 : Người cung ly(9) 51
Hình 4.10: Nhà ông Nguyễn Hải Phong 51
Hình 4.11: Phòng khách của nhà ông Nguyễn Hải Phong 52
Hình 4.12: Phòng ngủ của vợ chồng ông Nguyễn Hải Phong 53
Hình 4.13: Phòng ngủ của Nguyễn Hải Huy 54
Hình 4.14: Nhà bếp của gia đình ông Nguyễn Hải Phong 54
Hình 4.15: Phòng thờ của gia đình ông Nguyễn Hải Phong 55
Hình 4.16: Nhà của ông Nguyễn Thái Bình 56
Hình 4.17: Người thuộc cung Khôn (2) 57
Hình 4.18 : Phòng khá

ch nhà ông Nguyễn Thái Bình 58
Hình 4.19 : Phòng ngủ của 2 vợ chồng ông Nguyễn Thái Bình 59
Hình 4.20 : Phòng ngủ của con trai ông Nguyễn Thái Bình 60
Hình 4.21 : Nhà bếp của gia đình ông Bình 60

Hình 4.22 : Phòng thờ nhà ông Bình 61
Hình 4.23 : Người cung ly(9) 62
Hình 4.24: Nhà ông Nguyễn Hải Quân 63
Hình 4.25: Phòng khách của nhà ông Nguyễn Hải Quân 64
Hình 4.26: Phòng ngủ của vợ chồng ông Nguyễn Hải Quân 65
Hình 4.27: Nhà bếp của gia đình ông Nguyễn Hải Quân 65
Hình 4.28: Phòng thờ của gia đình ông Nguyễn Hải Quân 66


9
không khí, khi gặp vật cản sẽ đổi hướng theo dòng khí. Khí gặp nước thì dừng
nghĩa là nước có khả năng giữ khí lại, khái niệm chuyên môn của phong thủy là “ tụ
khí”. Hay nói một cách khác mang tính hình tượng hơn là nước có khả năng hút khí,
hòa tan khí. Nước chảy chậm rãi, có chỗ dừng là rất tốt vì mang được khí tươi mới
đến và lưu lại ở đó. Đó là nguyên nhân để các chuyên gia phong thủy nhìn dòng
nước chảy để dự đoán khí vận trong lòng đất mà từ chuyên môn gọi là “long mạch”.
Tính chất của khí sẽ khác nhau tùy theo sự tụ thủy, sức mạnh yếu trong lưu thông
của dòng nước…. “ Khí” cần lưu động nhẹ nhàng, bình ổn mới có tác dụng tương
tác tốt. Dòng chảy hỗn tạp, chảy rối, dòng rối hay các dạng dòng chảy hẹp, vòi
phun, dòng xung kích đều không tốt, gây nguy hiểm.
Chúng ta có thể hình dung tính chất thủy khí động học của “khí phong thủy”
gần giống của nước, trừ tác dụng của trọng lực. Dòng nước chảy xiết, nước xoáy
mạnh cũng tạo ra xung khí, tạp khí. Nếu dòng nước bẩn thỉu hôi hám thì khí cũng sẽ
bị uế tạp, không còn mang được năng lượng sống cho con người nữa.
2.1.3.2. Âm dương
Học thuyết Âm Dương cho rằng mọi vật tồn tại và phát triển được đều do hai khí
âm dương vận động mà tạo thành. Âm Dương là hai mặt đối lập nhưng thống nhất trong
cùng một sự vật hiện tượng, mâu thuẫn nhau và chuyển hóa lẫn nhau không thể tách rời.
Đặc tính của Âm Dương luôn đối lập nhau. Dương là cứng, mạnh, quả quyết, màu sáng,
hướng lên. Âm là nhu thuận, mềm yếu, màu tối, hướng xuống.

Trong tự nhiên, mọi vật đều tồn tại ở hai trạng thái đối lập nhau như nóng với
lạnh, đen với trắng, ngày với đêm, họa với phúc…. Tuy mâu thuẫn nhưng lại có sự thống
nhất từ đầu đến cuối, dựa vào nhau mà tồn tại, cái này làm tiền đề cho cái kia.
Một quy luật trọng yếu của Âm Dương đó là “vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản”
có nghĩa là âm dương luôn vận động, cái này yếu thì cái kia mạnh lên. Khi Dương đến
cực điểm sẽ biến thành Âm, khi Âm đến cực điểm sẽ biến thành Dương. Âm Dương cân
bằng là thế tối ưu của sự vật, giúp cho sự vật phát triển ở mức độ tốt nhất.
Âm Dương chuyển hóa lẫn nhau, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm.
Trong ngành vật lư, người ta đã khám phá ra khi vật chất tan rã sẽ trở thành năng

10

lượng cũng chính là một hình thức khác của vật chất. Cũng vậy, trong môn phong
thủy, địa khí hay địa trường cũng nằm trong trạng thái biểu hiện bên ngoài bằng
những hình thái của vật chất như sông, núi, gò, rãnh…. Nhưng nó không ngừng vận
chuyển và tác động lên môi trường xung quanh. Điều đó giải thích tại sao mà có
những nơi chúng ta đến lại thấy thư thái trong lòng, có những nơi lại mang lại cho
chúng ta cảm giác sầu muộn hay bứt rứt.
Nguyên lý Âm Dương được người xưa diễn tả qua đồ hình mang tính triết
học và khái quát sâu sắc. Trong hình vẽ Âm Dương cho thấy: Vòng tròn thể hiện
Thái Cực, tức vũ trụ. Vũ trụ chia làm hai phần Âm và Dương hòa quyện vào nhau.
Âm màu đen nặng hướng xuống, Dương màu trắng nhẹ nổi lên trên. Trong Âm có
Dương và trong Dương có Âm thể hiện tính biện chứng của triết học Âm Dương.
2.1.3.3. Ngũ hành
Là sự hài hòa khí của con người với ngôi nhà: Khí gồm: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ.
Ngũ hành kết hợp với màu sắc, thời gian, mùa màng, phương hướng, các tinh
tú, phủ tạng để điều chỉnh khí của người.
Ngũ hành có 2 chu kỳ: chu kỳ hình thành và chu kỳ hủy diệt.
Học thuyết này ra đời trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm, những quan sát có

tính trực quan và do đó, nó có tính ứng dụng thực tiễn rất cao trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội Người ta dùng Ngũ hành để chia tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên
và xã hội (ngũ âm, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ nhạc, ngũ giác quan ). Trong thuật phong thủy,
các hình thể kể cả phương hướng, đất đai, sông núi đều được phân chia theo ngũ hành, sau
đó căn cứ sự sinh hay khắc của ngũ hành để quyết định cát hung.
Học thuyết ngũ hành sau khi ra đời và hoàn thiện kết hợp với học thuyết âm
dương nên thường được gọi chung là học thuyết Âm dương - Ngũ hành.

11


Hình 2.1: Ngũ hành
2.1.3.4. Bát quái
Trong Phong thủy, một không gian có 8 góc và 8 cặp tam quái gọi là bát
quái, được dùng để chuẩn đoán các sự bất cân xứng trong môi trường và đời sống,
từ đó cải thiện sức khỏe, hạnh phúc và thịnh vượng. Khi thiết kế, phải xem xét
những góc không bình thường của một ngôi nhà để có giải phá xử lý thoát đáng
nhằm tạo sự cân bằng và hài hòa giữa chủ nhân và ngôi nhà.
Theo cổ nhân xưa, lúc đầu vũ trụ chỉ là 1 khối hỗn độn, không có hình dạng
rõ ràng gọi là thời hỗn mang. Trong sự hỗn mang đó, vũ trụ còn chưa có sự định
hình và phân chia được gọi là Thái Cực. Sở dĩ gọi là Thái Cực bởi vì nó huyền bí và
vô tận nên không thể xác định rõ ràng trạng thái của nó ra sao.
Biến hóa là biểu hiện bên ngoài của Thái Cực mà đạo Dịch căn cứ sự biến hóa
của vũ trụ và vạn vật. Do đó Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hóa (Dịch) một cách
khái quát như sau: “Dịch hữu Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng,
Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái sinh Ngũ Hành”: Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái
Cực, Thái Cực sinh ra 2 Nghi (Âm và Dương), hai Nghi sinh ra 4 Tượng (Huyền Vũ,
Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ), bốn Tượng sinh ra 8 Quẻ (Càn, Khảm, Cấn, Chấn,
Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Tám quẻ sinh ra 5 Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Như vậy ta


12

có thể hiểu, tám quẻ của Bát Quái tượng trưng cho 8 trạng thái khác nhau của Âm
Dương trong quá trình hình thành Vũ trụ và mọi vật. (Hoàng Yến).
2.1.3.5. Phương vị phong thủy
Trong phong thủy thường chia ra 24 phương vị, tổng cộng giác độ của 24
phương vị là 360
0,
chia đều ra thành 24 phần, mỗi phương vị là 15
0
.Vậy 24 phương
vị trong phong thủy còn gọi là “Nhị thập tứ sơn phương vị”, lấy tám thiên can
“Canh, tân, nhâm, quý, giáp, ất, bính, đinh” cộng với 12 địa chi “Tý, sửu, dần, mão,
thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi” và 4 quẻ “Kiền, Khôn, Cấn, Tốn” mà thành,
dựa theo chiều kim đồng hồ sắp xếp như hình vẽ:

Hình 2.2: Bát quái, phương vị
2.1.4. Bản chất khoa học của phong thủy
Phong thủy học là một bộ môn khoa học cổ, đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc
trong lịch sử phát triển của các dân tộc ở phương Đông, nay lan truyền sang cả
phương Tây.
Phong thủy đã và đang trở thành phong tục, tập quán sinh hoạt, phương thức
tư duy, lòng tin, ý thức trầm tích ở trong mỗi người dân, mỗi quần thể tộc người ở
phương Đông.
Phong thủy giúp nâng cao hiểu biết của mọi người về môi trường sống tự
nhiên và từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống.


MỤC LỤC


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Yêu cầu của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu 3
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4
2.1.1. Khái niệm về phong thủy 4
2.1.2.
Nguồn gốc ra đời của khoa học phong thủy 6
2.1.3. Một số khái niệm căn bản trong phong thủy 8
2.1.3.1. Khí 8
2.1.3.2. Âm dương 9
2.1.3.3. Ngũ hành 10
2.1.3.4. Bát quái 11
2.1.3.5. Phương vị phong thủy 12
2.1.4. Bản chất khoa học của phong thủy 12
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 13
2.2.1. Thuật phong thủy trên thế giới 13
2.2.2. Thuật phong thủy ở Trung Quốc 15
2.2.3. Thuật phong thủy tại Việt Nam 17
2.3. Ứng dụng phong thủy trong bài trí nhà ở, công trình xây dựng, cảnh quan 20
2.3.1. Ứng dụng Phong thủy trong bài trí nhà ở 20
2.3.1.1. Môi trường xung quanh 20
2.3.1.2. Chú ý đến diện tích nhà 20
2.3.1.3. Hình dạng của phòng 21

14


hoàn cảnh” của một thầy thuốc vô danh vào trong văn tập của mình. Sách này coi
hoàn cảnh là một hệ thống chế ước mối quan hệ tương hỗ của sự tồn tại của xã hội,
luận chứng mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Một học giả cổ Hy Lạp khác
là Olympia (208-126 trước Công nguyên) rất coi trọng chí học, coi thủy văn hoặc
núi non là nhân tố chủ đạo của vùng, căn cứ vào đất đai màu mỡ hoặc khô cằn mà
nhận xét tính cách ôn hòa hoặc thô bạo của cư dân. Một học giả Hy Lạp là Acranist
(190-150 trước Công nguyên) đã viết tác phẩm “Hồng Hải”. Đây là một trước tác về
Địa lý học giữa con người và hoàn cảnh. Thông qua nghiên cứu về con sông, trình bày
về phân tích mối quan hệ giữa con người và dòng sông qua nghiên cứu về các bộ lạc sở
tại. Ông nêu con người muốn sinh tồn phải thích ứng với hoàn cảnh, ví dụ, cư dân vùng
ven biển đất đai lồi lõm (Hồng Hải) chọn cửa hàng phía Bắc là để tránh nóng.
Tại Mỹ, dân chúng Mỹ ngày càng tin vào thuyết phong thủy. Trong ngành
kiến trúc, một bộ môn học mới cũng được hình thành. Xây nhà ở, mở cửa hàng đều
phải chọn hướng, địa thế. Từ điển kinh doanh Mỹ đã có một thuật ngữ mới: Feng
Shui - phong thủy, đọc theo âm tiếng Trung Hoa. Báo chí Mỹ cũng đăng tải nhiều
bài về thuật phong thủy. Một loạt các cuốn sách xuất hiện như : “Thuật phong thủy
- nhà khoa học trong nhà bạn” của giáo sư Đại học Northwest John Govert ; “Nhà
thiết kế với phong thủy” của Sarah Rossbach và nữ kiến trúc sư Robin Lennon với
cuốn “Kiến tạo căn nhà cho trái tim bạn”. Riêng tại bang California, thành phố
Gardena cũng có cả hàng chục ngàn cư dân theo thuyết phong thủy, bắt đầu là
người Mỹ gốc châu á, rồi đến cả người Mỹ chính gốc, là siêu sao Hollywood hay
người mẫu thời trang cũng sùng thuyết phong thủy, đến nỗi theo sự tư vấn của
chuyên gia phong thủy, hay gọi là thầy địa lý Angi Ma Wong, một nhà quản lý, ông
Mitch Lansdell, mỗi khi có cuộc gọi quan trọng, ông ta phải xoay ghế ngồi đối diện
với góc Ðông Bắc của văn phòng mình hay đánh dấu cửa để ra vào, xếp sách vở tư
liệu kinh doanh vào góc hướng Ðông Nam. Thuật Phong Thủy đã trở thành một
ngành kinh doanh. Hầu như các hãng xây dựng và trang trí nội thất ở Mỹ đều lập
văn phòng nghiên cứu thuật này. Khách hàng có thể gọi điện đến yêu cầu giúp đỡ.
Các chuyên gia thuật phong thủy sử dụng kỹ thuật hiện đại như máy Fax, máy quay


15

video để làm việc. Giá cho mỗi dịch vụ về Phong thủy từ 2-3 giờ là 350-450 đôla.
Thông thường khách hàng sẽ được hướng dẫn tuân theo những nguyên tắc sau: Ba
vật trong nhà quan trọng nhất là giường, bàn làm việc và bếp lò. Phải đặt chúng sao
cho kín đáo để khách lạ đến nhà bước vào cửa mắt không bao giờ thấy chúng. Các
chỗ ngồi trong phòng khách phải kê sao cho khách dễ dàng trò chuyện. Chính cách
sắp xếp đặt ghế ngồi làm cho phòng khách của mình trở nên mời mọc và hấp dẫn
khách đến chơi thường xuyên (Nguyễn Bích Hằng – Nguyễn Viết Dần – Nguyễn
Khắc Minh).
2.2.2. Thuật phong thủy ở Trung Quốc
Trung Quốc là cái nôi của thuật Phong thủy. Người Trung Hoa luôn tin
tưởng địa lý có sự tương quan ảnh hưởng mật thiết đến đời sống con người hơn cả
áo cơm, do đó có câu “Sống vì mồ mả, không ai sống vì cả chén cơm”.
Kinh đô của triều Minh, Yên Sơn, án ngữ giữa dòng khí của núi Côn Lôn.
Thái Sơn, “Thanh Long” ở bên trái; Hoa Sơn, “Bạch Hổ” ở bên phải; và Tùng Sơn
tạo nên những rặng núi che chở ở phía sau. Thật vậy các kinh đô và cung điện của
các triều đại Trung Hoa đều được thiết kế tuân theo các nguyên lý phong thuỷ, như
Tử Cấm Thành được xây dựng vào Triều Minh và tái thiết vào Triều Thanh tuân thủ
chặt chẽ theo các quy tắc của phép xem địa lý. Hoàng cung này cân xứng với việc
định hướng Bắc – Nam và cổng chính đối diện hướng Nam. Việc định hướng Nam
mang tính thích hợp hơn vì gió thổi từ Mông Cổ đến mang nhiều bụi cát vàng và rất
lạnh. Người ta tránh bố trí các cửa sổ ở các hướng bắc và cách xây dựng như thế đã
trở nên phổ biến. Thậm chí ngày nay, nhiều ngôi nhà Bắc Kinh đều không có cửa sổ
hay mở các cửa khác ra hướng bắc. Toàn bộ Tử Cấm Thành được bao bọc bởi một
hệ thống hào khiến cho nước có thể chảy qua cổng chính và lối vào. Cách thiết kế
xây dựng có mô hình như thế vì theo quan điểm của người Trung Hoa, nước tượng
trưng cho của cải. (Nước chảy qua cửa chính có nghĩa là nhận được nhiều của cải).
Thêm vào đó, Thái Hoà Ðiện, Trung Hoà Ðiện và các phần còn lại của Hoàng Cung

đều có giả sơn ở phía sau để tạo ra Phong thuỷ tốt. Phía sau trong trường hợp này có
nghĩa là che chở, đặc biệt chống lại gió và lạnh. Thái Hoà Môn, cửa vào chính cung,

16

được chủ đích bố trí theo phía trước suối Hoàng Thuỷ. Cổng này có chín hàng cột
(số 9 tượng trưng cho trường thọ). Tổng thể Hoàng Cung có lối trang trí bằng màu
sắc và hoạ tiết mang ý nghĩa tốt, Rồng (biểu tượng dương), ngọc trai (biểu tượng
âm), các con thú bốn chân và hoa được tạo ra và trang trí trên các mái nhà và bức
tường như là các biểu tượng của may mắn và thành công. Toàn bộ khung cảnh và
cách bố trí của cung Mùa Hè cũng dựa trên các nguyên lý Phong Thuỷ. Cung điện
này được xây dựng hướng ra hồ Côn Minh trên một mặt dốc có đồi ở phía bắc đóng
vai trò như điểm tựa ở phía sau lưng (Nguyễn Bích Hằng – Nguyễn Viết Dần –
Nguyễn Khắc Minh)
Trung Quốc là một quốc gia đa dân tộc. Thuật phong thủy vốn là một tập tục
của người Hán nhưng khi thâm nhập vào các dân tộc khác thì cũng có những nét
độc đáo riêng. Tộc Choang ở Quảng Tây rất yêu cái đẹp, rất chú ý đến phong thủy.
Họ xây nhà kiểu có lan can, dựa núi kề nước, lưng quay hướng Bắc, mặt ngoảnh về
Nam hoặc quay lưng về Tây, quay mặt về Đông, sân bãi phía trước rộng rãi, suối
chảy róc rách, từng căn nhà nhỏ ẩn hiện trong rừng trúc xanh. Người tộc Dao ở giữa
Kiềm - Quế thịnh hành tục chém áo quan mai táng. Trước khi chôn, thầy mo tế
huyệt, sau khi áo quan hạ huyệt, thầy mo đọc thần chú, tay cầm dao dựa chém ba
nhát trên áo quan ở trái, phải và giữa, tỏ ý linh hồn người chết đã bỏ nhà, bỏ trại, bỏ
người đời. Mộ đắp hình tròn hoặc chữ nhật, trên nấm trồng cọc tiêu. Tộc Miêu ở
phương Tây có tập tục đốt mộ. Trước khi hạ huyệt đốt bằng dầu gọi là sưởi ấm
huyệt. Sau đó nhà phong thủy vẽ hình bát quái trong huyệt thả một con gà trống
xuống huyệt và cho mổ gạo để đoán sự lành dữ đối với chủ nhà.
Ngày nay, việc xem phong thủy trở thành một việc làm phổ biến đối với
người Trung Quốc. Những con số thống kê đã đưa ra kết quả đáng kinh ngạc. Ở
Hồng Kông, một kiến trúc sư cao cấp được đào tạo ở Luân Ðôn công tác ở Viện

Công trình công cộng công bố sáu thị trấn mới ở vùng lãnh thổ mới có 1,8 triệu dân
được thiết kế theo nguyên lý Phong thủy. Vào năm 1981, một bản báo cáo mới thấy
các ông chủ thuộc địa Hồng Kông đã chi hơn 1,5 triệu đôla Hồng Kông cho việc
xem địa lý khi di dời mộ của tổ tiên đến các địa điểm khác. Vào năm 1985, tờ The

17

Star tuờng trình một nguời đàn ông bị bệnh tâm thần ở Cửu Long đã giết bốn đứa
trẻ và làm bị thương hơn 30 nguời ở nhà trẻ, thầy Phong thủy cho rằng nguyên nhân
là do cột khói công nghiệp huớng thẳng vào nhà trẻ, ống khói đó trông giống như
que nhang đốt lúc tang lễ.
2.2.3. Thuật phong thủy tại Việt Nam
Theo các nhà nghiên cứu, thuật phong thủy đã được truyền vào nước ta và
phát triển vào thế kỷ thứ 17. Khoa địa lý Việt do danh sư Tả Ao và Hòa Chính
truyền đạt qua nhiều đời.
Tả Ao là người thứ nhất học được khoa địa lý chính tông và là nhà địa lý giỏi
nhất Việt Nam xưa kia. Ông tên là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà nghèo, sinh vào thời Lê-Trịnh, mồ côi cha từ nhỏ,
mẹ lòa, anh ruột cũng nghèo. Ông là người có hiếu đã học làm thuốc chữa cho mẹ
khỏi lòa và chữa cho một thầy địa lý khỏi đau mắt gần mù, rồi được thầy truyền cho
khoa địa lý chính tông. Tương truyền, ông không truyền nghề địa lý này cho ai
nhưng ông có làm hai văn bản dạy địa lý được các đời sau in thành sách. Một là tập
Địa đạo diễn ca có 120 câu văn vần, hai là tập Dã đàm Tả Ao bằng văn xuôi. Các
thầy địa lý ở nước ta cho đây là hai tập sách rất tốt. Nó xuất phát từ môn địa lý
chính tông, đi từ căn bản chú trọng tìm cho thấy Long Châu huyệt đích, sau đến
phần chi tiết nói thêm những điều phụ vào phần văn bản. Người nước ta thời xưa rất
thích hai tập sách này vì một lẽ, dễ đọc, dễ hiểu, dễ tiếp thu và dễ thực hành hơn là
những sách du nhập từ Trung Hoa sang, rất rắc rối, mông lung, khó hiểu.
Hòa Chính là một thầy địa lý được Trịnh Sâm cho sang Trung Quốc học,
thành tài. Lúc về, ông có viết sách, chưa được in nên nay chỉ có những bản thảo sao

chép lại, không chắc có đúng nguyên văn của ông không. Sau khi Trịnh Sâm muốn
cướp ngôi nhà Lê sai ông đặt hướng và xây lại thành Cổ Loa để thành một đế đô,
ông không làm, bị chúa Trịnh đổ chì nóng, mù cả hai mắt và bị chết.
* Phong thủy trong kiến trúc kinh thành Huế
Theo lẽ tự nhiên, kiến trúc kinh thành phải là một mẫu mực theo thuật phong
thủy bởi lẽ việc lựa chọn địa điểm và xây dựng thành ấp của vua chúa là hết sức


2.3.1.4. Chú ý đến ánh sáng 21
2.3.1.5. Chú ý đến màu sắc 21
2.3.1.6. Chú ý đến ban công và cửa 22
2.3.2. Ứng dụng phong thủy trong bố trí công trình xây dựng 22
2.3.3. Ứng dụng phong thủy trong bố trí cảnh quan 23
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 25
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 25
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 25
3.3. Nội dung nghiên cứu 25
3.4. Phương pháp nghiên cứu 26
3.4.1. Phương pháp kế thừa tài liệu 26
3.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa 26
PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 27
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn ngiên cứu 27
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 27
4.1.2. Các nguồn tài nguyên 27
4.1.3. Thực trạng cảnh quan môi trường 27
4.1.4. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 28
4.1.5. An ninh quốc phòng 29
4.2. Khoa học phong thủy trong bố trí công trình nhà ở nội đô 30

4.2.1. Chọn chất đất và thế đất 30
4.2.2. Lựa chọn hướng nhà 31
4.2.2.1. Trạch mệnh tương phối 31
4.2.2.2. Cách tìm quẻ mệnh 32
4.2.3. Bố trí cổng nhà và cửa nhà 32
4.2.3.1. Cổng 32
4.2.3.2. Cửa 33

×