Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Ứng dụng chế phẩm Fito-Biomix RR trong xử lý phế thải nông nghiệp rơm, rạ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.02 KB, 64 trang )

ĐạI HọC THáI NGUYÊN
TRƯờNG ĐạI HọC NÔNG LÂM






Dơng Thị Luyến





Tên đề tài:
T
ứng dụng chế phẩm Fito-Biomix RR
trong xử lý phế thải nông nghiệp rơm, rạ


Khóa luận tốt nghiệp đại học





Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học môi trờng
Khoa : Môi Trờng
Khoá học : 2010 - 2014







Thái Nguyên, 2014
ĐạI HọC THáI NGUYÊN
TRƯờNG ĐạI HọC NÔNG LÂM






Dơng Thị Luyến





Tên đề tài:
T
ứng dụng chế phẩm Fito-Biomix RR
trong xử lý phế thải nông nghiệp rơm, rạ


Khóa luận tốt nghiệp đại học






Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học môi trờng
Khoa : Môi Trờng
Lớp : 42B KHMT
Khoá học : 2010 2014
Giảng viên hớng dẫn : PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng



Thái Nguyên, 2014
LỜI CẢM ƠN
Trên quan điểm học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Thực
tập là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập của sinh viên, là
khâu cốt yếu để sau khi ra trường trở thành người cán bộ mẫu mực, có trình
độ chuyên môn vững vàng.
Được sự nhất trí của Nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Môi trường –
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và dưới sự hướng dẫn của thầy giáo
PGS.TS Nguyễn Thế Hùng em tiến hành thực hiện đề tài “ Ứng dụng chế
phẩm Fito-Biomix RR trong xử lý phế thải nông nghiệp rơm, rạ”.
Để hoàn thành bài khóa luận này, trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới Ban giám hiệu Nhà trường trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
Ban chủ nhiệm khoa Môi trường, cùng các thầy cô trong trường đã quan tâm,
dạy bảo, truyền những kinh nghiệm quý báu cho em trong bốn năm học vừa
qua. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc thầy giáo PGS.TS Nguyễn
Thế Hùng đã nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực
tập, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các cán bộ Trung tâm ứng
dụng tiến bộ KH&CN tỉnh Bắc Giang đặc biệt Ths. Nguyễn Thị Hoài

Phương đã tạo điều kiện tốt và nhiệt tình hướng dẫn em trong qua trình thực
hiện đề tài.
Với trình độ năng lực và thời gian có hạn, do đó khóa luận của em sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo và các bạn để bản khóa luận của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
Thái Nguyên, ngày ….tháng … năm 2014
Sinh Viên


Dương Thị Luyến

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Ước tính lượng rơm rạ ngoài đồng ruộng ở một số tỉnh vùng Đồng
bằng sông Hồng. 9

Hình 4.1: Bản đồ tỉnh Bắc Giang 22

Hình 4.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian vừa qua 39

Hình 4.3: Nông dân huyện Hiệp Hòa đốt rơm rạ sau thu hoạch 47

Hình 4.4 Thành phần một số chất dinh dưỡng trong các công thức ủ 49


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Thành phần hóa học của rơm rạ 10


Bảng 2.2 Tổng hợp lượng CTR nông nghiệp phát sinh 10

Bảng 2.3. Ước lượng rơm rạ đốt ngoài đồng ruộng ở các tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng (ĐBSH) năm 2010 17

Bảng 2.4 Lượng khí thải vào môi trường từ đốt rơm rạ ngoài đồng ruộng vùng Đồng
bằng sông Hồng năm 2009 17

Bảng 4.1. Biến động sử dụng đất tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2006-2013 29

Bảng 4.2 Cơ cấu diện tích 3 loại rừng Bắc Giang năm 2013 30

Bảng 4.3 Dân số Bắc Giang giai đoạn 2010-2013 33

Bảng 4.4 Lao động Bắc Giang giai đoạn 2010-1013 34

Bảng 4.5 Một số chỉ tiêu giáo dục so với vùng TD&MNPB năm 2013 35

Bảng 4.6 Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu y tế đến năm 2013 36

Bảng 4.7 Tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2010-2013 38

Bảng 4.8 Biến động sử dụng đất tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2006-2013 40

Bảng 4.9 Số lượng và sản lượng chăn nuôi giai đoạn 2009-2012 41

Bảng 4.10 Sản lượng một số cây trồng hàng năm qua các năm giai đoạn 2009-2012 43

Bảng 4.11 Diện tích đất trồng lúa tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2012 44


Bảng 4.12 Sản lượng lúa cả năm tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009 – 2012 45

Bảng 4.13 Ảnh hưởng của chế phẩm Fito-Biomix RR đến thể tích và khối lượng 47

Bảng 4.14 Sự thay đổi về pH giữa các công thức ủ 48

Bảng 4.15 Hàm lượng một số chất dinh dưỡng của các công thức ủ 49

Bảng 4.16 Hàm lượng mùn (OM) trong các công thức ủ 50

Bảng 4.17 Sự biến đổi về nhiệt độ trong quá trình ủ 51

Bảng 4.18 Hoạch định chi phí Fito-Biomix RR cho ủ rơm rạ 51

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BĐKH : Biến đổi khí hậu
CC : Cơ cấu
CN&XD : Công nghiệp và xây dựng
CT : Công thức
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
DS : Dân số
DV : Dịch vụ
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
KT : Kinh tế
LĐ : Lao động
ONMT : Ô nhiễm môi trường
TD&MNPB : Trung du và miền núi phía bắc
UNEP : United Nations Environment Programme

(Chương trình Môi trường Liên hợp quốc)

MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3

1.2.1. Mục tiêu tổng quát 3

1.2.3. Mục tiêu cụ thể 3

1.3. Yêu cầu của đề tài 3

1.4. Ý nghĩa của đề tài 3

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
5

2.1 Cơ sở khoa học của đề tài 5

2.1.1. Cơ sở lý luận 5

2.1.2. Cơ sở thực tiễn 7

2.1.3. Cơ sở pháp lý 8


2.2 Một số khái niệm và vấn đề phế thải nông nghiệp rơm rạ ở Việt Nam 8

2.2.1. Khái niệm chất thải 8

2.2.2. Khái niệm kinh tế xanh 8

2.2.3. Khái niệm phế thải nông nghiệp 9

2.2.4. Rơm rạ và vấn đề môi trường 9

2.3. Chế phẩm Fito Biomix RR và các kết quả nghiên cứu ứng dụng 18

2.3.1. Chế phẩm Fito biomix RR và công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học Fito-
Biomix RR 18

2.3.2. Các kết quả nghiên cứu ứng dụng liên quan 19

PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
20

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 20

3.3. Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi 20

3.3.1. Nội dung nghiên cứu 20

3.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi 20


3.4. Phương pháp nghiên cứu 20

3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu 20

3.4.2. Phương pháp chuyên gia: Tham vấn lấy ý kiên của các chuyên gia, người có
kinh nghiêm 20

3.4.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm 20

PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
22

4.1. Điều tra sơ lược điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Giang 22

4.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 22

4.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội 32

4.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp và hiện trang phế thải nông nghiệp rơm rạ 39

4.2.1. Tình hình sản xuất nông nghiệp 39

4.2.2. Tình hình sản xuất lúa và vấn đề phế thải nông nghiệp 44

4.3. Kết quả ủ rơm rạ bằng chế phẩm Fito-Biomix RR 47

4.3.1. Sự thay đổi về thể tích và khối lượng ở các công thức ủ. 47

4.3.2. Ảnh hưởng của Fito-Biomix RR đến pH của rơm, rạ sau khi ủ. 48


4.3.3. Ảnh hưởng của chế phẩm Fito-Biomix RR đến thành phần hóa học của rơm
rạ sau quá trình ủ 48

4.3.4. Ảnh hưởng của chế phẩm Fito-Biomix RR tới hàm lượng mùn (OM) của
rơm rạ sau quá trình ủ 50

4.3.5. Sự biến đổi về nhiệt độ trong quá trình ủ 51

4.3.6. Hoạch định chi phí Fito-Biomix RR cho ủ rơm rạ 51

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
53

5.1 Kết luận 53

5.2 Kiến nghị 53

TÀI LIỆU THAM KHẢO





1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới trong những năm qua đã
tạo ra những thay đổi lớn về diện mạo cho thế giới, tuy nhiên sự phát triển
kinh tế chỉ chú trọng về mặt lợi ích mang lại, không tính đến các vấn đề ngăn

ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường đã và đang đưa thế giới tới
những vấn đề toàn cầu như suy thoái môi trường, khủng hoảng sinh thái, biến
đổi khí hậu.
Với chủ đề: “Green Economy: Does it include you?” mà Liên Hợp
Quốc lấy làm chủ đề cho ngày môi trường thế giới năm 2012 như một hình
thức truyền thông nhằm phản ánh nhận thức sâu rộng đối với kinh tế xanh
như là bước đi tiếp theo hướng tới thế kỷ XXI bền vững. Hiểu một cách đơn
giản, Kinh tế Xanh là nền kinh tế ít phát thải cacbon, tiết kiệm tài nguyên và
tạo ra công bằng xã hội.
Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, khái niệm
Kinh tế Xanh còn khá mới mẻ vì vậy cần được quan tâm, định hướng và đề ra
các chính sách phù hợp không chỉ ở các ngành sản xuất công nghiệp mà ngay
cả trong sản xuất nông nghiệp.
Được mệnh danh là cái nôi của nền văn minh lúa nước Việt Nam với
70% dân số làm nông nghiệp thì việc sản xuất lúa gạo vẫn là một hoạt động
kinh tế đứng hàng đầu với những vựa lúa lớn như Đồng bằng Sông Cửu Long,
Đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng Nam bộ
Cùng với sự đi lên của các ngành kinh tế, lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp ở nước ta cũng đang trở mình với những bước phát triển nhất định,
bên cạnh những lợi ích thì nó cũng tạo ra những ảnh hưởng lớn tới môi
trường. Sản lượng lúa gạo lớn, tuy nhiên đi kèm với nó là lượng rơm rạ sau
thu hoạch cũng rất lớn. Việc tận thu và xử lý nguồn rơm rạ sau thu hoạch có ý
nghĩa rất lớn không những làm tăng thu nhập cho người nông dân mà còn góp
phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nhất là trong những năm trở lại đây,

2
tình trạng bỏ phí, cũng như đốt bỏ rơm rạ sau thu hoạch ngày càng phổ biến,
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến môi trường cũng như sức
khỏe người dân.
Trước tình trạng đốt rơm rạ diễn ra quá phức tạp, Văn phòng Chính phủ

đã có công văn số 4753 ngày 13/07/2011 thông báo chỉ đạo của Phó thủ tướng
Hoàng Trung Hải giao Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, đề xuất biện
pháp xử lý tình trạng đốt rơm rạ. Đây là một nguyên nhân đã và đang gây khó
khăn cho sản xuất nông nghiệp trong cả nước trong thời gian qua.
Bộ Nông nghiệp & PTNT có quyết định số 3119/QĐ-BNN-KHCN
ngày 16/12/2011, phê duyệt đề án giảm phát thải khí nhà kính trong nông
nghiệp nông thôn đến năm 2020. Một trong các nội dung chính của đề án là
thu gom, tái sử dụng và xử lý triệt để rơm rạ nhằm hạn chế tối đa đốt, vùi
gây phát thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường. Với quy mô xử lý là 100 %
diện tích gieo trồng, tương ứng với 07 triệu ha gieo trồng lúa, việc thực hiện
đề án ước tính sẽ giảm phát thải 1,54 triệu tấn CO
2
.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi với hơn 90% dân số sống ở khu vực
nông thôn, với cơ cấu ngành nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 67.1%. Hiện nay
sản xuất nông nghiệp vẫn là thế mạnh của tỉnh với diện tích đất nông nghiệp
là 123.000 ha chiếm 32,2% diện tích đất tự nhiên, tính đến ngày 18/03/2014
toàn tỉnh đã gieo trồng được 72.585 ha đạt 90% kế hoạch, tăng 4,5% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích lúa đạt 51.273 ha đạt 99% kế hoạch của
tỉnh đặt ra, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Sự phát triển của ngành nông
nghiệp làm cho sản lượng lương thực ngày càng tăng bên cạnh đó nó cũng tạo
ra một lượng phế thải nhất định và nếu như không có biện pháp xử lý thích
hợp nó sẽ gây tác động không nhỏ đến môi trường.
Xuất phát từ thực tế nói trên và để đưa ra được biện pháp xử lý hiệu
quả rơm rạ theo hướng thận thiện với môi trường, góp phần đưa nền nông
nghiệp phát triển theo hướng kinh tế xanh, được sự đồng ý của Ban giám

3
hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Môi Trường, Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng em

tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Ứng dụng chế phẩm Fito-Biomix RR trong xử
lý phế thải nông nghiệp rơm, rạ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Đưa ra được biện pháp xử lý hiệu quả rơm rạ theo hướng thận thiện với
môi trường, góp phần đưa nền nông nghiệp phát triển theo hướng Kinh tế Xanh.
1.2.3. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu vai trò về chế phẩm Fito-Biomix RR
- Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm Fito-Biomix RR để xử lý phế thải
nông nghiệp rơm, rạ thành phân hữu cơ.
- Đưa ra quy trình ủ phế thải nông nghiệp rơm, rạ thành phân hữu cơ
bằng chế phẩm Fito-Biomix RR.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được hiện trạng, biện pháp xử lý phế thải nông nghiệp của
người dân trên địa bàn tỉnh.
- Bố trí được thí nghiệm, theo dõi quá trình xử lý rơm rạ bằng vi sinh vật.
- Phân tích một số chỉ tiêu chính của rơm rạ đã xử lý bằng Fito Biomix RR.
- Kết quả đạt được phải chính xác và khả thi khi ứng dụng trong thực tế.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
+ Giúp cho sinh viên hiểu biết rõ hơn về thực trạng quản lý phế thải
nông nghiệp rơm, rạ, khả năng ứng dụng của chế phẩm sinh học Fito-Biomix
RR trong xử lý phế thải nông nghiệp rơm, rạ thành phân hữu cơ.
+ Vận dụng và phát huy được các kiến thức đã được học tập và nghiên cứu.

4
+ Nâng cao nhận thức, kỹ năng và rút kinh nghiệm thực tế phục vụ cho
công tác sau này.
+ Bổ sung tư liệu cho học tập sau này.
+ Tích lũy kinh nghiệm cho công việc sau khi ra trường.

- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí, đất, nước.
+ Ứng dụng chế phẩm Fito-Biomix RR để xử lý phế thải nông nghiệp
rơm, rạ không những làm giảm hàm lượng các khí nhà kính( CO2, CO,
NH4…) do đốt rơm, rạ mà còn cung cấp một lượng phân hữu cơ cho sản xuất
nông nghiệp giúp cải tạo đất.
+ Tạo số liệu làm cơ sở cho công tác lập kế hoạch xây dựng chính sách
bảo vệ môi trường trong phát triển nông nghiệp của tỉnh.
+ Nâng cao nhận thức, tuyên truyền và giáo dục về bảo vệ môi trường
cho mọi người dân.



5
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Cơ sở lý luận
Trong những năm gần đây nền nông nghiệp nước ta đã có những bước
nhẩy vọt, từ một nước thiếu lương thực trầm trọng đã vươn lên sản xuất đủ
nhu cầu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan. Diện tích trồng lúa
hầu như không tăng mà có xu hướng giảm dần, do đô thị hoá và chuyển sang
đất chuyên dùng, nhưng sản lượng không ngừng tăng lên. Cùng với sản lượng
nông nghiệp tăng lên tạo ra một lượng phế phụ phẩm nông nghiệp lớn, phế
thải nông nghiệp ở nước ta có thể gây hiểm họa ô nhiễm môi trường khôn
lường nhưng cũng có thể là nguồn tài nguyên, nguyên liệu khổng lồ và quý
giá để tạo ra các sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Phế thải nông nghiệp nếu không được xử lý, tái chế sẽ là hiểm họa lớn.
Nó sẽ làm ô nhiễm nặng nề môi trường sản xuất và môi trường sống, độc hại
đối với con người, ô nhiễm đất đai, bầu không khí và góp phần không nhỏ

biến đổi khí hậu toàn cầu. Nó sẽ gây nên những dịch bệnh lớn và dai dẳng sẵn
sàng bùng phát ở người, gia súc, cây trồng, làm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm
cảnh quan, thiên nhiên, là thách thức lớn đến sự phát triển bền vững.
Thực tế trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt nông thôn ở nước ta
hiện nay xác định điều đó, như gây ô nhiễm nặng nề và phổ biến ở các vùng,
cơ sở chăn nuôi tập trung, ở các làng nghề. Ô nhiễm nguồn nước và khu dân
cư nông thôn. Sự bất lực trong xử lý rác và ô nhiễm rác ở đô thị cũng như
nông thôn, nhiều khi dẫn đến xung đột xã hội. Riêng nạn đốt rơm rạ vừa gây ô
nhiễm, vừa lãng phí, vừa tác hại xấu đến sản xuất, tiêu diệt thiên địch.
Kết quả nghiên cứu cho thấy mỗi ha lúa sau thu hoạch để lại rơm rạ
chứa 180-200 kg N-P-K nguyên chất tương đương giá trị 5-6 triệu đồng. Nếu
chỉ tính 4 triệu ha lúa vùng sản xuất trọng điểm thì đó đã là một giá trị khổng
lồ, khoảng 20 ngàn tỷ đồng. Khi đốt rơm rạ sẽ sảy ra sự nhiệt phân không
hoàn toàn sẽ tạo các khí độc CO, CO
2
, SO
2
rất nguy hại cho sức khỏe, tro
còn lại chỉ chứa chút ít P,K,Ca rất ít giá trị dinh dưỡng cho cây trồng mà là

6
một sự lãng phí lớn. ( Theo Trương Quốc Tùng - Phó Chủ tịch Hội Khoa học
kỹ thuật bảo vệ thực vật Việt Nam (VNPPA).
Việc sử dụng phế thải nông nghiệp rơm, rạ làm phân hữu cơ không chỉ
có vai trò tích cực trong việc bảo vệ môi trường không khí mà còn góp phần
tích cực trong việc giảm tính độc hại do hóa chất trong các loại nông sản thực
phẩm do lạm dụng phân hóa học.
Sử dụng phân bón hợp lý là kết hợp hài hòa giữa phân hữu cơ và phân
vô cơ, bón cân đối không những chỉ quan tâm đến tỷ lệ mà còn phải cân đối
với lượng hút để bù lại lượng thiếu hụt do cây trồng lấy đi từ đất.

Sử dụng phân bón hữu cơ sẽ thay thế một phần phân bón hóa học trên
đồng ruộng, nhờ đó đất trồng trọt không bị suy thoái mà vẫn đảm bảo được
nâng cao năng suất thu hoạch.
Sử dụng phân bón hữu cơ về lâu dài sẽ dần dần trả lại độ phì nhiêu cho
đất như làm tăng lượng photpho và kali dễ tan trong đất canh tác, cải tạo, giữ
độ bền của đất đối với cây trồng nhờ khả năng cung cấp hàng loạt các chuyển
hóa chất khác nhau liên tục do nhiều quần thể vi sinh vật khác nhau tạo ra.
Các loại cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng, sau khi thu hoạch đã
lấy đi của đất nguồn dinh dưỡng rất lớn. Một phần dinh dưỡng đó nằm trong
sản phẩm thu hoạch phục vụ con người, phần không nhỏ còn lại nằm trong
phế thải nông nghiệp.
Việc xử lý rơm rạ sau thu hoạch làm phân bón hữu cơ ngoài tác dụng
giảm thiểu ô nhiễm môi trường do khói bụi đốt rơm còn tạo ra được lượng lớn
phân bón hữu cơ chất lượng tốt để bón cho các loại cây trồng, góp phần hạn
chế việc lạm dụng phân hoá học và thuốc hoá học trên đồng ruộng mà vẫn
đảm bảo được năng suất, nâng cao chất lượng nông sản đồng thời dần lấy lại
độ phì nhiêu cho đất, làm tăng hàm lượng các chất khoáng, tăng độ tơi xốp
của đất, tăng hàm lượng vi sinh vật hữu hiệu trong đất, giảm thiểu các loại vi
khuẩn có hại, các loại mầm mống sâu và bệnh hại. Đây là một giải pháp quan
trọng trong việc tạo nên một nền nông nghiệp sạch và bền vững.
Trong tự nhiên có rất nhiều loại vi sinh vật phận giải các hợp chất hữu
cơ biến chúng thành các chất dễ tiêu trả lại cho đất khép kín vòng tuần hoàn

7
vật chất trong sinh giới. Do vậy, việc sử dụng các vi sinh vật để phân giải phế
thải nông nghiệp rơm, rạ thành phân bón hữu cơ để sử dụng trong nông
nghiệp là hoàn toàn có thể thực hiện được.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Vài năm trở lại đây, khi người dân không còn nhu cầu sử dụng rơm rạ
làm thức ăn cho gia súc trong sinh hoạt ngày thì cứ vào những buổi chiều hè

tháng 5, tháng 6 hoặc vào dịp tháng tháng 9, tháng 10, sau mỗi vụ thu hoạch
lúa, trên cánh đồng lại có nhiều cột lửa, bầu trời đầy khói bụi gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới môi trường và sức khoẻ con người, làm giảm tầm nhìn của
người đi đường và ảnh hưởng đến an toàn giao thông của người dân.
Trong sản xuất hiện nông nghiệp hiện nay đang thiếu phân bón hữu cơ.
Trong canh tác truyền thống phân chuồng là giải pháp chủ yếu tuy nhiên hiện
nay chăn nuôi cũng dang theo hướng công nghiệp hóa nên lượng phân chuồng
trong chăn nuôi hiện có trong các nông hộ không thể đáp ứng hết cho sự mở
rộng diện tích trồng và thâm canh trong sản xuất nông nghiệp.
Phân hữu cơ sinh học có thể được sản xuất tại chỗ từ các nguồn nguyên
liệu sẵn có tại địa phương như rơm rạ, rác thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi
với sự tham gia của một số chế phẩm sinh học. Nông dân hoàn toàn có thể sản
xuất được loại phân bón này vừa rẻ tiền nhưng vẫn có hiệu quả cao đối với
môi trường.
Vì vậy, việc sử dụng phân hữu cơ sản xuất tại chỗ là biện pháp có hiệu
quả nhất hiện nay để bổ sung chất hữu cơ cho đất, cải tạo và bồi dưỡng đất,
tiến tới nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Đảm bảo cho việc sản xuất được bền vững trên đất trồng lúa.
Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam đã
đưa công nghệ vi sinh vào ứng dụng để xử lý môi trường mang lại hiệu quả
cao. Trong đó xử lý rác thải hữu cơ thành phân bón là hướng được ứng dụng
nhiều nhất. Gần đây công nghệ này rất được quan tâm và ứng dụng phổ biến.
Nhờ sự đầu tư của Nhà nước kết hợp với các dự án đầu tư, sự giúp đỡ của một
số nước như: Đức, Đan Mạch, Hà Lan… chúng ta đã xây dụng được một số
nhà máy chuyên sản xuất vi sinh như: Nhà máy xử lý rác Thanh Trì, nhà máy

8
xử lý rác Nam Sơn, nhà máy xử lý rác Cầu Diễn… Đến nay có nhiều nơi sử
dụng hỗn hợp vi sinh vật hữu hiệu (E.M) xử lý rác thành công.
2.1.3. Cơ sở pháp lý

Luật Bảo vệ môi trường 2005 ngày 29 tháng 11 năm 2005.
QCVN 05 : 2009/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
không khí xung quanh.
Công văn số 4753 ngày 13/07/2011 thông báo chỉ đạo của Phó thủ
tướng Hoàng Trung Hải giao Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, đề xuất
biện pháp xử lý tình trạng đốt rơm rạ. Đây là một nguyên nhân đã và đang gây
khó khăn cho sản xuất nông nghiệp trong cả nước trong thời gian qua.
Quyết định số 3119/QĐ-BNN-KHCN của Bộ NN&PTNN ngày
16/12/2011, phê duyệt đề án giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp
nông thôn đến năm 2020. Một trong các nội dung chính của đề án là thu gom,
tái sử dụng và xử lý triệt để rơm rạ nhằm hạn chế tối đa đốt, vùi gây phát
thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường. Với quy mô xử lý là 100 % diện tích
gieo trồng, tương ứng với 7 triệu ha gieo trồng lúa, việc thực hiện đề án ước
tính sẽ giảm phát thải 1,54 triệu tấn CO
2
.
2.2 Một số khái niệm và vấn đề phế thải nông nghiệp rơm rạ ở Việt Nam
2.2.1. Khái niệm chất thải
Có nhiều định nghĩa khác nhau về chất thải. Trong đó: “Chất thải là
mọi thứ mà con người, thiên nhiên và quá trình con người tác động vào thiên
nhiên thải ra môi trường”.
Chất thải là các chất hoặc vật liệu mà người chủ hoặc người tạo ra
chúng hiện tai không sử dụng và thải bỏ chúng.
Chất thải là sản phẩm được phát sinh ra trong quá trình sinh hoạt của
con người, sản xuất nông nghiệp, công nghiêp, thương mại, dịch vụ, giao
thông, sinh hoạt gia đình, trường học, các khu dân cư, nhà hàng, khách sạn…
2.2.2. Khái niệm kinh tế xanh
Ý tưởng phát triển “ kinh tế xanh” được đưa ra từ những năm 70 của
thế kỷ XX. Tuy nhiên, phải đến tháng 10/2008. UNEP phối hợp với các nền
kinh tế hàng đầu thế giới mới triển khai sáng kiến “ kinh tế xanh” (Grenn


9
Economy). Đây là một hướng tiếp cận mới, được nhiều quốc gia đồng tình
hưởng ứng. Theo UNEP “kinh tế xanh” là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc
cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi
trường và khủng hoảng sinh thái. Hiểu một cách đơn giản, “kinh tế xanh” là nền
kinh tế ít phát thải cacbon, tiết kiệm tài nguyên và tạo ra công bằng xã hội. Đồng
thời, nó là chiến lược kinh tế để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
2.2.3. Khái niệm phế thải nông nghiệp
Phụ phẩm nông nghiệp là những sản phẩm phụ thu được từ sản xuất
nông nghiệp ngoài những sản phẩm chính. Ví dụ: rơm rạ, cám gạo, vỏ trấu rễ
lúa ngoài gạo là chính; lõi ngô, thân ngô, bẹ lá ngô; bã mía, vỏ mía, lá mía, vỏ
hạt cà phê…vv.
Phế thải nông nghiệp là các phụ phẩm nông nghiệp không được tiếp tục
sử dụng, mà thải bỏ.
2.2.4. Rơm rạ và vấn đề môi trường
2.2.4.1. Khái quát chung về rơm, rạ
Rơm rạ là thành phần dư thừa của cây lúa sau khi thu hoạch, gồm có
thân, bẹ và lá. Tùy vào từng giống lúa, rơm rạ có thể chiếm từ 50 ÷ 70 % tổng
sản lượng sinh khối sản xuất của cây lúa. Các giống lúa cổ truyền có thể tạo
ra đến 70 % sinh khối là rơm rạ và chỉ có 30 % là hạt lúa, còn các giống lúa
cải tiến cho rơm rạ khoảng 50 ÷ 60 % tổng sản lượng chất khô.

Hình 2.1: Ước tính lượng rơm rạ ngoài đồng ruộng ở một số tỉnh vùng
Đồng bằng sông Hồng.
(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010)

10
Bảng 2.1. Thành phần hóa học của rơm rạ
STT Thành phần Tỉ lệ (%)

1 Độ ẩm

7,08
2 Xenluloza

42,41
3 Hemixenluloza

12,65
4 Lignin

18,62
5 Các hợp chất trích ly

6,48
6 Tro

12,76
Tổng: 100
(Bảng 2.1 là kết quả phân tích thành phần hóa học của rơm rạ giống lúa
khang dân tại Việt Nam do Đặng Tuyết Phương và cs nghiên cứu[9].)
Thành phần nguyên tố (tính theo % khối lượng) như sau C chiếm 44 %,
H chiếm 5 %, N chiếm 0,92 % và Oxy chiếm 49% (A.Dobermann,
2002)[19].
2.2.4.2. Hiện trạng xử lý rơm rạ sau thu hoạch
Cây lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và kinh tế Việt
Nam. Khoảng 70 % trong tổng số 11 triệu hộ nông dân tham gia sản xuất lúa
gạo, chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền thống. Việc sản
xuất lúa gạo đã tạo ra một lượng lớn phế phẩm từ cây lúa trong đó có rơm rạ.
Rơm rạ chiếm phần lớn trong lượng CTR phát sinh trong nông nghiệp.

Bảng 2.2 Tổng hợp lượng CTR nông nghiệp phát sinh
Chất thải Đơn vị Khối lượng
Bao bì thuốc BVTV Tấn/năm 11.000
Bao bì phân bón Tấn/năm 240.000
Rơm, rạ Tấn/năm 76.000.000
Chất thải rắn chăn nuôi Tấn/năm 80.450.000
(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010)
Hầu hết các nước đã và đang tìm kiếm các phương pháp tận dụng rơm,
rạ và xử lý theo cách vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa an toàn, thân thiện với
môi trường. Theo nghiên cứu của tổ chức FAO, việc sử dụng rơm rạ mang
tính truyền thống, thích ứng cho nhu cầu của người dân nông thôn. Rơm rạ

11
thường được dùng trong những lĩnh vực như làm thức ăn và chất độn chuồng
cho gia súc, làm chất đốt, trồng nấm, làm phân ủ compost. Hiện nay, các nhà
khoa học đã tập trung chú ý tới một số biện pháp xử lý hữu hiệu hơn như sản
xuất cồn nhiên liệu sinh học, sử dụng làm nguyên liệu trong công nghiệp giấy,
làm phân bón hữu cơ,
Sử dụng rơm rạ làm thức ăn gia súc: Đa số nông dân ở các nước châu Á
bổ sung rơm và cỏ vào trong khẩu phần thức ăn để nuôi trâu bò mặc dù chất
lượng của rơm rất kém về protein, nhiều silic và lignin. Nông dân thường
gom rơm rạ khô chất thành đống ở quanh nhà để dành cho trâu bò ăn dần. Ở
nhiều nơi, rơm còn được ủ với urê để trở thành thức ăn chăn nuôi có chất
lượng hơn, tăng mức tiêu hóa cho trâu bò từ 5 ÷ 7 % (Nguyễn Xuân Trạch,
2003)[10]. Trong điều kiện hiện nay, ngành chăn nuôi chú trọng tăng năng
suất nhanh đã hạn chế việc sử dụng rơm rạ làm thức ăn cho trâu bò, thay vào
đó là nguồn thức ăn tinh. Cùng với quá trình cơ giới hóa trong nông nghiệp,
máy cày thay thế cho sức cày bừa của trâu bò khiến số lượng trâu bò ở nông
thôn giảm. Những nguyên nhân đó dẫn tới sự dư thừa rơm rạ sau thu hoạch.
Sử dụng rơm rạ để đun nấu: Theo truyền thống tại nhiều vùng nông

thôn ở Việt Nam, Trung Quốc, Banglades, Nepal, v.v., rơm rạ vẫn được dùng
làm chất đốt, để đun nấu. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng
rơm rạ để đun nấu tại các hộ gia đình ngày giảm đi nhiều do việc phát triển
các phương tiện đun nấu khác (củi, mùn cưa, biogas, ). Nhiều nơi không còn
sử dụng rơm rạ để đun nấu dẫn tới dư thừa rơm rạ sau thu hoạch.
Sử dụng rơm rạ làm phân ủ compost: Cũng theo truyền thống, người
nông dân ở nhiều quốc gia đã sử dụng rơm để ủ cùng với phân thải động vật
hoặc pha trộn với urê trở thành loại phân hữu cơ tốt cho cây lúa, rau, hoa
màu. Việc sử dụng phân rơm compost giúp hạn chế ảnh hưởng xấu trực tiếp
của thành phần hữu cơ đối với cây trồng. Trong quá trình phân hóa rơm rạ,
hàm lượng cacbon giảm dần trong khi hàm lượng nitơ tăng lên, tỉ lệ C/N giảm
xuống dưới 20 %, hàm lượng nitơ có thể đạt tới 2 % và giảm tỉ lệ
cacbonhydrat xuống dưới 35 %. Tỉ lệ C/N như vậy phù hợp để bón vào đất,
thúc đẩy hệ vi sinh vật đất phát triển, góp phần cải tạo và tăng độ phì nhiêu

12
cho đất. Cho tới nay, đã có nhiều nghiên cứu về sử dụng rơm rạ để ủ cùng với
chất thải vật nuôi làm phân compost. Các nghiên cứu tập trung làm rõ cơ chế
của quá trình ủ, vai trò của từng loại nguyên liệu, nhằm mục đích tìm ra các
biện pháp rút ngắn thời gian ủ và tạo sản phẩm có chất lượng tốt nhất
(Abdelhamid , 2004)[16]. Ở nước ta, hướng sử dụng này thường chỉ áp dụng
tại các hộ gia đình chăn nuôi nhỏ lẻ kết hợp với sử dụng rơm rạ để lót chuồng
nên lượng rơm rạ được sử dụng theo cách này không nhiều.
Chôn vùi rơm rạ vào đất: Đây là việc làm trả lại cho đất hầu hết các
nguyên tố dinh dưỡng mà cây lúa đã lấy đi từ đất, nên nó có tác dụng bảo toàn
nguồn dự trữ dinh dưỡng của đất về lâu dài. Mặc dù tác dụng trực tiếp lên
năng suất lúa vụ kế tiếp là không lớn so với việc lấy rơm rạ ra khỏi đồng
ruộng, nhưng về lâu dài thì ảnh hưởng này là thấy rõ. Nếu kết hợp song song
việc bón phân hàng vụ cho lúa cùng với việc vùi rơm rạ vào đất sẽ bảo toàn
được dinh dưỡng N, P, K và S cho lúa, và nhiều khi còn làm tăng được dự trữ

dinh dưỡng cho đồng ruộng. Việc vùi rơm rạ vào đất ướt, sẽ gây ra tình trạng
cố định tạm thời của đạm (N) và làm tăng lượng metan (CH
4
) phóng thích
trong đất, gây ra tình trạng tích luỹ khí nhà kính. Khi vùi một lượng lớn rơm
rạ tươi sẽ rất tốn lao động và cần có những máy móc thích hợp cho việc làm
đất cũng như có thể gây ra những vấn đề về bệnh cây. Việc trồng trọt chỉ nên
bắt đầu sau 2 ÷ 3 tuần vùi rơm rạ. Các kết quả nghiên cứu hiện tại cho thấy,
cày khô, nông 5 ÷ 10 cm để vùi rơm rạ và tăng cường sự thoáng khí cho đất
trong thời kỳ bỏ hoá có tác dụng tốt đến độ phì đất trong hệ thống thâm canh
lúa-lúa. Việc cày khô, nông nên tiến hành sau 2 ÷ 3 tuần sau khi thu hoạch ở
những cánh đồng mà thời kỳ bỏ hoá khô-ướt giữa 2 vụ lúa tối thiểu là 30 ngày
(Nguyễn Thành Hối và cs, 2008)[8]. Biện pháp vùi rơm rạ vào đất mang lại
nhiều lợi ích như:
Số lượng cacbon quay vòng hoàn toàn sẽ đạt được nhiều hơn nhờ vào
sự phân giải hiếu khí, do đó hạn chế đến mức tối thiểu ảnh hưởng xấu của các
sản phẩm phân giải yếm khí trong giai đoạn sinh trưởng đầu của cây lúa.
Tăng cường sự thoáng khí cho đất.
Tăng cường được sự khoáng hoá nitơ và sự giải phóng phốtpho cho
cây trồng.
Làm giảm được sự phát sinh cỏ dại trong suốt thời kỳ bỏ hoá.

13
Làm cho quá trình làm đất được dễ dàng hơn (thường không cần cày
đất lần 2).
Sự phóng thích CH
4
sẽ ít hơn so với việc vùi rơm rạ lúc làm đất ngay
trước khi gieo trồng.
Tại các vùng khí hậu nóng ẩm, việc chôn vùi rơm rạ vào đồng ruộng

sau khi thu hoạch có thể làm tăng năng suất lúa vào vụ kế tiếp. Theo tính toán
của các nhà khoa học, cứ vùi 4 ÷ 5 tấn rơm vào ruộng lúa theo cách hợp lý có
thể làm tăng năng suất thêm 0,4 tấn/ha. Theo Ponnamperuma (1984), rơm rạ
có thể có ích cho các nơi trồng lúa nước ở Đông Nam Á vì một tấn rơm có thể
cung cấp 9 kg N, 2 Kg P và S, 25 Kg K, 70 Kg Si, 6 kg Ca và 2 kg Mg
(Ponnamperuma, 1984)[24].
Sử dụng rơm rạ làm nguyên liệu giấy: Việc sử dụng rơm rạ làm nguyên
liệu trong công nghiệp giấy đã được áp dụng ở nhiều nước như Ấn Độ,
Banglades, Indonesia, Pakistan, Philippin, Trung Quốc. Do hàm lượng lignin
trong rơm rạ thấp hơn trong gỗ (< 20 %) nên công nghệ sản xuất giấy từ rơm
rạ tốn ít năng lượng hơn so với công nghệ sản xuất giấy từ nguyên liệu gỗ.
Tại Trung Quốc, các nhà khoa học đã phát triển thành công công nghệ sản
xuất bột giấy từ rơm rạ, công nghệ mới này có thể sản xuất được bột giấy
nhiều gấp 4 lần so với gỗ cùng trọng lượng. Đây là biện pháp xử lý mang lại
nhiều lợi ích, tuy nhiên các dây chuyền công nghệ vẫn chưa được phổ biến
rộng rãi để áp dụng.
Sản xuất nhiên liệu sinh học từ rơm rạ: Hiện nay, công nghệ sản xuất
nhiên liệu sinh học từ rơm rạ đang được nhiều nước quan tâm. Đây là một
giải pháp có nhiều tiềm năng giúp tìm kiếm nguồn nhiên liệu thay thế cho
nguồn nhiêu liệu hóa thạch đang có nguy cơ ngày một khan hiếm. Tại Việt
Nam, đã có nhiều nghiên cứu sản xuất nhiên liệu sinh học từ các nguồn cơ
chất xenluloza mà chủ yếu là rơm rạ. Gần đây nhất là nghiên cứu của Đặng
Tuyết Phương, sản xuất dầu sinh học từ rơm rạ sử dụng phương pháp nhiệt
phân không sử dụng xúc tác (ở nhiệt độ 550
o
C) hiệu suất tạo nhiên liệu lỏng
đạt 25 ÷ 30 %. Theo phương pháp này, từ 1 tấn rơm rạ, có thể cho ra 250 kg
nhiên liệu lỏng, loại nhiên liệu có thể sử dụng vào nhiều lĩnh vực như sản xuất

14

hóa chất, y dược, công nghiệp, thực phẩm hoặc làm nhiên liệu (Đặng Tuyết
Phương, 2010)[9]. Một phương pháp chuyển rơm rạ thành nhiên liệu nữa là
áp dụng phân giải kị khí nhờ vi sinh vật. Với biện pháp này, người ta chuyển
rơm rạ xuống hầm khí sinh học (biogas). Qua sự phân giải và tổng hợp của
các vi sinh vật thì toàn bộ chất hữu cơ trong rơm rạ sẽ biến thành khí đốt (chủ
yếu là khí mêtan) dùng để đun nấu, thắp sáng… Phần dịch trong bể là nguồn
phân bón rất tốt và rất sạch, còn có thể dùng để đưa vào các ao nuôi thủy sản
để tăng năng suất vật nuôi.
Sử dụng rơm rạ trong sản xuất nấm: Trồng nấm được coi là một trong
những biện pháp sinh học tận dụng nguồn rơm rạ có hiệu quả. Việc trồng nấm
từ rơm rạ đã được thế giới khuyến cáo như một trong những phương pháp
thay thế để giảm nhẹ các vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan đến các
phương pháp xử lý hiện nay như đốt ngoài trời hay xử lý với đất. Trồng nấm
trên nền rơm rạ còn mang lại những biện pháp khuyến khích kinh tế đối với
nghề nông, coi nguồn phế thải như một nguồn nguyên liệu có giá trị và có thể
phát triển các cơ sở kinh doanh sử dụng chúng để sản xuất các loại nấm giàu
chất dinh dưỡng và giúp xử lý loại phế thải này theo cách thân thiện môi
trường. Do vậy tăng cường sử dụng nguồn rơm rạ để phát triển ngành trồng
nấm là hướng đi thích hợp để góp phần giảm thiểu tình trạng đốt rơm rạ ngoài
đồng ruộng.
Đốt rơm rạ: Trong những năm gần đây, tình trạng đốt rơm rạ ngoài
đồng ruộng đã gia tăng nhanh chóng, trở thành tình trạng phổ biến gây ảnh
hưởng tiêu cực tới môi trường và sức khỏe con người. Có thể nói tình trạng
đốt rơm rạ là tình trạng chung của hầu hết các vùng trồng lúa chính ở một số
tỉnh ĐBSH như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hà
Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang …
Theo số liệu ước tính của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT) huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương thì tỉ lệ rơm rạ đốt ngoài
đồng ruộng chiếm 30 %. Ở các nơi gần đô thị như các huyện ngoại thành Hà
Nội và một số địa phương có mức thu nhập tương đối cao thì nhu cầu sử dụng

rơm rạ làm chất đốt hay làm thức ăn gia súc, ủ phân bón là rất thấp nên tỉ lệ

15
rơm rạ đốt ngoài đồng ruộng có thể đạt tới 60 ÷ 90 %. Hơn nữa, nhiều hộ
nông dân còn gom rơm rạ vẫn còn tươi thành những đống lớn rồi đốt ngay tại
đồng ruộng. Rơm rạ đốt tạo thành những đám khói đặc quánh bao trùm cả
vùng rộng lớn, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân sống quanh khu vực
đó và là nguy cơ gây mất an toàn giao thông. Đốt rơm rạ được cho là nguyên
nhân gây ra tình trạng khói mù dày đặc bao quanh thành phố Hà Nội, Nam
Định… Khói rơm rạ cũng được cho là nguyên nhân gây ra rất nhiều bệnh tật
liên quan đến hô hấp do gây ra tình trạng ngột ngạt, khó chịu, đặc biệt là vào
những ngày nắng nóng oi bức (Phạm Ninh Hải, 2010)[6].
2.2.4.3. Vấn đề môi trường do đốt rơm rạ
Rơm, rạ là nguồn phế thải nông nghiệp bao gồm phần thân và cành lá
của cây sau khi đã tuốt hạt. Rơm rạ chiếm khoảng sản lượng của cây ngũ cốc
như: lúa mạch, lúa mì, lúa nước. Ở nước ta rơm rạ chủ yếu phát sinh từ cây
lúa nước. Đã có lúc rơm ra được coi là một loại sản phảm phụ hữu ích nhưng
do nhu cầu về lương thực mà lượng lúa ngày càng gia tăng cùng với đó là
nguồn rơm rạ không thể tận dụng hết nên rơm rạ thành một nguồn phế thải
khó xử lý trong nông nghiệp.
Trước đây sau khi thu hoạch rơm rạ thường được các họ nông dân
mang về nhà đánh đống để đun nấu, làm thức ăn cho gia súc, lợp nhà, ủ
chuông làm phân bón…tuy nhiên trong những năm gần đây do những biến
đổi trong đời sống kinh tế xã hội một tỷ lệ đáng kể trong hộ nông dân đã không
còn sử dụng rơm rạ vào những mục đích như trước đây mà thay vào đó họ đốt
rơm rạ ngay ở ngoài đồng ruộng. Sản lượng rơm rạ đốt ở ngoài đồng ruộng ngày
càng tăng nhanh đã tạo ra một lượng khí thải khổng lồ gây ONMT là một trong
những nguyên nhân gây ra tình trạng BĐKH và nhiều hậu quả khác
Theo tập quán canh tác cổ truyền thì đốt đồng được nông dân cho là
phương pháp nhanh và rẽ tiền nhất để thu dọn lượng rơm rạ trên ruộng gieo

trồng vụ kế tiếp, tránh ngộ độc axít hữu cơ. Tuy nhiên, đốt đồng có tác động
xấu đến đất và không khí. Sau khi đốt đồng sẽ làm mất đi hàm lượng chất hữu
cơ có trong rơm rạ, trong đất và mất đi khoảng 50% quần thể vi khuẩn. Theo
Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI), trong 1 tấn rơm chứa 5-8 kg đạm, 1,2

16
kg lân, 20 kg kali, 40 kg silic và 400 kg carbon. Khi đốt đồng, 400 kg carbon
bay vào không khí, gần như toàn bộ lượng đạm có trong rơm rạ mất hết (53
kg N/ha), khoảng 25% lân, 20% kali và 5-60% lưu huỳnh. Chất silic còn lại
nhưng do bị đun nóng nên cây lúa không sử dụng được. Bên cạnh đó, đốt
đồng còn gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng, làm phát thải một lượng lớn
khí thải độc hại, góp phần biến đổi khí hậu toàn cầu. Đốt 1 ha có trung bình 7
tấn rơm sẽ phát thải 9,1 tấn khí CO2, 798 kg khí CO, 398 kg các chất hữu cơ
độc hại và 12 kg tro bụi.
Các loại khí thải chủ yếu từ đốt rơm rạ ngoài đồng ruộng: Theo nhiều
nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới thì đốt rơm rạ bừa bãi ngoài
đồng ruộng sẽ tạo ra nhiều khí thải độc hại vào môi trường. Những loại khí
thải chủ yếu được tạo ra khi đốt rơm rạ ngoài đồng ruộng bao gồm khí CO
2
,
CO, CH
4
, các oxit nitơ (NO
x
, N
2
O), oxit sulfua (SO
x
), non-methan
hydrocarbon (NMHC), bụi hay vật chất dạng hạt (như TPM, PM

25
, PM
10
), khí
Polycyclic Aromatic Hydrocacbon (PAHs), Polychlorinated Dioxins và
Furans (PCDD/F). Trong số đó thì lượng khí thải CO
2
chiếm tỉ trọng cao nhất
(Streets và cs,2003) [26], hằng năm lượng khí thải do đốt rơm rạ và các phế
thải từ cây ngắn ngày khác ngoài đồng ruộng ở châu Á ước tính đạt 100 ngàn
tấn SO
2
, 960 ngàn tấn NO
x
, 379 triệu tấn CO
2
, 23 triệu tấn CO và 680 ngàn
tấn CH4. Rất nhiều các khí thải từ đốt rơm rạ là những khí gây hiệu ứng nhà
kính như CO
2
, CH
4
, N
2
O, NMHC. Ngoài ra các loại khí thải khác như SO
x
,
NO
x
có thể tích tụ trong khí quyển gây ra tình trạng mưa axít cũng như gây ra

các bệnh liên quan đến đường hô hấp như khó thở, hen suyễn, viêm phế quản
(Carmichael, 2003)[25]. Chính vì vậy hạn chế tình trạng đốt rơm rạ bừa bãi sẽ
đóng góp vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí thải độc hại, hạn chế
tình trạng ô nhiễm môi trường, tình trạng biến đối khí hậu cũng như giảm
thiểu những tác động tiêu cực đến sức khỏe người dân.


17
Bảng 2.3. Ước lượng rơm rạ đốt ngoài đồng ruộng ở các tỉnh vùng
đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) năm 2010
Đơn vị: ngàn tấn
Tỉnh thành
Sản
lượng
lúa
Sản
lượng

rơm rạ

Sản lượng rơm rạ đốt ngoài đồng ruộng
Tỷ lệ
đốt
20%
Tỷ lệ
đốt
30%
Tỷ lệ
đốt
40%

Tỷ lệ
đốt
50%
Tỷ lệ
đốt
60%
Tỷ lệ
đốt
70%
Tỷ lệ
đốt
80%
Hà Nội
1154,5 865,9 173,2 259,8 346,4 432,9 519,5 606,1 692,7
Vĩnh Phúc
323,2 242,4 48,5 72,7 97,0 121,2 145,4 169,7 193,9
Bắc Ninh
438,5 328,8 65,8 98,7 131,6 164,4 197,3 230,2 263,1
Quảng Ninh
205,9 154,4 30,9 46,3 61,8 77,2 92,7 108,1 123,5
Hải Dương
771,4 578,6 115,7 173,6 231,4 289,3 347,1 405,0 462,8
Hải Phòng
488,3 366,2 73,2 109,9 146,5 183,1 219,7 256,4 293,0
Hưng Yên
511,0 383,3 76,7 115,0 153,3 191,6 230,0 268,3 306,6
Thái Bình
1110,0 832,5 166,5 249,8 333,0 416,3 499,5 582,8 666,0
Hà Nam
420,3 315,2 63,0 94,6 126,1 157,6 189,1 220,7 252,2

Nam Định
889,1 666,8 133,4 200,0 266,7 333,4 400,1 466,8 533,5
Ninh Bình
484,1 363,1 72,6 108,9 145,2 181,5 217,8 254,2 290,5
Tổng số
6796,3 5097,2 1019,4 1529,2 2038,9 2548,6 3058,1 3568,1 4077,8
(nguồn: Ước tính lượng khí thải đốt từ rơm rạ ngoài đồng ruộng ở
vùng đồng bằng sông Hồng [4])
Bảng 2.4 Lượng khí thải vào môi trường từ đốt rơm rạ ngoài đồng ruộng vùng
Đồng bằng sông Hồng năm 2009
Loại khí
thải
Hệ số phát
thải
(g/kg)
2


Lượng phát thải(1000 tấn) theo tỷ lệ đốt rơm rạ ngoài đồng ruộng

20%
(1019,4)

30%
(1529,2)
40%
(2038,9)
50%
(2548,4)
60%

(3058,3)
70%
(3568,1)
80%
(4077,8)

CO
2

1460,0

1190,7

1786,1

2381,4

2976,8

3572,1

4167,5

4762,8

CH
4

1,20


1,0

1,5

2,0

2,4

2,9

3,4

3,9

N
2
O
0,07

0,1

0,1

0,1

0,1

0,2

0,2


0,2

CO
34,70

28,3

42,4

56,6

70,7

84,9

99,0

113,2

NMHC
4,00

3,3

4,9

6,5

8,2


9,8

11,4

13,0

SO
X

3,10

2,5

3,8

5,1

6,3

7,6

8,8

10,1

SO
2

2,00


1,6

2,4

3,3

4,1

4,9

5,7

6,5

TPM
13,00

10,6

15,9

21,2

26,5

31,8

37,1


42,4

Fine PM
12,95

10,6

15,8

21,1

26,4

31,7

37,0

42,2

PM
10

3,70

3,0

4,5

6,0


7,5

9,1

10,6

12,1

PAH
S

18,62

15,2

22,8

34,4

38,0

45,6

53,1

60,7

PCDDF
0,50


0,4

0,6

0,8

1,0

1,2

1,4

1,6

(Số trong ngoặc đơn là sản lượng rơm rạ đốt ngoài đồng ruộng tương
ứng (ngàn tấn))
(nguồn: Ước tính lượng khí thải đốt từ rơm rạ ngoài đồng ruộng ở
vùng đồng bằng sông Hồng [4])

×