ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÝ THỊ THẢO
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC XÂY DỰNG KHU TÁI ĐỊNH CƯ
THỦY ĐIỆN NA HANG TẠI XÃ KHUÔN HÀ HUYỆN LÂM
BÌNH TỈNH TUYÊN QUANG”
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Địa chính Môi trường
Khoa : Quản lý Tài nguyên
Khoá học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: THS. NGUYỄN ĐÌNH THI
Khoa Môi trường – Trường Đại học Nông Lâm
THÁI NGUYÊN - 2014
63
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tế”.
Thực tập tốt nghiệp là thời gian để mỗi sinh viên sau khi học tập, nghiên cứu tại
trường có điều kiện củng cố và vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Đây là giai
đoạn không thể thiếu được đối với mỗi sinh viên các trường đại học nói chung và
sinh viên Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng.
Trong quá trình học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp em đã nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô giáo, các cán bộ tại nơi thực tập cùng
gia đình, và bạn bè.
Với lòng kính trọng và biết ơn, em xin gửi lời cảm ơn đến thầy giáo ThS.
Nguyễn Đình Thi, đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm Khoa Quản lý tài
nguyên Trường Đại học Nông Lâm cùng toàn thể các thầy cô giáo đã dạy dỗ, quan
tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn đến ban lãnh đạo, các cán bộ tại Phòng Tài nguyên và
Môi trường, các cơ quan ban ngành có liên quan đã giúp đỡ em trong quá trình học
tập và viết khóa luận.
Với trình độ và thời gian có hạn, do kinh nghiệm còn thiếu và kiến thức còn hạn
chế nên bài báo cáo này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để bài đề tài được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chúc toàn thể các thầy cô giáo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc
và thành công trong sự nghiệp giảng dạy cũng như trong quá trình nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái nguyên, ngày 25 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Lý Thị Thảo
64
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ, cụm từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 CT Công trình
2 ĐVT Đơn vị tính
3 GTNT Giao thông nông thôn
4 KCN Khu công nghiệp
5 KL Khối lượng
6 TĐC Tái định cư
7 THCS Trung học cơ sở
8 THPT Trung học phổ thông
9 UBND Ủy ban nhân dân
10 XKLĐ Xuất khẩu lao động
65
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Tình hình dân số và lao động tại xã Khuôn Hà, huyện Lâm Bình, tỉnh
Tuyên Quang giai đoạn 2011 - 2013 27
Bảng 4.2. Tổng hợp kết quả di chuyển tiếp nhận các hộ di dân TĐC 31
Tại xã Khuôn Hà 31
Bảng 4.3. Tổng hợp tình hình sử dụng vốn đầu tư của các dự án tái định cư tại xã
Khuôn Hà 37
Bảng 4.4. Tổng hợp dân số tại các điểm tái định cư tại Xã Khuôn Hà 38
Bảng 4.5. Tổng hợp trình độ học vấn của người lao động khu tái định cư tại Xã
Khuôn Hà 39
Bảng 4.6. Tổng hợp mức thu nhập bình quân/ hộ/ năm của người dân tái định cư tại
xã Khuôn Hà 40
Bảng 4.7. Tổng hợp đầu tư quỹ đất ở bổ sung các khu, điểm tái định cư tại xã
Khuôn Hà 45
Bảng 4.8. Khả năng chuyển đổi lao động từ sản xuất nông nghiệp sang nghề phi
nông nghiệp xã Khuôn Hà 48
Bảng 4.9. Nhu cầu bổ sung công trình giao thông tại xã Khuôn Hà 50
Bảng 4.10. Nhu cầu đầu tư bổ sung công trình thủy lợi tại xã Khuôn Hà 51
Bảng 4.11. Nhu cầu bổ sung công trình kiến trúc tại xã Khuôn Hà 52
Bảng 4.12. Tổng vốn đầu tư cần bổ sung xây dựng khu tái định cư tại xã Khuôn Hà
53
66
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Yêu cầu của đề tài 3
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập 3
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Tình hình bồi thường, hỗ trợ di dân tái định cư trên thế giới 4
2.1.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất của
một số tổ chức quốc tế. 4
2.1.2. Tình hình bồi thường hỗ trợ tái định cư ở một số nước trên thế giới 5
2.2. Chính sách bồi thường hỗ trợ tái định cư ở Việt Nam 9
2.2.1. Khái quát chung 9
2.2.2. Chính sách Pháp luật có liên quan tới công tác bồi thường, hỗ trợ tái
định cư để xây dựng các công trình thủy điện 10
2.2.3. Khái quát về dự án thủy điện Tuyên Quang và thực trạng đời sống việc
làm người dân bị thu hồi đất trước khi thực hiện dự án 16
2.2.4. Khái quát công tác thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ di dân và tái định cư
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang 19
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 21
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 21
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 21
3.3. Nội dung nghiên cứu 21
67
3.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội 21
3.3.2. Kết quả xây dựng khu tái định cư 21
3.3.3. Đánh giá thực trạng công tác xây dựng khu tái định cư tại xã Khuôn Hà
21
3.3.4. Thuận lợi, khó khăn, đề xuất giải pháp khắc phục 21
3.4. Phương pháp nghiên cứu 22
3.4.1 Phương pháp thu thập số liệu 22
3.4.2. Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu điều tra 22
3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 22
PHẦN 4: KẾT QỦA NGHIÊN CỨU 23
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Khuôn Hà 23
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 23
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội. 25
4.2. Thực trạng về việc triển khai công tác di dân tái định cư của thủy điện Na Hang
tại xã Khuôn Hà 30
4.2.1. Xây dựng khu tái định cư 30
4.2.2. Kết quả di chuyển dân 30
4.2.3. Kết quả giao đất ở 31
4.2.4. Kết quả giao đất sản xuất 32
4.2.5. Kết quả hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ tái định cư 33
4.2.6. Kết quả đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng 34
4.2.7. Kinh phí đầu tư xây dựng dự án tái định cư 36
4.3. Đánh giá thực trạng quy hoạch các khu tái định cư tại xã khuôn Hà 37
4.3.1. Thực trạng về dân số và việc làm 37
4.3.2. Thực trạng sản xuất và thu nhập 40
4.3.3. Kết quả tổng hợp ý kiến người dân tái định cư về nhu cầu hỗ trợ tái
định cư bổ sung 41
4.3.4. Những thuận lợi, khó khăn của công tác xây dựng khu tái định cư tại
xã Khuôn Hà 42
68
4.4. Đề xuất một số biện pháp bổ sung tiếp tục đầu tư ổn định đời sống 44
4.4.1. Giải pháp đầu tư bổ sung quỹ đất ở 44
4.4.2. Giải pháp bổ sung đất sản xuất nông nghiệp 45
4.4.3. Giải pháp bổ sung quỹ đất lâm nghiệp 46
4.4.4. Giải pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp sản xuất phi nông nghiệp 47
4.4.5. Hỗ trợ đầu tư bổ sung để ổn định đời sống theo chính sách 49
4.4.6. Giải pháp đầu tư bổ sung hệ thống kết cấu hạ tầng 49
4.4.7. Tổng vốn đầu tư bổ sung để thực hiện dự án 52
PHẦN 5: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 55
5.1. Kết luận 55
5.2. Kiến nghị 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn lực to lớn để phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện
đại hóa đất nước. Nước ta hiện nay đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước nên tất yếu phải chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp
sang mục đích đất phi nông nghiệp.
Nhà nước thực hiện thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô
thị, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, các
dự án xây dựng nhà máy thủy điện đòi hỏi phải thu hồi một diện tích đất rất lớn
với tính chất đặc thù của công trình thủy điện là được xây dựng chủ yếu ở các
khu vực thuộc địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống theo cộng đồng, mỗi dân tộc có một phong tục tập quán
riêng, nên việc thu hồi đất sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề về kinh tế xã hội cũng
như ảnh hưởng tới lối sống của người dân bản địa.
Dự án xây dựng nhà máy thủy điện Tuyên Quang (thủy điện Na Hang)
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 288/QĐ-TTg ngày 19
tháng 04 năm 2003, bắt đầu triển khai xây dựng từ năm 2003 trên sông Gâm
thuộc địa bàn huyện Na Hang tỉnh Tuyên Quang, công trình hoàn thành đưa vào
khai thác năm 2007. Nhiệm vụ chính của dự án xây dựng Thủy điện là cung cấp
điện năng phục vụ cho người dân tại địa bàn tỉnh Tuyên Quang đồng và cung
cấp nguồn điện cho cả nước đồng thời thời góp phần chống lũ vào mùa mưa và
cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp về mùa khô cho vùng hạ du.
Để hoàn thành xây dựng công trình thủy điện đòi hỏi phải có mặt bằng
để xây dựng, nhu cầu về đất cho xây dựng là rất lớn. Để có đất cho việc xây
2
dựng trên cần phải di dời và tái định cư người dân vùng lòng hồ. Đến nay cơ
bản đã hoàn thành công tác di đân tái định cư, bước đầu cuộc sống của người
dân đã được ổn định. Tuy nhiên người dân khu tái định cư vẫn còn gặp nhiều
khó khăn vì nhiều nguyên nhân, các nguyên nhân chủ yếu như: chuyển đến
nơi ở mới còn thiếu tư liệu sản xuất, phong tục tập quán tại nơi đến tái định
cư khác với nơi họ từng sinh sống, trong khi đó số hộ nghèo cao, điều này ảnh
hưởng không nhỏ tới mục tiêu của dự án.
Hiện tại, tỉnh Tuyên Quang đang triển khai thực hiện quy hoạch điều chỉnh,
bổ sung Quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư của Dự án thủy điện Tuyên Quang
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1766/QĐ-TTg ngày 10
tháng 10 năm 2011. Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của phương án Quy
hoạch điều chỉnh, cần phải có những nghiên cứu, đánh giá, nhìn nhận lại một cách
khách quan, toàn diện các mặt của dự án tái định cư, đồng thời chỉ ra những tồn
tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại và đưa ra giải pháp cụ thể để khắc
phục, đảm bảo đủ các điều kiện để người dân tái định cư công trình thủy điện
Tuyên Quang tại xã Khuôn Hà ổn định chỗ ở và đời sống, trên cơ sở khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Xuất phát từ những vấn đề trên, được sự nhất trí của Ban giám hiệu trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa Quản lý Tài nguyên cùng với sự hướng
dẫn của: ThS. Nguyễn Đình Thi em thực hiện đề tài: “Đánh giá công tác xây
dựng khu tái định cư thủy điện Na Hang tại xã Khuôn Hà huyện Lâm Bình
tỉnh Tuyên Quang”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá thực trạng đời sống, việc làm, thu nhập của người dân tái định cư
xã Khuôn Hà.
Đánh giá kết quả thực hiện xây dựng khu tái định cư xã Khuôn Hà.
3
Đề xuất một số giải pháp có tính khoa học phù hợp với thực tế góp phần
nâng cao đời sống của hộ dân tái định cư và hiệu quả xây dựng khu tái định
cư tại xã Khuôn Hà.
1.3. Yêu cầu của đề tài
Nắm vững chính sách pháp luật về đất đai, môi trường và các lĩnh vực
có liên quan.
Công tác điều tra thu thập tài liệu, số liệu phải đầy đủ, chính xác, trung
thực, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng.
Xác định đúng đối tượng, đúng mục đích, phạm vi cần nghiên cứu từ đó
đánh giá những tồn tại khó khăn tìm ra nguyên nhân để đưa ra những giải
pháp nhằm tháo gỡ khó khăn.
Đưa ra các giải pháp phải phù hợp với địa phương và có tính khả thi cao.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập
Nâng cao năng lực, rèn luyện kỹ năng, vận dụng được những kiến thức
đã học vào thực tiễn.
Tìm hiểu nắm vững kiến thức thực tế thực hiện chính sách hỗ trợ tái định cư.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc nghiên cứu về công tác xây dựng khu tái định cư nhằm tìm ra
thuận lợi, khó khăn, đề xuất các giải pháp phù hợp cho công tác xây dựng, ổn
định đời sống người dân.
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình bồi thường, hỗ trợ di dân tái định cư trên thế giới
2.1.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất
của một số tổ chức quốc tế
2.1.1.1. Ngân hàng thế giới (WB)
Ngân hàng thế giới (WB) là tổ chức đầu tiên đưa ra chính sách tái định
cư không tự nguyện, và từng bước, nghiên cứu phát triển (chu kỳ 4 năm).
Năm 1980, WB đưa ra Chính sách chung cho tái định cư không tự nguyện
trong Bản hướng dẫn hoạt động về những vấn đề xã hội trong tái định cư
không tự nguyện trong các dự án do WB đầu tư. Năm 2004, WB đưa ra bản
hướng dẫn hoạt động về tái định cư không tự nguyện. Chính sách tái định cư
không tự nguyện của WB dựa trên nguyên tắc lựa chọn phương án tái định cư
ít nhất và có sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ, đại diện của những
người thiệt hại vào thiết kế, khai thác, theo dõi giám sát quá trình công việc
tái định cư.[8]
2.1.1.2. Chính sách bồi thường khi thu hồi đất của các ngân hàng Mỹ, Ngân
hàng Châu Á và ngân hàng phát triển Châu Phi
Tiếp theo chính sách tái định cư không tự nguyện được các ngân hàng
khu vực đưa ra như: Ngân hàng phát triển liên Mỹ (Inter Americal
Development Bank - IDB) 1993; Ngân hàng phát triển Châu Á - ADB( 1995);
Sổ tay tái định cư (1998); Ngân hàng phát triển Châu Phi (1995).[8]
2.1.1.3. Các tổ chức quốc tế khác
Năm 1990, một số tổ chức quốc tế như: Trung tâm Liên hiệp quốc tế về
định cư (United Nation Center of Human Settlement/Habitats); Ủy ban Liên
hiệp quốc tế về quyền con người (UNCHR); Tổ chức Nông Lương thế giới
5
(FAO) đã tập chung nghiên cứu vấn đề thu hồi đất - chỗ ở bắt buộc; năm 1997
UNCHR đưa ra hướng dẫn thực tiễn thu hồi đất - chỗ ở bắt buộc. Đặc điểm
chung của các chính sách này là nguyên tắc chia sẻ lợi ích giữa các bên liên
quan đến dự án, chi phối từ pháp luật, chính sách, quy hoạch, thu nhập, thuế ở
tầm quốc gia đối với việc triển khai trên thực tế có liên quan đến chính quyền
địa phương, nhà đầu tư, cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng và người dân bị thiệt
hại với những vấn đề chủ yếu như: Tổ chức tốt việc tái định cư cộng đồng dân
cư bị ảnh hưởng và người dân bị thiệt hại gắn với môi trường sống, việc làm,
sinh hoạt cộng đồng liên quan đến tập quán, văn hóa, tâm linh; Bảo đảm
quyền hưởng lợi của địa phương, cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng và người
dân bị thiệt hại từ thuế, phí, giá ưu đãi mua sản phẩm của dự án; Sự gắn kết
lâu dài giữa dự án và cộng đồng dân cư địa phương nhằm đảm bảo tự chủ,
bình đẳng giữa hai bên với sự gắn kết quyền lợi lâu dài.
Nguyên tắc chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan đến dự án đã được áp
dụng trong nhiều dự án đã triển khai ở các nước trên thế giới, đặc biệt các dự
án thủy điện.
[8]
2.1.2. Tình hình bồi thường hỗ trợ tái định cư ở một số nước trên thế giới
2.1.2.1. Trung Quốc
Trung Quốc thi hành chế độ công hữu hóa xã hội chủ nghĩa về đất đai,
gồm hai loại: Đất đô thị thuộc sở hữu nhà nước; đất nông thôn, ngoại thành,
ngoại thị thuộc sở hữu tập thể. Hiến pháp lần sửa đổi mới nhất năm 2005 quy
định: Quốc gia do sự cần thiết vì lợi ích công cộng có thể căn cứ vào pháp luật
mà trưng thu hay trưng dụng đất đai và trả bồi thường. Các nhà làm luật giải
thích rằng trưng thu áp dụng đối với đất thuộc sở hữu tập thể do phải chuyển
quyền sở hữu tập thể sang sở hữu nhà nước, còn trưng dụng thì áp dụng đối với
đất thuộc sở hữu nhà nước vì chỉ thay đổi mục đích sử dụng đất.
6
Luật đất đai ra đời năm 1986, đã qua nhiều lần sửa đổi bổ sung vào các
năm 1988, 1998 và 2004, chia đất đai thành đất nông dụng, đất dùng vào xây
dựng (kiến thiết) và đất chưa lợi dụng. Luật quy định mọi đơn vị và cá nhân
khi cần đất đai để tiến hành xây dựng thì phải căn cứ vào pháp luật mà xin sử
dụng đất thuộc sở hữu của nhà nước, trừ trường hợp xây dựng nhà ở nông
thôn, cơ sở hạ tầng và công ích hương trấn. Nếu Nhà nước chấp nhận đề nghị
đó thì trưng dụng đất thuộc sở hữu nhà nước để cung ứng (trong một số
trường hợp thì gọi là thu hồi quyền sử dụng đất), nếu không có hoặc không đủ
loại đất này thì trưng thu đất thuộc sở hữu tập thể để chuyển đổi thành đất
thuộc sở hữu nhà nước.
Trung Quốc rất coi trọng việc bảo vệ đất canh tác, đặc biệt là “đất ruộng
cơ bản” đã được chính quyền xác định dùng vào sản xuất lương thực, bông,
dầu ăn, rau hoặc đã có công trình thủy lợi tốt trên đó. Luật còn quy định cụ
thể đất ruộng cơ bản phải chiếm 80% trở lên đất canh tác của mỗi tỉnh. Cấm
không được chiếm dụng đất canh tác để xây lò gạch, mồ mả hoặc tự ý xây
nhà, đào lấy đất cát, khai thác đá, quặng, Việc trưng thu Đất ruộng cơ bản;
đất canh tác vượt quá 35 ha; đất khác vượt quá 70 ha phải được Quốc vụ viện
phê chuẩn. Trưng thu các đất khác do chính quyền cấp tỉnh phê chuẩn rồi báo
cáo Quốc vụ viện.
Khi trưng thu đất đai thì phải bồi thường theo hiện trạng sử dụng đất, tiền
trợ giúp an cư tính theo số nhân khẩu của hộ gia đình và tiền hoa màu. Tiền bồi
thường đất bằng 6 - 10 lần, còn tổng số tiền trợ giúp an cư tối đa không quá 15
lần giá trị trung bình sản lượng hàng năm của 3 năm trước trưng thu.
Đối với đất thuộc sở hữu của nhà nước, khi nhu cầu đất vì lợi ích công
cộng để cải tạo các khu đô thị cũ đã được cấp có thẩm quyền phê chuẩn thì
được thu hồi quyền sử dụng đất có bồi thường. Khi đó để thu hồi đất buộc
phải di dời nhà cửa, vì vậy năm 1991 Quốc vụ viện ban hành điều lệ quản lý
7
di dời nhà cửa đô thị, đến năm 2001 thì thay bằng Điều lệ mới. Theo điều lệ
này thì bên di dời phải bồi thường về nhà cửa cho bên bị di dời bằng tiền tính
theo giá thị trường hoặc bằng cách chuyển đổi tài sản. Không bồi thường nhà
xây trái phép hoặc nhà tạm đã hết hạn.[9]
2.1.2.2. Pháp
Trong số các nước phát triển Pháp là nước được coi có thể chế trưng
thu chi tiết và hoàn chỉnh nhất và Pháp đã áp dụng rộng rãi thể chế này khi
thực hiện các dự án có mục đích vì lợi ích công cộng. Trong luật pháp của
Pháp nguyên tắc sở hữu tài sản là một nguyên tắc bất khả xâm phạm và
thiêng liêng, không ai có thể lấy đi trừ khi vì sự cần thiết công cộng được
pháp luật xác nhận và yêu cầu, đồng thời với điều kiện có sự bồi thường
công bằng và trả trước.
Thủ tục trưng thu của Pháp được quy định trong luật sau nhiều lần sửa
đổi và bổ sung đến nay có thể tóm tắt như sau: trước tiên bên có nhu cầu thực
hiện dự án vì lợi ích công cộng nộp hồ sơ cho tỉnh trưởng. Tỉnh trưởng sẽ bổ
nhiệm một điều tra viên hoặc một hội đồng điều tra để tiến hành điều tra sơ bộ
và chỉ rõ đối tượng, thời gian điều tra (không ít hơn 15 ngày), đồng thời thông
báo trên báo chí, cách thức để công chúng tìm hiểu, nêu ý kiến về hồ sơ dự
án. Thông thường chi phí điều tra do bên chủ dự án chịu. Tiếp đó trên cơ sở
kết quả điều tra được trình lên tỉnh trưởng sẽ thông báo lại kết quả đó cho chủ
dự án, tòa án hành chính và cũng gửi nó cho tất cả các xã, phường liên quan.
Chậm nhất là một năm sau khi kết thúc điều tra sơ bộ, tùy từng trường hợp
theo luật định, sẽ ra tuyên bố về lợi ích công cộng của dự án và tỉnh trưởng ra
quyết định về tính khả nhượng của các tài sản có trong danh mục trưng thu,
chuyển quyết định đó ra tòa án. Khi đã có lệnh của tòa, chủ sở hữu không
được chuyển nhượng, thế chấp tài sản nhưng vẫn hưởng lợi và chỉ chuyển
giao tài sản trưng thu sau khi nhận được tiền bồi thường. Sau đó, chủ dự án
8
thông báo dự kiến về mức độ bồi thường và mời các bên bị trưng thu cho biết
yêu cầu của họ trong vòng 15 ngày. Hai bên có thời gian một tháng để xử lý
những bất đồng, nếu không thống nhất được thì mức bồi thường sẽ do tòa án
quyết định, có nêu rõ khoản bồi thường chính, các khoản bồi thường phụ (như
việc làm, di chuyển, hoa màu, kinh doanh, ), cơ sở của việc tính toán. Những
khoản bồi thường này sẽ phải trả đầy đủ tính theo giá trong ngày ra lệnh trưng
thu và chủ dự án phải trả chi phí xác định mức bồi thường của quan tòa.[9]
2.1.2.3. Đài Loan
Đài Loan là một quần đảo nhỏ 36.000 km
2
nằm trên vịnh Bắc Bộ. Sớm
nhận thức được hạn chế của mình là đất chật người đông tài nguyên khoáng sản
nghèo nàn mức độ phụ thuộc của nề kinh tế vào ngoại thương rất lớn nên ngay
từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX các nhà hoạch định chính sách của Đài
Loan đã xác định muốn tồn tại và phát triển được thì Đài Loan phải xây dựng
mô hình kinh tế theo “cơ chế hướng ngoại” và phát triển công nghiệp. Công tác
xây dựng quy hoach phát triển các Khu công nghiệp ở Đài Loan được tổ chức rất
khoa học và chặt chẽ. Quy hoạch xây dựng và phát triển Khu công nghiệp của
Đài Loan không phải cố định mà thường xuyên được kiểm tra và đánh giá lại về
tính phù hợp giữa quy hoạch và thực tế nhất là những vấn đề liên quan đến môi
trường để kịp thời điều chỉnh bổ sung. Theo quy định hiện nay việc kiểm tra
đánh giá được tiến hành 3 năm một lần.
Việc quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp của Đài Loan luôn tuân
theo nguyên tắc là khai thác và sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của từng
vùng và đất nước hạn chế sử dụng đất nông nghiệp vào việc phát triển các khu
công nghiệp. Vì vậy, rất nhiều khu công nghiệp ở Đài Loan được xây dựng ở
những vùng đất cằn cối hoặc lấn đất biển. Việc xây dựng các khu công nghiệp ở
những nơi này không chỉ tiết kiệm được được quỹ đất nông nghiệp vốn rất khan
hiếm của Đài Loan mà còn giảm thiểu được các chi phí về đền bù giải phóng
9
mặt bằng và có điều kiện để xây dựng ngay từ đầu một hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ và hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.[9]
2.1.2.4. Hàn Quốc
Vào những năm 70 của thế kỷ trước, trước tình trạng di dân ồ ạt từ các
vùng nông thôn và đô thị, thủ đô Xơ-un đã phải đối mặt với tình trạng thiếu đất
định cư trầm trọng trong thành phố. Để giải quyết nhà ở cho dân nhập cư, chính
quyền thành phố phải tiến hành thu hồi đất nông dân vùng phụ cận. Việc đền bù
được thực hiện thông qua các công cụ chính sách như hỗ trợ tài chính, cho quyền
mua căn hộ do thành phố quản lý và chính sách tái định cư.
Các hộ bị thu hồi đất có quyền mua hoặc nhận các căn hộ do thành phố
quản lý, được xây tại khu đất được thu hồi có bán kính cách Xơ-un khoảng 5
km. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, khi thị trường bất động sản bùng nổ,
hầu hết các hộ có quyền mua căn hộ có thể bán lại quyền mua căn hộ của mình
với giá cao hơn nhiều lần so với giá gốc.[9]
2.2. Chính sách bồi thường hỗ trợ tái định cư ở Việt Nam
2.2.1. Khái quát chung
2.21.1. Thu hồi đất
Là nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất đã giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, và cộng đồng dân cư
quản lý theo quy định của phát luật.[7]
2.2.1.2. Bồi thường đất
Bồi thường là khi Nhà nước thu hồi đất là Nhà nước trả lại giá trị quyền
sử dụng đất đối với diện tích bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.[7]
2.2.1.3. Hỗ trợ
Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di chuyển
đến địa điểm mới, hỗ trợ sản xuất, ổn định đời sống.[7]
10
2.2.1.4. Tái định cư
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để
sinh sống và sản xuất. Qua nghiên cứu chính sách bồi thường hỗ trợ và tái
định cư của Việt Nam qua các thời kỳ cho thấy vấn đề bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư đã được đặt ra từ rất sớm, các chính sách đều xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn và được điều chỉnh tích cực để phù hợp hơn với sự phát
triển của đất nước. Trên thực tế các chính sách đó đã có tác dụng tích cực
trong việc đảm bảo sự ổn định trong phát triển, khuyến khích đầu tư và giữ
nguyên tắc công bằng.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư và công tác
quy hoạch xây dựng khu tái định cư diễn ra rất chậm, chưa hiệu quả, còn
nhiều vướng mắc gây khiếu kiện trong nhân dân làm ảnh hưởng đến tiến độ
đầu tư, triển khai dự án.
Việc bồi thường thiệt hại nhìn chung cơ bản các địa phương đã áp dụng
chính sách tại thời điểm thu hồi Nhà nước chỉ bồi thường về giá trị đất và tài
sản trên đất còn cuộc sống của người dân bị mất đất sau khi thu hồi thì chưa
được quan tâm.[7]
2.2.2. Chính sách Pháp luật có liên quan tới công tác bồi thường, hỗ trợ tái
định cư để xây dựng các công trình thủy điện
2.2.2.1. Trước những năm 1993
Ngày 14/04/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 151-
TTg quy định tạm thời về trưng dụng ruộng đất với nội dung chủ yếu sau:
- Về việc bồi thường thiệt hại do đất gây nên phải bồi thường hai khoản: Về
đất thì bồi thường từ 1 đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng đất bị trưng thu.
- Đối với đất hoa màu thì bồi thường đúng mức.
- Đối với nhà cửa, vật kiến trúc và các công trình phục vụ sinh hoạt
được giúp đỡ xây dựng cái khác.
11
- Ngoài ra, mồ mả thì căn cứ vào tình hình cụ thể về phong tục tập quán
của địa phương mà giúp họ một số tiền làm phí tổn di chuyển.
Những nguyên tắc cơ bản của việc bồi thường thiệt hại tại Nghị định
này đáp ứng nhu cầu trưng dụng đất đai trong những năm 1960 cho đến khi
Hiến pháp 1980 ra đời.
Luật đất đai 1988 ban hành quy định về bồi thường cũng cơ bản dựa
trên những quy định tại Hiến pháp 1980.[8]
Ngày 31/05/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số
186/HĐBT về việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi bị
chuyển mục đích sử dụng vào mục đích khác thì phải bồi thường.[6] Căn cứ
để tình bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp và đất có rừng theo quyết định
này là diện tích, chất lượng và vị trí đất. UBND các tỉnh, thành phố quy định
mức bồi thường thiệt hại của địa phương mình sát với giá đất thực tế của địa
phương nhưng không thấp hơn hoặc cao hơn khung giá định mức. Tổ chức, cá
nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp, đất có rừng cho nhà nước. Khoản
tiền này được nộp vào ngân sách Nhà nước và sử dụng vào việc khai hoang,
phục hóa, trồng rừng cải tạo đất nông nghiệp, ổn định cuộc sống, định canh,
định cư cho vùng bị lấy đất.[8]
Quan niệm việc đền bù, tái định cư cho người dân khi Nhà nước thu hồi
đất xây dựng các công trình thủy điện cũng như các công trình phục vụ lợi ích
quốc gia khác chủ yếu dựa trên quan niệm đất đai là tài sản quốc gia, nên
trong trường hợp cần thiết Nhà nước thu hồi đất không nhất thiết đền bù cho
dân mà chỉ hỗ trợ một phần. Nếu có chỉ đền bù cho chính quyền địa phương
hay tập thể đang sử dụng đất về các tài sản bị thiệt hại theo sự thỏa thuận. Khi
xây dựng các công trình thủy điện Thác Bà, Hòa Bình hàng chục vạn đồng
bào các dân tộc đã hi sinh quyền lợi của mình đóng góp cho sự phát triển của
12
quốc gia. Trong thời gian này có ba văn bản liên quan đến việc hỗ trợ cho
người sử dụng đất khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất là:
- Nghị định số 151/CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14
tháng 4 năm 1959 về “thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất” là văn bản
pháp quy liên quan đến việc trưng dụng ruộng đất của nhân dân cho việc xây
dựng những công trình do nhà nước quản lý.[1]
- Thông tư số 1792-TTg ban hành ngày 11 tháng 01 năm 1970 quy định một
số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai cây cối lưu niên, các hoa màu cho
nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố.
- Quyết định số 186/HDBT của Hội đồng bộ trưởng ban hành ngày 31 tháng
5 năm 1990 về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử
dụng vào mục đích khác đã đưa ra căn cứ để tính mức đền bù thiệt hại về đất nông
nghiệp và đất có rừng theo diện tích, chất lượng và vị trí của đất. Hơn nữa mức đền
bù còn được phân biệt theo thời hạn sử dụng lâu dài hay tạm thời.[6]
Có thể thấy thời kỳ này đất đai chưa được thừa nhận là có giá nên chính
sách bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều hạn chế, thể hiện trong cách
tính giá trị bồi thường, phương thức thực hiện. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
khách quan và công bằng thì những chính sách này cũng đã đóng góp một vai
trò tích cực trong giải phóng mặt bằng để có quỹ đất cho nhu cầu xây dựng và
phát triển các công trình quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng của đất nước.
2.2.2.2. Từ năm 1993 đến nay
Để cụ thể hóa các quy định của Luật đất đai, Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản có liên quan trực tiếp đến hoạt động thu hồi đất hoặc là cơ sở
cho việc tính toán để thực hiện việc đền bù cho các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân bị thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất:
13
- Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 quy định việc giao đất
nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích
sản xuất nông nghiệp. Đây là tài liệu cơ bản nhất về chính sách nông nghiệp
hiện hành quy định việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân trong
khi hạn chế tối đa việc phân bổ lại đất bằng cách cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho hầu hết những người đang sử dụng đất.[3]
- Nghị định số 87/CP ngày 17 tháng 08 năm 1993 quy định khung giá
các loại đất và phân loại đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp. Việc tính thuế đất
dựa trên việc phân chia theo vị trí đồng bằng, trung du, miền núi. Dựa vào
khung giá đất này, Ủy ban nhân dân các tỉnh quy định giá đất cho việc đền bù
khi Nhà nước thu hồi đất và giá này có thể được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
điều chỉnh cho phù hợp với thực tế biến động của giá cả thị trường đất.[2]
- Thông tư số 05-BXD/TT ngày 09 tháng 02 năm 1993, là phân cấp nhà
ở với mục đích đánh giá mức thuế, đền bù và bán công trình, Chính phủ Việt
Nam đã xác lập một hệ thống về phân cấp nhà cửa. Đây là cơ sở để các tỉnh
tính toán xây dựng đơn giá đền bù cho vật kiến trúc bị ảnh hưởng.
- Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 08 năm 1994, đây là nghị định đầu tiên
của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Trong giai đoạn này,
cùng với việc phát triển cơ sở hạ tầng, việc thu hồi đất của người dân có tác động
lớn đến kinh tế - xã hội, những Nghị định này mới chỉ chú trọng đến việc đền bù
thiệt hại khi thu hồi đất mà chưa đề cập đầy đủ đến việc tái định cư.
- Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm 1998 về việc đền bù
thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng thay thế Nghị định 90/CP, trong đó quy định các đự
án có thu hồi đất ở và đất sản xuất phải lập khu tái định cư để đảm bảo những người
bị ảnh hưởng có thể ổn định đời sống và ổn định thu nhập.[4]
14
Nội dung chính của Nghị định số 22/1998/NĐ-CP liên quan đến công
tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư gồm: Quy định đền bù thiệt hại về đất, điều
kiện được đền bù đất, khung giá đất; Quy định đền bù thiệt hại về tài sản gắn
liền với đất: cây trồng, vật kiến trúc, nhà ở, di chuyển mồ mả, công trình văn
hóa, di tích lịch sử, ; Quy định về khu tái định cư: quỹ đất xây dựng khu tái
định cư, quy hoạch xây dựng điểm dân cư, hệ thống kết cấu hạ tầng, ; Quy
định về hỗ trợ tái định cư: hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ lương
thực, y tế, giáo dục, hỗ trợ gia đình chính sách, thưởng di chuyển đúng tiến
độ; Tổ chức tái định cư: vai trò của chủ đầu tư, chính quyền địa phương, hộ
dân phải di chuyển. Nghị định số 22/1998/NĐ-CP cung cấp chi tiết hơn về
kiểm đếm tài sản, phương pháp và mức đền bù, cách thức nhận đền bù và tổ
chức thực hiện, quy định giá đất đền bù được tính theo giá của địa phương
ban hành nhân với hệ số k. Hệ số “K” là hệ số quan hệ tỉ lệ giữa giá đất tính
theo khả năng sinh lợi hoặc giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế với
giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Nghị định số 22/1998/NĐ-CP
là căn cứ pháp lý chính thức để xây dựng các bản Quy định tạm thời và chính
thức cho việc triển khai công tác tái định cư của các dự án thủy điện.[4]
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP đã có nhiều cải thiện như các quy định ở
trên. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện đã cho thấy một số hạn chế: Đơn giá
do Ủy ban nhân dân các tỉnh xây dựng để thực hiện đền bù đối với đất, các
loại tài sản bị thiệt hại của người dân như nhà cửa, đất đai, nhất là đất thổ cư
thường thấp hơn giá thị trường; Các chính sách hỗ trợ chủ yếu tập chung vào
ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu tái định cư mà chưa chú ý tới hỗ trợ
sản xuất và phục hồi thu nhập.
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày
01 tháng 07 năm 2004, riêng về đền bù, hỗ trợ tái định cư có ba điểm mới so
với Luật đất đai trước đó về bồi thường là: Khung đơn giá, chính sách về tái
15
định cư và hạn chế quy mô giải phóng mặt bằng. Trong Luật đất đai 2003 từ
điều 38 đến điều 45 trình bày về nội dung thu hồi đất, đền bù và tái định cư.
Nội dung của điều 42 nói về việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị
thu hồi. Khi Nhà nước thu hồi đất, người sử dụng đất có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định thì được bồi thường. Người bị thu hồi đất sẽ được bồi
thường bằng đất có mục đích sử dụng hoặc bằng giá trị quyền sử dụng đất.
Nếu phải di chuyển chỗ ở sẽ được bố trí vào khu tái định cư có điều kiện phát
triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Trường hợp thu hồi đất của các hộ dân trực
tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì
ngoài việc bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được hỗ trợ để ổn
định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới.[7]
Tuy nhiên, những chính sách trên còn có nhiều hạn chế đặc biệt là với đối
tượng tái định cư ở các công trình thủy điện. Về phạm vi áp dụng: việc thu hồi đất
để xây dựng các công trình thủy điện chiếm một diện tích lớn đất đai, gồm cả đất ở
và đất canh tác, số lượng dân cư di dời lớn, tập chung có tính chất đặc thù nên áp
dụng các chính sách trên là chưa phù hợp; Về đối tượng đền bù thiệt hại và điều
kiện để được đền bù về đất: quy định tính hợp pháp của đất đai của chủ sở hữu.
Điều này sẽ gây khó khăn cho dồng bào miền núi, dân tộc vì đất đai của họ mới
trong quá trình được hợp pháp hóa, chưa đủ các thủ tục. Hơn nữa việc sở hữu đất
truyền thống, tấp quán du canh cũng làm khó khăn hơn việc xác định tính pháp lý
của đất đai để thực hiện đền bù.
Trên thực tế, nảy sinh nhiều vướng mắc trong công tác thống kê, kiểm
kê và đền bù không đầy đủ, dẫn đến khiếu kiện; các yếu tố tự nhiên kinh tế,
xã hội theo đặc thù từng vùng, nhóm dân tộc chưa được tính toán đầy đủ, cân
nhắc trước khi đưa ra các chính sách cụ thể và phương án tái định cư, tạo lập
môi trường sống mới để đảm bảo yếu tố phù hợp đối với các cộng đồng dân
16
cư; lập khu tái định cư; các Nghị định của Chính phủ chưa hướng dẫn cụ thể
về mặt tiêu chí quy mô cũng như các tiêu chuẩn đối với việc quy hoạch thiết
kế xây dựng khu tái định cư, dẫn đến không thống nhất giữa các dự án; quy
định về xây dựng các khu tái định cư ở miền núi theo tiêu chuẩn nông thôn
(400m
2
đất ở/hộ) là chưa phù hợp với đặc điểm, tập quán sinh sống của người
dân; giá đất để tính đền bù thiệt hại chỉ quy định mục đích sử dụng đất và số
lượng chứ không quy định về tính ngang bằng chất lượng đất đền bù cho dân.
Hầu hết người dân phải tiếp nhận diện tích đất ít hơn nhiều so với diện tích
đất họ đã có trước đó; chính sách hỗ trợ còn thấp và chưa đủ để người dân ổn
định được cuộc sống.[5]
2.2.3. Khái quát về dự án thủy điện Tuyên Quang và thực trạng đời sống
việc làm người dân bị thu hồi đất trước khi thực hiện dự án
2.2.3.1. Khái quát về dự án thủy điện Tuyên Quang
Dự án đầu tư xây dựng công trình nhà máy thủy điện Tuyên Quang
được khởi công xây dựng năm 2003 theo Quyết định số 288/QĐ-TTg ngày 19
tháng 04 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ. Công trình được xây dựng trên
sông Gâm thuộc địa bàn Na Hang tỉnh Tuyên Quang; đập của công trình là
đập đá đổ đầm nén bản mặt bê tông cốt thép được xây dựng đầu tiên ở Việt
Nam, đập cao gần 100m.
Nhà máy thủy điện Tuyên Quang là một trong những công trình trọng
điểm của đất nước được thi công tại huyện Na Hang tỉnh Tuyên Quang với
tổng vốn đầu tư 7.500 tỷ đồng. Công trình này do tổng công ty Điện lực Việt
Nam (EVN) làm chủ đầu tư và tổng công ty Sông Đà thực hiện thi công.
Công trình được xây dựng dưới hình thức tổng thầu EPC (đơn vị trúng thầu
vừa thiết kế, vừa thi công và mua sắm, lắp đặt trang thiết bị). Đây là nhà máy
thủy điện có công suất lớn thứ ba của miền Bắc sau nhà máy thủy điện Sơn
La và Hòa Bình. Sau khi hoàn thành, dung tích hồ chứa nước từ 1.000 triệu
17
đến 1.500 triệu m
2
để phòng chống lũ cho thành phố Tuyên Quang và tham
gia vào giảm lũ đồng bằng sông Hồng, tạo nguồn cấp nước mùa khô cho đồng
bằng sông Hồng; nhà máy cung cấp cho lưới điện Quốc gia với công lắp đặt
342 MW, sản lượng điện trung bình hàng năm 1.295 KWh. Với lưu vực rộng
lớn 14.972 km
2
gồm của sông Gâm, sông Lăng và hồ Ba Bể, lại có cột nước
thấp, công trình thủy điện Na Hang có ưu thế lớn với công suất thiết kế.
2.2.3.2. Mục tiêu, yêu cầu di dân tái định cư của dự án
Mục tiêu
Di dân, tái định cư Dự án thủy điện Tuyên Quang phải tạo được các
điều kiện thuận lợi để đồng bào tái định cư có đời sống tốt hơn nơi ở cũ, dựa
trên cơ sở khai thác tiềm năng về tài nguyên và sức lao động, từng bước thay
đổi cơ cấu kinh tế phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, đời sống vật chất,
tinh thần của người dân tái định cư, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh theo hướng tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng, an
ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.
Yêu cầu
Công tác di dân tái định cư phải được các cấp, các ngành, mặt trận tổ quốc
và các đoàn thể phối hợp chặt chẽ để tổ chức thực hiện theo phương châm:
Trung ương quy định cơ chế, chính sách chung; tỉnh cụ thể hóa và triển khai
thực hiện.
Tái định cư trong vùng, trong tỉnh là chính thực hiện các hình thức tái định
cư khác nhau: tái định cư tập chung nông thôn, tái định cư đô thị, tái định cư xen
ghép và tái định cư tự nguyện di chuyển, phù hợp với các điều kiện cho sản xuất,
phong tục, tập quán và nguyện vọng của đồng bào các dân tộc nơi đi cũng như
nơi đến. Khuyến khích đồng bào tự di chuyển nhà cũ, tự xây dựng nhà ở tại nơi
tái định cư theo quy hoạch và khuyến khích hình thức tái định cư xen ghép. Di
18
dân, tái định cư cần coi trọng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, sự đoàn
kết giữa người dân tái định cư và người dân sở tại.
Đến năm 2007 hoàn thành việc bồi thường, di chuyển và tái định cư các
hộ gia đình và cá nhân thuộc đối tượng di dân tái định cư; bồi thường và xây
dựng lại kết cấu hạ tầng, công trình kiến trúc - văn hóa xã hội của các tổ chức,
đơn vị trong mặt bằng thi công và vùng ngập hồ chứa thủy điện.
Số dân phải di chuyển và phương án tạo lập các điểm TĐC
Số dân phải di chuyển: Tổng số dân phải di chuyển là 4.821 hộ, với 23.630
nhân khẩu (trong đó: tỉnh Tuyên Quang 4.139 hộ, với 20.138 khẩu thuộc 88 thôn,
bản; tỉnh Hà Giang 624 hộ, với 3.172 khẩu; tỉnh Bắc Kạn 58 hộ, với 320 khẩu); có
04 xã phải di chuyển 100% số thôn bản. Số dân bố trí tại điểm tái định cư là 4.310
hộ, 21.163 khẩu (trong đó: tỉnh Tuyên Quang 4.099 hộ, với 19.980; tỉnh Hà Giang
153 hộ, với 863 khẩu; tỉnh Bắc Kạn 58 hộ, với 320 khẩu). Số hộ tái định cư tự di
chuyển là 511 hộ với 2.467 khẩu. Người dân bị thu hồi đất chủ yếu là đồng bào các
dân tộc thiểu số, cụ thể: Tày 54,8%; Dao 29,2%, H Mông 5,8% còn lại là Kinh
10,25%. Nghề nghiệp chủ yếu là sản xuất nông nghiệp chiếm 92%.
Tổng số có 4.139 căn nhà với tổng diện tích là 323.700 m
2
và 6.016 mồ
mả phải di chuyển. Ngoài ra còn thiệt hại lớn về cây trồng, vật nuôi trên đất bị
thu hồi, các công trình giao thông, trường học và các công trình công cộng khác.
Phương án tạo quỹ đất lập khu, điểm TĐC: Quỹ đất lập khu, điểm tái định
cư được hình thành chủ yếu từ việc khai hoang mở rộng diện tích; chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa người dân sở tại với người dân tái định cư và từ
quỹ đất chưa sử dụng tại địa bàn 04 huyện của tỉnh Tuyên quang.
Về diện tích đất giao cho các hộ tái định cư nông nghiệp từ 200 - 400
m
2
/hộ; hộ tái định cư phi nông nghiệp từ 150 - 200 m
2
/hộ; đất sản xuất nông
nghiệp giao cho từng hộ tái định cư tùy thuộc vào quỹ đất của từng vùng tái định
cư, được quy định cụ thể.