1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VŨ TIẾN DŨNG
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN TỚI
NĂNG SUẤT VÀ DƯ LƯỢNG NO
3
-
TRONG ĐẬU TRẠCH
TẠI THÁI NGUYÊN
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Khoa : Nông học
Khoá : 2010 - 2014
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thúy Hà
Thái Nguyên, 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp giữ vai trò quan trọng đối với sinh vên trongquá
trình học tập. Đây là giai đoạn giúp sinh viên làm quen với thực tiễn, nâng
cao chuyên môn và kinh nghiệm để khi ra trường là một cán bộ khoa học
đáp ứng được mọi nhu cầu đòi hỏi của xã hội phát triển.
Được sự nhất trí của nhà trường, của khoa Nông Học em đã tiến
hành thực tập với đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón tới năng
suất và dư lượng NO
3
-
trong đậu trạch tại Thái Nguyên” và được tiến
hành vào vụ đông năm 2013.
Để có được kết quả như ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn
sâu sắc tới ban giám hiệu nhà trường, ban chủ nhiệm khoa Nông Học, các
thầy giáo, cô giáo, cùng toàn bộ các bạn sinh viên trong và ngoài lớp. Đặc
biệt là nhờ sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thúy Hà đã tận
tình giúp đỡ em vượt qua những bỡ ngỡ, khó khăn trong suốt thời gian thực
tập để em hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Do khả năng và thời gian có hạn nên đề tài của em còn nhiều thiếu
sót. Em rất mong các thầy, cô và các bạn góp ý để em hoàn thành tốt
khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 29 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Vũ Tiến Dũng
3
MỤC LỤC
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 2008 – 2012
13 8
Bảng 2.7: Ngưỡng giới hạn hàm lượng NO-3 trong rau tươi của FAO, 1993
18 8
Bảng 4.1: Tình hình thời tiết vụ Đông xuân 2013 tại Thái Nguyên
34 8
Bảng 4.5: Ảnh hưởng của hàm lượng đạm tới tốc độ ra lá của cây đậu trạch
40 8
Bảng 4.11: Sơ bộ hạch toán kinh tế (Triệu đồng/ha)
47 8
Phần 1 1
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
Xuất phát từ những vấn đề trên và để đấp ứng cho nhu cầu của thực tiễn sản xuất,
để góp phần vào việc tìm hiểu, nâng cao hiệu quả sử dụng của phân bón nói
chung và phân đạm nói riêng tôi được giao nhiệm vụ tiến hành đề tài “Ảnh
hưởng của liều lượng đạm đến năng suất và dư lượng nitrat (NO
3
-
) trong đậu
trạch tại Thái nguyên”. 2
1.2.3. Ý nghĩa 3
Phần 2 4
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học 4
2.1. Giá trị của cây rau 5
2.1.1. Giá trị dinh dưỡng 5
2.1.2. Giá trị kinh tế 10
2.1.3. Giá trị khác 10
2.2. Vai trò của phân bón trong sản xuất nông nghiệp 11
Bằng kinh nghiệm sản xuất của mình nông dân Việt Nam đã đúc kết “ nhất nước,
nhì phân, tam cần, tứ giống”. Câu nông giao trên đã khẳng định vai trò của phân
bón trong hệ thống liên hoàn tăng năng suất cây trồng. Phân hóa học không chỉ
có nhiệm vụ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng sinh trưởng và phát triển mà còn
có tác dụng tăng chất hưu cơ cho đất thông qua việc làm tăng sinh khối cây
trồng. Toàn bộ sinh khối nếu được trả lại cho đất, độ phì của đất sẽ được ổn định
và nâng cao dần. Trong mấy thập kỷ vừa qua năng suất cây trồng đã không
4
ngừng tăng lên, ngoài vai trò của giống mới, phân bón cũng có vai trò quyết định.
Giống mới chỉ có thể phát huy được tiềm năng, cho năng suất cao nhất khi được
bón đầy đủ và hợp lí. FAO đã tổng kết bón phân không cân đối làm giảm hiệu
suất sử dụng 20-50%. Kết quả trong thí nghiệm và mô hình ở nước ta trong mấy
năm qua cho thấy nếu NPK cân đối so với chỉ bón đạm, năng suất lúa trên đất
bạc màu có thể tăng 100 – 200%. Nhờ có phân bón mà phẩm chất nông sản được
nâng cao. Bón phân không cân đối làm giảm chất lượng nông sản. Bón phân
cũng làm thay đổi thành phần hóa học của hạt, việc bón phân thừa hay thiếu đạm
làm giảm tỷ lệ vitamin B. 11
Kết quả nghiên cứu đánh giá của Viện Dinh dưỡng cây trồng quốc tế (IPNI) cho
thấy, phân bón đã làm tăng năng suất cây trồng, giúp gia tăng khoảng 30-35%
tổng sản lượng nông sản toàn thế giới. Những loại phân bón được sử dụng đúng
sẽ phát huy được những ưu thế: nguồn bổ sung dinh dưỡng cho đất đai, giúp tạo
ra năng suất cao trong trồng trọt, tạo ra các sản phẩm nông sản chất lượng. 11
* Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 13
Việt Nam là nước đứng thứ ba thế giới về sản xuất rau sau Trung Quốc và Ấn
Độ. Và trong nước rau là sản phẩm có sản lượng đứng thứ ba sau lúa gạo và sắn.
Thu nhập từ rau đứng thứ ba sau lúa gạo và thịt. 13
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 2008 – 2012 13
2.3.2. Sơ lược về tình hình sản xuất sử dụng phân bón trên thế giới và việt
nam 14
2.3.3. Ảnh hưởng của NO
-
3
tới sức khỏe và tuổi thọ của con người 16
Bảng 2.7: Ngưỡng giới hạn hàm lượng NO
-
3
trong rau tươi của FAO, 1993 18
2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và trên thế giới liên quan tới đề tài 19
2.4.1. Tình hình nghiên cứu của một số nước trên thế giới 19
2.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 21
3.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 27
3.2. Nội dung nghiên cứu 27
3.4.Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 31
3.4.1.Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển 31
3.4.2. Các chỉ tiêu sinh trưởng và phát triển 31
3.4.3. Tình hình sâu bệnh 31
5
* Đối với sâu: Giòi đục lá (sâu vẽ bùa) 31
− 31
* Đối với bệnh gỉ sắt: 32
3.4.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất 32
3.4.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu 33
3.4.6. Sơ bộ hạch toán kinh tế 33
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 33
3.5.1. Phương pháp lấy mẫu 33
3.5.2. Phương pháp phân tích mẫu 33
3.5.3. Phương pháp xử lý số liệu 33
Phần 4 34
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
4.1. Đặc điểm thời tiết, khí hậu vụ Đông xuân năm 2013 tại Thái Nguyên 34
Bảng 4.1: Tình hình thời tiết vụ Đông xuân 2013 tại Thái Nguyên 34
4.2. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến các giai đoạn sinh trưởng phát triển
của cây đậu trạch 35
4.3. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến tốc độ tăng trưởng chiều cao của
cây đậu trạch 36
4.3.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây đậu trạch. 36
4.3.2. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây đậu trạch 38
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của các mức đạm tới tốc độ tăng trưởng chiều cao cây
(cm/ngày) 39
4.4. Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến tốc độ ra lá của cây đậu trạch 40
4.4.1. Tốc độ ra lá của cây đậu trạch 40
4.5. Tình hình sâu, bệnh hại ở đậu trạch 41
Công thức 42
Giòi đục lá 42
Bệnh phấn trắng 42
CT1 42
4,7 42
6
6,89 42
CT2 42
5,3 42
5,19 42
CT3 42
4,9 42
5,77 42
CT4 42
5,2 42
6,22 42
CT5 42
6,5 42
6,93 42
4.6. Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến một số chỉ tiêu theo dõi quả đậu trạch 44
Bảng 4.11: Sơ bộ hạch toán kinh tế (Triệu đồng/ha) 47
Phần 5 48
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 48
5.1. Kết luận 48
5.2. Đề nghị 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CT : Công thức
CV(%) : Coefficient of vaiance (hệ số biến động)
FAO : FaodAgriculture Organization
(tổ chức nông – lương thực thế giới)
KLTB : Khối lượng trung bình
LSD : Least significant difference
(sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa)
NL : Nhắc lại
NO
2
-
: Nitrit
NO
3
-
: nitrat
NSLT : Năng suất lí thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
NXB : Nhà xuất bản
P : Probabliity (xác suất)
STT : Số thứ tự
TB : Trung bình
VTM : Vitamin
8
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Giá trị dinh dưỡng của cây rau và cây ngũ cốc
(tính trong 100g trọng lượng tươi
6
Bảng 2.2: Thành phần chất dinh dưỡng trong 100g rau ở một số loại
rau (theo bảng thành phần hóa học thức ăn ở nước ta)
9
Bảng 2.4: Tình hình sản xuất rau trên thế giới từ 2008 – 2012
12
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 2008 – 2012 13
Bảng 2.6: Tình hình sử dụng phân bón ở một số nước Đông Nam Á
15
Bảng 2.7: Ngưỡng giới hạn hàm lượng NO-3 trong rau tươi của FAO,
1993 18
Bảng 2.8: Ngưỡng giới hạn hàm lượng NO
-
3
trong rau của CHLB Nga
(Phạm Thị Thùy, 2006)
19
Bảng 4.1: Tình hình thời tiết vụ Đông xuân 2013 tại Thái Nguyên 34
Bảng 4.3: Động thái tăng trưởng chiều cao cây của các công thức thí
nghiệm (đơn vị: cm)
37
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của các mức đạm tới tốc độ tăng trưởng chiều
cao cây (cm/ngày)
39
Bảng 4.5: Ảnh hưởng của hàm lượng đạm tới tốc độ ra lá của cây đậu
trạch 40
Bảng 4.6: Tỷ lệ sâu, bệnh hại lá ở các công thức thí nghiệm (%)
42
Bảng 4.7: Tỷ lệ quả bị sâu đục quả các công thức thí nghiệm 44
Bảng 4.8: Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến hàm lượng nitrat (NO
3
-
)
trong quả đậu trạch
45
Bảng 4.9: Các yếu tố cấu thành năng suất của quả đâu trạch
45
Bảng 4.10: Năng suất của đậu trạch
46
Bảng 4.11: Sơ bộ hạch toán kinh tế (Triệu đồng/ha)
47
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rau xanh là thực phẩm không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của
con người. Bởi chúng cung cấp phần lớn các chất: vitamin, protein,
khoáng, đường, tinh bột, chất xơ đó là những chất dinh dưỡng không thể
thiếu đối với hoạt động sinh lý của con người, góp phần cân bằng dinh
dưỡng và kéo dài tuổi thọ. Đồng thời, rau còn là cây trồng mang lại hiệu
quả kinh thế cao, là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước.
Trước tình hình thế giới hiện nay, dân số ngày càng tăng do đó nhu
cầu về lương thực, thực phẩm ngày càng lớn. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội,đời sống của con người được nâng cao hơn do đó
ngoài việc đảm bảo đầy đủ số lượng còn phải nâng cao chất lượng lương
thực, thực phẩm nên buộc ngành nông nghiệp phải sản xuất rau nhiều hơn.
Vì vậy bón phân là một biện pháp làm tăng năng suất cây trồng để đáp
ứng nhu cầu của con người. Trong vài thập niên gần đây, phân hóa học
chiếm lĩnh chủ yếu trong các loại phân được sử dụng trong sản xuất nông
nghiệp của hầu hết các nước trên thế giới. Trong khi đó , Việt Nam lại là
một trong những nước nhập khẩu phân bón nhiều. Hàng năm, chúng ta đã
nhập khẩu 90 - 93% lượng phân đạm,30-35% lượng phân lân ,100% lượng
phân kali (Đường Hồng Dật,2003).
Tuy vậy, phân bón vẫn bị người dân sử dụng một cách lãng phí do
thiếu kiến thức, do quan niệm sai lầm, do chưa hiểu hết tác dụng to lớn của
bón phân hợp lí… Chính vì vậy, hiện nay hiệu suất sử dụng phân đạm chỉ ở
mức 35- 40%, phân lân và kali chỉ đạt 50% (Đường Hồng Dật, 2003). Như
vậy chỉ tính riêng phân urê hàng năm chúng ta bón khoảng 2 triệu tấn, đã bị
2
lãng phí khoảng 1,2 - 1,3 triệu tấn. Do vậy, chỉ cần tăng thêm 5% thì hàng
năm chúng ta đã tiết kiệm được ít nhất 100.000 tấn Urê tiết kiệm được một
lượng tiền khá lớn cho nhân dân.
Sử dụng phân hóa học liên tục, không hợp lý,cân đối, thiếu hiểu biết
đã dẫn đến dư lượng nitrat tồn dư trong các sản phẩm nông sản cao gây ra
nhiều ảnh hưởng tới sức khỏe của người tiêu dùng.
Hàm lượng NO
3
-
trong rau đã được coi là một chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá rau “sạch” do một số tổ chức quốc tế, một số nước quy định
ngưỡng hàm lượng NO
3
-
trong rau. Đó cũng là tiêu chuẩn để các nước
đánh giá chất lượng rau xuất, nhập khẩu. Ở nước ta,đây cũng là chỉ tiêu
khiến cho ngành xuất khẩu rau đã nhiều lần phải điêu đứng vì bị làm mất
uy tín với khách hàng gây thiệt hại nhiều cho người sản xuất.
Xuất phát từ những vấn đề trên và để đấp ứng cho nhu cầu của thực
tiễn sản xuất, để góp phần vào việc tìm hiểu, nâng cao hiệu quả sử dụng
của phân bón nói chung và phân đạm nói riêng tôi được giao nhiệm vụ tiến
hành đề tài “Ảnh hưởng của liều lượng đạm đến năng suất và dư lượng
nitrat (NO
3
-
) trong đậu trạch tại Thái nguyên”.
1.2. Mục đích, yêu cầu và ý nghĩa của đề tài
1.2.1. Mục đích
−Xác định liều lượng bón đạm thích hợp cho đậu đũa nhằm đạt năng
suất cao và hiệu quả kinh tế cao mà dư lượng NO
3
-
dưới ngưỡng cho phép
1.2.2. Yêu cầu
−Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây rau
đậu trạch ở các công thức bón đạm khác nhau.
−Đánh giá mức độ sâu, bệnh hại.
−Phân tích dư lượng NO
3
-
trong sản phẩm của cây rau đậu trạch
3
- Sơ bộ hoạch toán hiệu quả kinh tế
1.2.3. Ý nghĩa
- Các nghiên cứu ảnh hưởng của phân đạm đến năng suất và hàm
lượng NO
3
-
trong rau làm cơ sở khoa học cho các biện pháp kĩ thuật bón
phân cân đối,hợp lý góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình sử
dụng phân bón trong sản xuất rau nói chung, sản xuất cây đậu trạch an toàn
nói riêng.
- Các kết quả nghiên cứu bón phân cân đối hợp lý bón cho rau sẽ được
áp dụng có hiệu quả trên đất trường ĐH Nông Lâm-Thái Nguyên.
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
Quá trình sinh trưởng, phát triển và khả năng cho năng suất của cây
trồng phụ thuộc chủ yếu vào tác dụng tổng hợp của 4 yếu tố: ánh sáng,
nhiệt độ, nước và dinh dưỡng. Trong điều kiện sản xuất, việc điều khiển
các yếu tố để tăng cường sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây
trồng rất khác nhau. Điều khiển chế độ nước, dinh dưỡng dễ dàng hơn và
thực tế người ta coi phân bón là đòn bẩy tăng năng suất cây trồng. Cùng
với cuộc cách mạng xanh về giống, nền nông nghiệp thâm canh ra đời đã
vận dụng tối đa tác dụng của phân bón, đặc biệt là phân vô cơ.
Tuy nhiên, bón nhiều phân chưa hẳn đã tốt, nồng độ hóa học cao có thể
gây hại đối với cây trồng đồng thời ảnh hưởng xấu tới môi trường và sức
khỏe con người. Cây trồng cũng như các sinh vật khác, cơ thể có những
giới hạn chịu đựng nhất định, vượt quá giới hạn đó cơ thể bị hủy hoại. Bón
một lượng phân lớn vượt quá nhu cầu của cây còn gây ra lãng phí, tồn dư
trong đất và sản phẩm tăng.
Trong mấy thập kỉ qua năng suất cây trồng đã không ngừng tăng
lên,ngoài vai trò của giống mới, phân bón cũng có vai trò quyết định.
Giống mới chỉ phát huy của tiềm năng cho năng suất khi được bón đầy đủ
và hợp lý. PAO đã tổng kết phân bón không cân đối làm giảm hiệu suất sử
dụng 20-50% (Nguyễn Ngọc Nông, 1999) [4]. Khi bón phân không chỉ bón
một loại phân riêng rẽ mà phải kết hợp giữa phân vô cơ và phân hữu cơ thì
mới phát huy được hiệu quả cao và bền vững.
Mặt khác, chi phí phân bón trong nông nghiệp chiếm đến 30% -
50%. Trong đó, mục đích của người sản xuất không chỉ nhằm đặt năng suất
5
tối đa mà còn tìm lợi nhuận cao nhất. Cho nên con người phải tìm đến
những biện pháp kỹ thuậ bón phân cân đối hợp lý cho từng loại cây trồng
khác nhau.
Bón phân vô cơ là rất tốt cho cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt,
tuy nhiên nếu bón không đúng nồng độ, liều lượng, thời gian cách ly không
đảm bảo sẽ dẫn đến tình trạng dư lượng NO
3
-
trong sản phẩm vượt quá
ngưỡng cho phép ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và sức khẻo người
tiêu dùng.
Vì vậy, trong việc sử dụng phân đạm, kali hay bất cứ loại phân nào
khác ta phải sử dụng hợp lý cho từng loại cây trồng, giai đoạn sinh trưởng,
loại đất, nước, vi sinh vật và mùa vụ khác nhau… đồng thời, bón đúng
chủng loại, đúng lúc đúng cách đúng nông độ, liều lượng, đảm bảo hời gian
cách ly. như vậy, sẽ góp phần tăng hiệu suất sử dụng phân bón, tránh lãng
phí và bảo vệ môi trường.
2.1.
Giá trị của cây rau
2.1.1.
Giá trị dinh dưỡng
Rau là một loại thực phẩm rất cần thiết trong đời sống hằng ngày của
con người. Rau cũng là loại thực phẩm không thể thay thế được. bởi lẽ, rau
cung cấp rất nhiều dinh dưỡng quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con
người như: Protein, vitamin, muối khoáng…Trong các loại rau gia vị còn có
chất kháng sinh, các chất thơm, các chất hữu cơ… Trong đó, rau chứa hàm
lượng vitamin và chất khoáng cao hơn hẳn một số cây trồng khác. So sánh
thành phần dinh dưỡng của cây rau và cây ngũ cốc (A.M.S Sharfudin và M.A
Shidique, 1985) đã cho thấy rau đặc biệt là rau ăn lá có hàm lượng vitamin và
chất khoáng cao hơn lúa và lúa mỳ nhiều lần (Bùi xuân Quang, 1977).
6
Bảng 2.1: Giá trị dinh dưỡng của cây rau và cây ngũ cốc
(tính trong 100g trọng lượng tươi
Cây Độ ẩm (%)
Cacbonhydr
ate (g)
Protein (g)
Calo
(Kcalo)
Khoáng (mg)
Caroten VTMC Canxi Fe
Lúa 12,6
77,4
8,5
349
0,009
0
10
2,8
Lúa mỳ 12,8
71,2
11,8
346
0,064
0
41
4,9
Rau ăn lá 88,5
4,3
2,9
36
6,80
54
145
9,0
Rau ăn thân 87,5
9,1
1,6
44
0,58
19
84
0,7
Rau ăn quả 88
8,4
2,2
46
1,00
25
35
0,8
Rau ăn củ 80,7
16,2
1,5
89
1,34
21
24
0,7
7
Theo tính toán của các nhà dinh dưỡng học thì nhu cầu tiêu thụ rau
bình quân hàng ngày của mỗi người trên thế giới cần khoảng 250-
300g/ngày/người tức 90-110kg/người/năm. Rau cung cấp cho cơ thể con
người các chất dinh dưỡng quan trọng như: các loại vitamin, muối khoáng,
axit hữu cơ, các hợp chất thơm, cũng như protein,lipit, chất xơ, vv Trong
rau xanh hàm lượng nước chiếm 85-95%, chỉ có 5- 15% là chất khô. Trong
chất khô lượng cacbon rất cao (cải bắp 60%, dưa chuột 74- 75%, cà chua
75-78%, dưa hấu 92%). Giá trị dinh dưỡng cao nhất ở rau là hàm lượng
đường (chủ yếu đường đơn) chiếm tỷ lệ lớn trong thành phần cacbon. Nhờ
khả năng hoà tan cao, chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,
tăng tính hoạt hoá trong quá trình ôxy hoá năng lượng của các mô tế bào.
Một số loại rau như khoai tây, đậu (nhất là đậu ăn hạt như đậu Hà Lan, đậu
Tây), nấm, tỏi cung cấp 70 -312 calo/100g nhờ các chất chứa năng lượng
như protit, gluxit.
Rau là nguồn cung cấp vitamin phong phú và rẻ tiền. Rau có chứa các
loại vitamin A (tiền vitamin A), B1, B2, C, E và PP vv Trong khẩu phần
ăn của nhân dân ta, rau cung cấp khoảng 95 -99% nguồn vitamin A, 60 -
70% nguồn vitamin B (B1, B2, B6, B12) và gần 100% nguồn vitamin C.
Vitamin có tác dụng làm cho cơ thể phát triển cân đối, điều hòa, các hoạt
động sinh lý của cơ thể tiến hành bình thường. Thiếu một loại vitamin nào
đó sẽ làm cho cơ thể phát triển không bình thường và phát sinh ra bệnh tật.
Nếu ăn uống lâu ngày thiếu rau xanh ta thường thấy xuất hiện các triệu
chứng như da khô, mắt mờ, quáng gà do thiếu vitamin A; bệnh chảy
máu chân răng, tay chân mỏi mệt,suy nhược do thiếu vita min C; miệng
lưỡi lở loét, viêm ngứa chủ yếu do thiếu vitamin PP ; tê phù do thiếu vita
min B(chủ yếu là B1)…Công tác, học tập sinh hoạt h à ng ngày mỗi người
đều cần một lượng vitamin nhất định, nhu cầu vitamin hàng ngày mỗi
người cần 100 mg C trong đó 90% lấy từ rau quả.
8
Rau là nguồn cung cấp chất khoáng cho cơ thể. Rau chứa các chất
khoáng chủ yếu như Ca, P, Fe, là thành phần cấu tạo của xương và máu.
Những chất khoáng có tác dụng trung hòa độ chua do dạ dày tiết ra khi
tiêu hóa các loại thức ăn như thịt, các loại ngũ cốc. Hàm lượng Ca rất
cao trong các loại rau cần, rau dền, rau muống, nấm hương, mộc nhĩ
(100- 357 mg%).
Rau là nguồn cung cấp các dinh dưỡng khác. Rau cung cấp cho cơ thể
các axit hữu cơ, các hợp chất thơm, các vi lượng, các xellulo (chất xơ) giúp
cơ thể tiêu hoá thức ăn dễ dàng, phòng ngừa các bệnh về tim mạch áp huyết
cao. Ngoài ra nhiều loại rau còn chứa các kháng sinh thực vật như Linunen,
Carvon, Pinen ở cần tây, allixin ở tỏi, hành có tác dụng như một dược liệu
đối với cơ thể. Bởi vậy nhu cầu về rau ngày càng cao. Theo tính toán của
các nhà dinh dưỡng học thì mức tiêu dùng rau tối thiểu cho mỗi người cần
90 - 110 kg/năm tức250 -300 g/người/ngày. Trong khi đó, theo thống kê
nước ta mới cung cấp được 60g/người/ngày (Trần khắc thi, Trần ngọc
hùng, 2006) [8].Như vậy mới đáp ứng được 20-30% nhu cầu về rau.
Thành phần dinh dưỡng trong 100g rau của một số loại rau nước ta
được thể hiện như sau:
9
Bảng 2.2: Thành phần chất dinh dưỡng trong 100g rau ở một số loại rau (theo bảng thành phần hóa học thức
ăn ở nước ta)
Loại rau Thành phần hóa học(%g) Calo
(100g)
Muối khoáng (mg%) Vitamin (mg %)
Pr H
2
O Glu xlu Ca P Fe Caroten B1 B2 C
Bầu 0,6
91,5
2,9
1,0
14
21,0
25,0
0,2
0,02
0,01
0,03
12
Cà chua 0,6
94,0
4,2
0,8
20
12,0
26,0
1,4
2,0
0,06
0,04
10
Đậu đũa 6,0
83,0
8,3
12,0
59
47,0
26,0
1,6
0,50
0,29
0,18
3
Cải bắp 1,8
90,0
5,4
1,6
30
48,0
31,0
1,1
0,01
0,06
0,05
36
Rau muống 3,2
92,0
2,5
1,5
23
100
37,0
1,4
2,90
0,04
0,09
3
Xu hào 2,8
88,0
6,3
1,7
37
46,0
50,0
0,6
0,15
0,06
0,05
40
Súp lơ 2,5
90,9
4,9
0,9
30
26,0
51,0
1,4
0,05
0,11
0,10
70
Dưa chuột 0,8
95,0
3,0
0,7
16
23,0
27,0
1,0
0,30
0,03
0,04
5
10
2.1.2. Giá trị kinh tế
Rau là một mặt hàng xuất khẩu giá trị và có ý nghĩa chiến lược. Rau là
cây trồng đem lại nhiều lợi nhuận góp phần phát triển kinh tế quốc dân
đáng kể, ngoài ra rau còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Trong những
năm gần đây thị trường xuất khẩu rau được mở rộng, năm 2000 tổng kim
ngạch xuất khẩu của nước ta là 200 triệu USD. Năm 2003150 triệu USD dự
tính đến năm 2010 là 47 triệu USD (Nghuyễn văn nam 2005) [5].
Các loại rau chính xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là dưa chuột, cà
chua, cà rốt, hành, ngô rau, đậu rau, ớt cay, nấm trong đó dưa chuột và cà
chua có nhiều triển vọng và chúng có thị trường xuất khẩu tương đối ổn
định. Thị trường xuất khẩu rau chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc, Đài
Loan, Nhật Bản, Australia, Singapore, Hàn Quốc, Mỹ… và các nước châu
Âu. Hàng năm lượng rau được xuất khẩu rất nhiều cả cả về số lượng và
chủng loại.
Rau góp phần phát triển các ngành kinh tế khác như: Ngành chăn nuôi
(rau là ngồn thức ăn cho chăn nuôi).
2.1.3. Giá trị khác
* Giá trị y học
Rau không những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn được sử dụng như
cây dược liệu quý: hành hoa, gừng, nghệ, tía tô… Đặc biệt là cây tỏi ta
được xem là cây dược liệu quý trong nền y học cổ truyền của nhiều nước.
Người ta cho rằng nếu ăn mướp đắng và bí ngô thường xuyên thì có thể
phòng chống bệnh đái tháo đường.
* Giá trị xã hội
Khi ngành sản xuất rau được phát triển một cách nhanh chóng và
vững chắc sẽ góp phần làm tăng thu nhập cho người dân lao động, thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, đồng thời đáp ừng yêu cầu của
công cuộc xây dựng đất nước.
11
Khi sản xuất rau được coi là một nghề tì những khu chuyên canh rau
sẽ được mở rộng, sẽ có điều kiện để sắp xếp lao động một cách hợp lí, giải
quyết việc làm cho người nông dân lúc nông nhàn.
2.2. Vai trò của phân bón trong sản xuất nông nghiệp
Bằng kinh nghiệm sản xuất của mình nông dân Việt Nam đã đúc kết “
nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Câu nông giao trên đã khẳng định
vai trò của phân bón trong hệ thống liên hoàn tăng năng suất cây trồng.
Phân hóa học không chỉ có nhiệm vụ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển mà còn có tác dụng tăng chất hưu cơ cho đất
thông qua việc làm tăng sinh khối cây trồng. Toàn bộ sinh khối nếu được
trả lại cho đất, độ phì của đất sẽ được ổn định và nâng cao dần. Trong mấy
thập kỷ vừa qua năng suất cây trồng đã không ngừng tăng lên, ngoài vai trò
của giống mới, phân bón cũng có vai trò quyết định. Giống mới chỉ có thể
phát huy được tiềm năng, cho năng suất cao nhất khi được bón đầy đủ và
hợp lí. FAO đã tổng kết bón phân không cân đối làm giảm hiệu suất sử
dụng 20-50%. Kết quả trong thí nghiệm và mô hình ở nước ta trong mấy
năm qua cho thấy nếu NPK cân đối so với chỉ bón đạm, năng suất lúa trên
đất bạc màu có thể tăng 100 – 200%. Nhờ có phân bón mà phẩm chất nông
sản được nâng cao. Bón phân không cân đối làm giảm chất lượng nông sản.
Bón phân cũng làm thay đổi thành phần hóa học của hạt, việc bón phân
thừa hay thiếu đạm làm giảm tỷ lệ vitamin B.
Kết quả nghiên cứu đánh giá của Viện Dinh dưỡng cây trồng quốc tế
(IPNI) cho thấy, phân bón đã làm tăng năng suất cây trồng, giúp gia tăng
khoảng 30-35% tổng sản lượng nông sản toàn thế giới. Những loại phân
bón được sử dụng đúng sẽ phát huy được những ưu thế: nguồn bổ sung
dinh dưỡng cho đất đai, giúp tạo ra năng suất cao trong trồng trọt, tạo ra
các sản phẩm nông sản chất lượng.
12
2.3. Sơ lược về tình hình sản xuất rau và sử dụng phân bón trên thế
giới và việt nam
2.3.1. Sơ lược về tình hình phát triển rau trên thế giới và việt nam
* Trên thế giới
Trên thế giới rau đã trồng từ rất lâu đời từ thời xa xưa người Hi Lạp,
Ai Cập cổ đại đã biết trồng và sử dụng rau như một nguồn lương thực.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới trồng rất nhiều loại rau, diện tích
trồng rau ngày một tăng để đáp ứng nhu cầu rau xanh tăng lên của nhân dân.
Trong nhiều năm gần đây, tình hình sản xuất rau trên thế giới không
ngừng phát triển cả về diện tích và sản lượng, số liệu FAO được thống kê
và được trình bày tại bảng 2.4.
Bảng 2.4: Tình hình sản xuất rau trên thế giới từ 2008 – 2012
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2008 52,81 188,413 994,98
2009 54,03 188,629 1019,10
2010 55,72 188,210 1048,71
2011 56,81 191,371 1087,12
2012 57,27 193,133 1106,13
(Nguồn: FAOSTAT, 2014)[12]
Theo thống kê của FAO, diện tích trồng rau năm 2008 là 52,81 triệu
ha nhưng đến năm 2012 đã mở rộng lên tới 57,27 triệu ha, tăng so với
năm 2008 là 4,46 triệu ha, tăng 8.45% so với năm 2008. Như vậy, diện
tích trồng rau trên thế giới đang tăng lên, nguyên nhân là do người nông
dân đang chuyển một phần diện tích đất trồng các cây trồng khác sang
trồng rau.
13
Năng suất rau bình quân trên thế giới không biến động nhiều đạt
từ 188,413 – 193,133 ta/ha qua 5 năm, bởi diện tích trồng rau hiện nay
không tập trung về tăng năng suất mà chú trọng hơn đến viêc tăng chất
lượng sản phẩm.
Về sản lượng rau hàng năm thu được theo chiều hướng tăng dần tính
đến năm 2012 đạt 110,61 triệu tấn, tăng hơn so với năm 2008 là 111,15
triệu tấn, tương đương 11,17%. Sở dĩ trong những năm từ 2008 đến năm
2011 sản lượng rau tăng nhanh như vậy là do diện tích trồng trong những
năm gần đây tăng lên và do người trồng rau đã ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật tiên tiến đến phục vụ sản xuất.
* Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam
Việt Nam là nước đứng thứ ba thế giới về sản xuất rau sau Trung
Quốc và Ấn Độ. Và trong nước rau là sản phẩm có sản lượng đứng thứ ba
sau lúa gạo và sắn. Thu nhập từ rau đứng thứ ba sau lúa gạo và thịt.
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam 2008 – 2012
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
( tấn)
2008 690.620 111 7.724.502
2009 787.890 115 9.064.085
2010 818.088 109 8.975.534
2011 835.918 107 9.014.988
2012 848.200 111 9.439.000
(Nguồn: FAOSTAT, 2014)
Qua bảng 2.5 ta thấy:
Theo số liệu thống kê của FAO những năm gần đây diện tích trồng
rau của ta ngày càng được mở rộng từ 690.620 ha năm 2008 lên 848.200 ha
năm 2012.Diện tích tăng nhanh từ năm 2008 đến năm 2010 qua 5 năm diện
14
tích tăng 157.58 ha.Sản lượng rau có chiều hướng ra tăng, năm 2000 đạt
hơn 6triệu tấn tăng 81% so với năm 1990, mức tăng sản lượng trung bình
hằng năm từ 1990-2000 là xấp xỉ 260 nghìn tấn. Do diện tích tăng nhanh
dẫn đến sản lượng rau ở nước ta tăng lên đáng kể từ 7.724.502tấn năm
2008 tăng lên 9.064.085 tấn năm 2009, đến năm 2010 lại giảm xuống
8.975.534 tấn, năm 2012 sản lượng rau lại tăng lên 9.439.000tấn. Sản
lượng rau cảu nước ta được thu chủ yếu từ 2 vùng chính đó là vùng chuyên
canh rau ven thành phố và vùng rau luân canh với cây lương thực.
2.3.2. Sơ lược về tình hình sản xuất sử dụng phân bón trên thế giới và
việt nam
* Sơ lược về tình hình sản xuất sử dụng phân bón trên thế giới
Phân bón có vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Ngay từ thời cổ đại, người Trung Quốc và Hi lạp đã biết sử dụng tro đốt và
phân chăn nuôi để bón cho cây trồng. Tiêu thụ phân hóa học tăng mạnh là
một trong những nguyên nhân làm tăng giá phân bón. Theo Hiệp hội phân
bón thế giới, mức tiêu thụ phân bón toàn cầu đã tăng đều qua các năm và
đạt 155.438.000 tấn quy về dinh dưỡng nguyên chất( N +P2O5 +K2O) vào
năm 2005, tăng 19,75% so với năm 1995 và 3,87% so với năm 1961. Gần
đây mơcs tiêu thụ tại các nước đang phát triển tăng mạnh, trong khi các
nước phát triển lại có xu hướng giảm. Trung Quốc là nước tiêu thụ nhiều
phân bón nhất thế giới với tổng lượng 46.204.100 tấn năm 2005, chiếm tỉ lệ
29,7% so với toàn cầu.
Các số liệu khảo sát cho thấy, bình quân các nước châu Á sử dụng
phân khoáng nhiều hơn nhiều hơn bình quân thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ(
nước có khí hậu nóng) lại dùng phân khoáng ít hơn bình quân toàn châu Á.
Trong đó Trung Quốc và Nhật Bản lại sử dụng phân khoáng nhiều hơn
bình quân toàn châu Á. Việt Nam là nước sử dụng nhiều phân khoáng trong
số các nước ở Đông Nam Á.
15
Bảng 2.6: Tình hình sử dụng phân bón ở một số nước Đông Nam Á
STT Nước Lượng NPK sử dụng (kg/ha)
1 Việt Nam 241,82
2 Malaysia 192,60
3 Thái Lan 95,83
4 Philippin 65,62
5 Indonesia 63,0
6 Myanma 14,93
7 Lào 4,50
8 Campuchia 1,49
(Nguồn: FAOSAT, 2010)
* Sơ lược về tình hình sản xuất sử dụng phân bón ở Việt Nam
Trong những năm gần đây tốc độ tiêu thụ phân bón ại Việt Nam tăng
nhanh và đã đạt mức 2.063.600 tấn dinh dưỡng nguyên chất vào năm 2005,
tăng 68% so với năm 1995 và 299,39 % so với năm 1961. Năm 2006 và
2007, mức tiêu thụ phân bón ở nước ta đã tăng đáng kể so với năm 2005.
Trong 3 tháng đầu năm 2008, lượng phân bón chúng ta nhập khẩu đã đạt
mức 1.029.000 tấn, tăng 19,9 % về lượng và 108,9% về giá so với cùng kỳ
năm 2007.
Việt Nam đến năm 2005 lượng phân bón trong cả nước chỉ đạt
54,59% so với mức tiêu thụ, phần còn lại chúng ta phải nhập khẩu. Hiện
nay với nhiều cố gắng ngành sản xuất phân bón trong nước đã đáp ứng hơn
70% nhu cầu về phân lân, 8% phân đạm. Năm 2006, lượng phân bón nước
ta sử dụng không phải là cao, bình quân là 250kg/ha so với các nước phát
triển có nền nông nghiệp thâm canh cao như Hàn Quốc: 467kg/ha, Nhật
Bản: 403kg/ha, Trung Quốc: 390kg/ha.
16
Về chất lượng phân bón trên thị trường thì kết quả kiểm tra về tình
hình sản xuất, kinh doanh phân bón của các doanh nghiệp ở 10 tỉnh thành
phố của Cục trồng trọt trong tháng 7/2007 cho thấy: vẫn tồn tại trên thị
trường những loại phân chưa đăng ký vào Danh mục phân bón, phân bón
không đảm bảo chất lượng. Có những lô hàng, khi kiểm tra có tới 54% mẫu
không đạt chất lượng đăng ký. Năm 2008 tình hình phân bón kém chất
lượng vẫn còn diễn biến rất phức tạp. Với tình trạng trên thị trường còn rât
nhiều phân bón không đảm bảo chất lượng như hiện nay, thì Nhà nước ta
cần có nhiều biện pháp tích cực hơn để ngăn chặn việc sản xuất các loại
phân giả, chất lượng thấp làm thiệt hại đến lợi ích của người nông dân.
2.3.3. Ảnh hưởng của NO
-
3
tới sức khỏe và tuổi thọ của con người
Việc tích lũy NO
-
3
trong mô cây không gây độc với cây trồng nhưng
nó có thể làm hại gia súc, người, đặc biệt là trẻ em khi sử dụng cây trồng có
hàm lượng NO
-
3
cao. Hiện nay vấn đề chất lượng rau là một vấn đề hết sức
đáng lo ngại. Những năm gần đây do nhu cầu của thị trường ngày càng cao
về số lượng cũng như ngoại hình sản phẩm, về phía người nông dân lại
muốn đảm bảo hoặc tăng năng suất cây trồng nên các loại thuốc bảo vệ
thưc vật, kích thích tăng trưởng ngày càng được sử dụng rộng rãi. Tuy
nhiên, nhiều người chưa hiểu biết về tác hại của chất tồn dư bảo vệ thực vật
và phân bón nên đã sử dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật và phân bón
ngay cả khi không cần thiết. Bên cạnh đó cũng không ít người vì mục đích
lợi nguận đã bỏ qua những cảnh báo về sự độc hại mà lạm dụng hóa chất
trong trồng trọt. Và hiện nay dư lượng nitrat trong rau đang là một vấn đề
nóng hổi đang được dư luận và xã hội hết sức quân tâm. Đây là một mối
nguy hại tới sức khỏe của con người cần sớm có hướng giaỉ quyết. Nitrat
khi vào cơ thể sẽ biến thành nitrit. Nitrit kết hợp với hồng cầu có thể tạo ra
một chất ngăn cản sư vận chuyển oxy trong cơ thể. Và nitrit tích tụ lâu
17
ngày sẽ bùng phát mạnh mẽ thành các khối u như: ung thư dạ dày. Ung thư
vòm họng…Việc ngâm nước muối chỉ diệt được các vi khuẩn gây chứng
tiêu chảy , kiết lỵ…chứ không làm mất đi các chất có độc tố cao như nitrat
(Phạm Thị Thùy, 2006)[28]. Đun nấu kỹ cũng không làm hết nitrat.
Người ta đã phát hiện rằng việc sử dụng các loại rau như spinash
chứa hàm lượng NO
-
3
và NO
-
2
cao đã gây bệnh ở trẻ em nếu sử dụng
thường xuyên.Bởi vì rau spinash là loại rau có chứa hàm lượng NO
-
3
cao
hơn so với các loại rau khác ( Bùi Quang Xuân,1997 )[33]
Hiện nay, ở nước ta do người nông dân lạm dụng phân hóa học,
“phân chuồng tươi”, đặc biệt là việc bón đạm quá liều và phương pháp bón
( bón lót ít, kéo dài bón thúc tới gần thời gian thu hoạch) chưa hợp lý dẫn
đến việc tích lũy nitrat rau cao mặc dù lượng phân sử dụng ở Việt Nam
không cao so với thế giới.
2.3.4. Ngưỡng hàm lượng NO
3
-
trong rau
Cũng bởi rau là nguyên nhân chính đưa hàm lượng NO
-
3
vào cơ thể
người, do vậy đã có rất nhiều tổ chức, nhiều nước, nhiều tác giả đưa ra
ngưỡng hàm lượng NO
-
3
trong rau.
Do tính độc của NO
-
3
nên khó đưa ra ngưỡng hàm lượng NO
-
3
trong
rau cũng như trong các loại lương thực, thực phẩm. Mặt khác tính độc này
còn phụ thuộc vào lượng NO
-
2
được tạo ra từ NO
-
3
. Vì vậy các tác giả đưa
ra các ngưỡng hàm lươngj rất khác nhau. Theo tổ chức y ế thế giới (WHO)
và cộng đồng kinh tế châu Âu (EC) đã giới hạn hàm lượng NO
-
3
rgong
nước uống là dưới 50mg/lít (Phạm Thị Thùy, 2006)[28]. Đối với người lớn
nặng 60kg liều lượng NO
-
3
chấp nhận được là 220- 440mg còn NO
-
2
chỉ là
8-16mg. Với trẻ em nếu thường xuyên uống nước có hàm lượng NO
-
3
cao hơn 45mg/l sẽ bị rối loạn trao đổi chất, giảm khả năng kháng bệnh
của cơ thể.