Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số phân bón hữu cơ đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng chè Kim Tuyên tại xã Thịnh Đán – thành phố Thái Nguyên năm 2013.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.62 KB, 67 trang )



1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




HỨA THỊ VÂN




Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ PHÂN BÓN
HỮU CƠ ĐẾN SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ
CHẤT LƯỢNG CHÈ KIM TUYÊN TẠI XÃ THỊNH ĐÁN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN NĂM 2013



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học cây trồng


Khoa : Nông học
Khoá : 2010 - 2014
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thế Huấn
ThS. Vũ Thị Nguyên




Thái Nguyên, 2014



2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường và thực hiện
phương châm “học đi đôi với hành”. Mỗi sinh viên khi ra trường đều cần
trang bị cho mình những kiến thức cần thiết, chuyên môn vững vàng. Chính
vì vậy việc thực tập tốt nghiệp là giai đoạn rất cần thiết đối với mỗi sinh
viên trong nhà trường, qua đó hệ thống lại toàn bộ kiến thức đã học và vận
dụng lý thuyết vào thực tiễn, đồng thời giúp sinh viên hoàn thiện hơn về
mặt kiến thức luận, phương pháp làm việc và năng lực công tác nhằm đáp
ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất, nghiên cứu khoa học.
Được sự đồng ý của ban chủ nhiệm khoa nông học, trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
ảnh hưởng của một số phân bón hữu cơ đến sinh trưởng, năng suất
và chất lượng chè Kim Tuyên tại xã Thịnh Đán – thành phố Thái
Nguyên năm 2013”.
Trong thời gian thực tập và hoàn thành luận văn, ngoài sự cố gắng, nỗ
lực phấn đấu của bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của

các cơ quan, thầy cô và bạn bè. Tôi rất biết ơn sự giúp đỡ quý báu này.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ, chỉ bảo của
thầy giáo TS. Nguyễn Thế Huấn và Th.S Vũ Thị Nguyên trong suốt quá
trình thực tập, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình chú Luân Văn Lâm
và bà con thôn xã Thịnh Đức- TP. Thái Nguyên - Thái Nguyên đã tạo điều
kiện giúp đỡ em để em có thể hoàn thành đề tài này.
Do thời gian có hạn, lại bước đầu làm quen với phương pháp nghiên
cứu mới nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của các thầy, cô giáo cùng toàn thể các bạn để bài khóa luận
này hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 06 tháng 06 năm 2013
Sinh viên

Hứa Thị Vân



1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây chè (Camellia sinensis (L)Okuntze) là cây công nghiệp dài ngày
có nguồn gốc nhiệt đới và á nhiệt đới, sinh trưởng và phát triển tốt trong
điều kiện khí hậu nóng ẩm, tập trung chủ yếu ở các nước châu Á, châu Phi.
Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển thì cây chè được trồng ở hơn 60
nước trên Thế Giới, trong đó có Việt Nam [11].
Chè có giá trị về kinh tế, văn hóa và dinh dưỡng. Hầu hết các bộ

phận của cây chè như búp, lá, nụ hoa, không những là nguyên liệu chính
dùng để chế biến các loại sản phẩm trà uống giải khát, thanh nhiệt mà còn
có nhiều tác dụng như là một vị thuốc trong y học. Nước chè có tác dụng
bổ dưỡng, chống được lạnh, làm giảm sự mệt mỏi của cơ bắp và hệ thần
kinh trung ương, kích thích vỏ đại não, làm cho tinh thần minh mẫn. Sở
thích thưởng thức trà từ lâu đã trở thành thú vui thanh tao, quý phái và là
nét đẹp văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc trên Thế Giới. Thói quen
uống trà ngày càng phổ biến ở nhiều lứa tuổi và nhiều quốc gia trên thế giới
[7].

Ngoài vai trò là thức uống có giá trị dinh dưỡng và dược liệu, việc
trồng chè còn có khả năng khai thác tốt tiềm năng đất đai, bảo vệ môi
trường sinh thái, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động, thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là
nông nghiệp nông thôn miền núi [2].
Việt Nam được xem là một trong những quê hương của cây chè và
sản phẩm chè từ lâu đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nền
nông nghiệp và công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta. Chè Việt
Nam đứng thứ 5 trên Thế giới về diện tích và sản lượng xuất khẩu. Nước ta


2

là một trong những nước có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát
triển sản xuất chè, nhất là ở địa bàn miền núi và trung du. Cây chè được
trồng ở Việt Nam từ lâu đời (4000 năm), hiện nay đã được phát triển ở 34
tỉnh, thành phố trong cả nước. Cây chè ở Việt Nam cho năng suất, sản
lượng tương đối ổn định và có giá trị kinh tế. Với ưu thế là một cây công
nghiệp dễ khai thác, nguồn sản phẩm đang có nhu cầu lớn về xuất khẩu
cũng như tiêu dùng trong nước. Cây chè được coi là cây mũi nhọn, một thế

mạnh của khu vực trung du và miền núi [2].
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ, điều kiện đất đai và
thời tiết khá thích hợp cho việc phát triển cây chè. Toàn tỉnh hiện có 18.138 ha
chè, năng suất búp tươi bình quân đạt 108,73 tạ/ha, sản lượng gần 181.020 tấn
(năm 2011). So với các huyện trong tỉnh, Thành phố Thái Nguyên có diện tích
chè khá lớn được phân bố chủ yếu ở các xã phía Tây, với các vùng trọng điểm
là các xã: Tân Cương, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Thịnh Đức. Hiện nay, cây chè
Thái Nguyên trở thành một trong những cây trồng mũi nhọn góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân trong Tỉnh.
Thái Nguyên đang triển khai thực hiện quy hoạch vùng sản xuất chè
an toàn trên địa bàn toàn Tỉnh. Việc sử dụng phân bón vô cơ, hóa chất trừ
sâu không làm tăng năng suất mà còn gây nên hiện tượng mất cân đối giữa
các nguyên tố. Làm cho cây trồng phát triển không bền vững, chất lượng
thấp, sâu bệnh phát triển nhiều, đất đai thoái hóa, ô nhiễm môi trường.
Cây chè có khả năng hút dinh dưỡng liên tục trong chu kỳ phát dục
hàng năm cũng như trong chu kỳ phát dục cả đời sống của nó. Ngay cả
trong điều kiện mùa đông nhiệt độ thấp, cây chè tạm ngừng sinh trưởng
nhưng vẫn yêu cầu một lượng dinh dưỡng nhất định, vì thế việc cung cấp
dinh dưỡng cho chè cần tiến hành thường xuyên trong năm. Vùng chuyên
canh cây chè, có trình độ thâm canh cao, đòi hỏi năng suất lớn thì lượng
phân bón cần thiết phải bón hàng năm là rất nhiều. Chính vì vậy, việc sử


3

dụng phân bón hữu cơ cho chè là rất cần thiết. Phân hữu cơ không chỉ cung
cấp nguồn dinh dưỡng thiết thực cho cây chè mà còn có tác dụng tăng hiệu
quả sử dụng phân bón vô cơ, khắc phục được sự mất cân đối dinh dưỡng
trong đất và góp phần vào bảo vệ môi trường… từ đó giúp cây chè sinh
trưởng, phát triển tốt góp phần nâng cao năng suất và chất lượng chè.

Từ những thực tiễn trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
ảnh hưởng của một số loại phân bón hữu cơ đến sinh trưởng, năng suất và
chất lượng chè Kim Tuyên tại xã Thịnh Đán– thành phố Thái Nguyên năm
2013”.
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Xác định được loại phân bón thích hợp đối với cây chè Kim Tuyên
nhằm nâng cao năng suất và chất lượng chè. Từ đó góp phần nâng cao hiệu
quả trồng chè, đồng thời không gây ô nhiễm môi trường hướng tới nền
nông nghiệp bền vững.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Xác định ảnh hưởng của một số loại phân bón tới sự sinh trưởng và
phát triển cây chè.
- Xác định ảnh hưởng của một số loại phân bón tới năng suất và chất
lượng chè nguyên liệu.
- Xác định được loại phân bón thích hợp cho giống chè Kim Tuyên
tại xã Thịnh Đán– thành phố Thái Nguyên – tỉnh Thái Nguyên.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Qua quá trình thực hiện đề tài, sinh viên sẽ được thực hành việc
nghiên cứu khoa học, biết phương pháp phân bổ thời gian hợp lý và khoa
học trong công việc để đạt được hiệu quả cao trong quá trình làm việc.
Đồng thời là cơ sở để củng cố những kiến thức đã học trong nhà trường và
hoạt động thực tiễn.


4

- Có kết luận chính xác loại phân bón nào thích hợp cho chè Kim
Tuyên tại Thái Nguyên.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất

Đề tài là cơ sở cho những định hướng sử dụng phân bón thích hợp cho
cây chè vào thực tiễn sản xuất. Từ đó, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón,
cũng như góp phần nâng cao năng suất và chất lượng chè tại Thái Nguyên.


5

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Cây chè liên tục hút dinh dưỡng trong chu kỳ phát dục hàng năm
cũng như trong chu kỳ phát dục cả đời sống của nó. Về mùa đông cây
chè tạm ngừng sinh trưởng, nhưng vẫn yêu cầu lượng dinh dưỡng tối
thiểu, do đó việc cung cấp dinh dưỡng cho cây cần đầy đủ và thường
xuyên trong năm.
Quá trình sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực của cây
chè không có giới hạn rõ ràng và là một quá trình mâu thuẫn thống nhất. Vì
vậy, cần phải bón phân hợp lý để khống chế quá trình sinh thực cho chè hái
búp và khống chế quá trình sinh trưởng dinh dưỡng cho chè thu hoạch giống.
Đối tượng thu hoạch chè là búp non. Mỗi năm thu hoạch từ 5 – 10
tấn/ha; vì thế, lượng dinh dưỡng trong đất mất đi khá nhiều, nếu không bổ
sung kịp cho đất thì cây trồng sẽ sinh trưởng kém và cho năng suất thấp.
Theo Eden (1958) trong búp chè non có 4,5% N; 1,5% P
2
O
5
và 1,2 -
2,5% K
2

O. Ngoài ra cần chú ý rằng: Hàng năm trọng lượng cành lá đốn
cũng xấp xỉ bằng trọng lượng búp và lá non đã thu hoạch. Theo Daraxêli
thì lượng đạm bị rửa trôi thường bằng 1/3 tổng lượng đạm bón vào đất.
Bón phân cho chè kinh doanh là biện pháp kỹ thuật quan trọng nhằm
thúc đẩy sinh trưởng của cây chè để tăng năng suất và chất lượng chè. Việc
thử nghiệm các loại phân hữu cơ, giảm sử dụng phân khoáng cho cây chè là
hết sức cần thiết, trong thực tế hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về quy
trình sản xuất chè an toàn, chè hữu cơ xong phạm vi ứng dụng ra thực tế
còn nhiều khó khăn vì thực hiện trong phạm vi hẹp, thời gian chuyển đổi
ngắn, các giải pháp kỹ thuật chưa bộc lộ hết hiệu quả. Sử dụng phân hữu
cơ và giảm lượng phân khoáng đối với cây chè, có ý nghĩa đặc biệt quan


6

trọng không chỉ tác động đến năng suất và chất lượng sản phẩm mà còn cải
thiện môi trường, cải thiện độ phì cho đất hướng đến một nền nông nghiệp
bền vững.
Từ những dẫn liệu trên đây, cho thấy rằng cây chè có những đặc
điểm dinh dưỡng khác với một số cây trồng khác, nhu cầu về dinh dưỡng
khoáng của cây chè rất lớn.
2.2. Nguồn gốc, phân loại, sự phân bố cây chè
2.2.1. Nguồn gốc cây chè
Nguồn gốc của cây chè là vấn đề phức tạp, cho đến nay có nhiều quan
điểm khác nhau về nguồn gốc cây chè, dựa trên những cơ sở về lịch sử, khảo cổ
học và thực vật học. Một số quan điểm được nhiều người công nhận nhất là:
Cây chè có nguồn gốc ở Vân Nam - Trung Quốc:
Theo Daraselia, Gruzia (1989) thì các nhà khoa học Trung Quốc như
Schenpen, Jaiding … đã giải thích sự phân bố của cây chè mẹ ở Trung Quốc như
sau: Tỉnh Vân Nam là nơi bắt đầu của hàng loạt con sông lớn đổ về các con sông

ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma. Đầu tiên, cây chè mọc ở Vân Nam, sau
đó hạt chè di chuyển trôi theo dòng nước đến các vùng nói trên và lan sang các
vùng khác. Cũng theo Daraselia, dựa trên cơ sở học thuyết “Trung tâm khởi
nguyên cây trồng” của Vavilop thì cây chè có nguồn gốc ở Trung Quốc, phân bố
ở khu vực Đông nam, men theo cao nguyên Tây Tạng [7].
Cây chè có nguồn gốc ở vùng Atxam (Ấn Độ):
Năm 1823, R.Bruce đã phát hiện được những cây chè dại lá to ở vùng
Atxam (Ấn Độ ), từ đó các học giả người Anh cho rằng: Nguyên sản của cây
chè là ở vùng Atxam chứ không phải ở Vân Nam - Trung Quốc [7].
Cây chè có nguồn gốc ở Việt Nam:
Những công trình nghiên cứu của Djemukhatze (1961 - 1976) về phức
catechin của lá chè có nguồn gốc khác nhau, so sánh về thành phần các chất
catechin của lá chè được trồng trọt và mọc hoang dại đã nêu lên luận điểm


7

về sự tiến hoá sinh hoá của cây chè và trên cơ sở đó xác minh “Nguồn gốc
cây chè chính là ở Việt Nam”[7].
Các quan điểm nêu trên tuy có khác nhau về địa điểm nhưng đều có
điểm chung thống nhất là: Nguyên sản của cây chè là ở châu Á, nơi có điều
kiện khí hậu nóng ẩm [7].
2.2.2. Phân loại cây chè
* Cơ sở khoa học của phân loại chè
Để tiến hành phân loại cây chè người ta căn cứ vào rất nhiều đặc
tính, đặc điểm của cây chè. Nhưng thường căn cứ vào 3 yếu tố sau:
+ Dựa vào cơ quan dinh dưỡng: Loại thân cây bụi hoặc thân cây gỗ,
hình dạng của tán, lá, kích thước lá, đầu lá, số đôi gân chính…
+ Dựa vào cơ quan sinh thực: Độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa,
vị trí phân nhánh của đài nhụy, số lượng hoa, quả…

+ Dựa vào đặc tính sinh hoá: Chủ yếu dựa vào hàm lượng tanin. Mỗi
giống chè đều có hàm lượng tanin biến động trong một phạm vi nhất định.
* Phân loại: Cây chè nằm trong hệ thống phân loại thực vật sau:
- Ngành Hạt kín Angiospermae
- Lớp Song tử diệp Dicotyledonae
- Bộ Chè Theales
- Họ Chè Theaceae
- Chi Chè Camellia (Thea)
- Loài Camellia Sinensis
Tên khoa học của cây chè được nhiều nhà khoa học công nhận là
Camellia sinensis (L) O.Kuntze có tên đồng nghĩa là Thea sinensis L [7].
Căn cứ vào đặc điểm hình thái, các đặc tính sinh lý, sinh hóa và khả
năng chống chịu của cây chè nhà bác học Cohen Stuart (1916) đã phân chia
cây chè làm 4 thứ (varietas) chè chính:
- Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis - Var. Bohea)


8

- Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla)
- Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan)
- Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. Assamicn)

Bốn thứ (varietas) chè trên đều được trồng ở Việt Nam, nhưng phổ
biến nhất là chè Trung Quốc lá to và giống chè Shan. Giống chè Trung
Quốc lá to được trồng nhiều nhất ở các tỉnh trung du với các tên gọi của địa
phương (tùy theo màu sắc lá) như: Trung du lá xanh, Trung du lá vàng,
Tỷ lệ trồng các giống chè trung du ở miền bắc nước ta đạt 70%. Năng suất
búp trung sản xuất đại trà khi chè 5 – 19 tuổi đạt từ 4 – 5 tấn/ha. Còn giống
chè Shan được trồng chủ yếu ở các tỉnh vùng núi phía Bắc [7].

2.2.3. Sự phân bố của cây chè
Sự phân bố của cây chè phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu. Các
kết quả nghiên cứu đều đưa đến một kết luận chung là: Vùng khí hậu nhiệt
đới, á nhiệt đới thích hợp cho cây chè. Ngày nay, do trình độ khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển đã lai tạo, chọn lọc ra nhiều giống chè khác nhau
và được trồng rộng rãi ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Theo PGS. Đỗ
Ngọc Quỹ [11], thì hiện nay chè được phân bố khá rộng từ 42º vĩ Bắc
Pochi (Liên Xô cũ) đến 27º Nam Coriente (Achentina).
Sự phân bố của cây chè theo điều kiện khí hậu đất đai và địa hình
cũng có sự khác nhau. Đất trồng chè tốt phải nhiều mùn, thoát nước tốt và
có độ dốc thoải. Ảnh hưởng của độ cao đã hình thành nên các vùng chè với
nhiều giống chè, chất lượng khác nhau. Các nhà khoa học cho rằng: Chè
trồng ở những vùng có độ cao lớn hơn so với mặt nước biển thường có chất
lượng tốt hơn so với chè trồng ở vùng thấp.
Về điều kiện khí hậu, chè sinh trưởng tốt ở điều kiện nhiệt độ từ
15ºC đến 20ºC, tổng nhiệt độ hàng năm vào khoảng 8.000ºC; lượng mưa
trung bình hàng năm 1500 – 2000 mm; độ ẩm đất 70 - 80%. Tuy nhiên với


9

khả năng thích nghi rộng cùng với sự tiến bộ của khoa học hiện nay chè
được trồng ở những vùng khắc nghiệt hơn [7].
2.2.4. Các vùng sản xuất chè chủ yếu ở Việt Nam
- Vùng chè Tây Bắc
- Vùng chè Việt Bắc- Hoàng Liên Sơn
- Vùng chè Trung Du - Bắc Bộ
- Vùng chè Bắc Trung Bộ
- Vùng chè Tây Nguyên
Ngoài ra, cây chè được trồng ở các vùng duyên hải Miền Trung như:

Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi .Ở các vùng này chè được trồng rải
rác, phân tán với trình độ canh tác và chế biến chưa phát triển.
2.2.5. Vai trò của phân bón đến năng suất và chất lượng cây chè
Bón phân cho chè là biện pháp kỹ thuật quan trọng giúp cây sinh
trưởng tốt làm tăng năng suất và chất lượng chè. Cây chè có khả năng hút
dinh dưỡng liên tục trong chu kỳ phát dục hàng năm cũng như chu kỳ phát
dục cả đời sống của cây. Ngay cả trong điều kiện mùa đông độ thấp, khô
hạn, cây chè tạm ngừng sinh trưởng nhưng vẫn yêu cầu một lượng dinh
dưỡng nhất định. Vì thế việc cung cấp dinh dưỡng cho chè phải tiến hành
thường xuyên trong năm.
Chè là cây trồng cho thu hoạch sản phẩm là búp chè. Trong búp non
của chè có 4,5% N; 1,5% P
2
O
5
; và 1 – 2,5% K
2
O (theo Eden 1958) mà
hàng năm chúng ta hái đi từ 5 – 10 lần búp tươi và đốn đi một lượng thân lá
đáng kể vì thế ta đã lấy đi từ cây một lượng N, P, K và các chất khác. Hơn
nữa hàng năm cũng có một lượng dinh dưỡng bị xói mòn rửa trôi vì thế
chúng ta cần xây dựng một chế độ bón phân hợp lý cho chè. Trong chè đạm
tập trung ở các bộ phận còn non như lá non và búp. Nếu bón đủ đạm cho
chè thì lá có màu xanh, quang hợp tốt.


10
Theo Đỗ Ngọc Quỹ [10], khi bón quá đạm cho chè thì làm cho hàm
lượng tanin, cyenin giảm và protein tăng. Các tài liêu của Ấn Độ, Nhật Bản
và Việt Nam đều cho rằng nếu bón N.P.K không cân đối thì cây chè sẽ cho

năng suất và chất lượng thấp.
Bón phân khoáng quá mức dẫn đến mất cân dinh dưỡng ảnh hưởng
trực tiếp đến sinh trưởng và phát triển của cây, sâu bệnh phát sinh phát
triển nhiều, năng suất chất lượng giảm. Đồng thời với các vùng trồng chè
chủ yếu là đồi dốc việc sử dụng các phân khoáng như: Ure, Kali clorua,…
Với phương pháp bón trên bề mặt thì rất dễ bị rửa trôi, hiệu quả sử dụng
phân thấp, gây ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước
.

Đối với cây chè phân hữu cơ có vai trò rất quan trọng, không những
cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng trực tiếp cho cây chè mà còn cải thiện lý
tính đất như làm cho đất tơi xốp, có kết cấu viên, làm tăng hoạt động của
các vi sinh vật trong đất,

Nhưng thực trạng hiện nay việc sử dụng phân
hữu cơ cho chè còn gặp nhiều khó khăn, do phải cạnh tranh nguồn hữu cơ
với các cây trồng khác, đồi chè thường xa nhà, cây chè vào giai đoạn kinh
doanh đã khép tán nên việc vận chuyển và bón phân thường gặp khó khăn.
Những giải pháp để tăng cường hữu cơ cho chè là làm phân tự chế bằng
cách đào hố ủ ngay tại vườn chè, trồng cây xanh, cây họ đậu để lấy thân lá
ép xanh cho chè, ép xanh cành, lá già sau khi đốn chè, ngoài ra việc bón
phân cho chè phải được chú ý ngay từ khi bón lót trước khi trồng.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy chất dinh dưỡng được hoàn trả cho
đất thấp hơn nhiều so với lượng chất dinh dưỡng mà nông sản và sản phẩm
phụ đã lấy đi và không cân đối giữa tỷ lệ N:P
2
O
5
:K
2

O. Để đảm bảo cho một
nền nông nghiệp bền vững phải tăng sử dụng phân bón trên cơ sở kết hợp
hài hòa giữa phân vô cơ và hữu cơ, sử dụng hợp lý với điều kiện hiện nay.
* Hàm lượng N; P
2
O
5
; K
2
O


11
- Hàm lượng N: Trong chè tập trung ở các bộ phận còn non như: Búp
và lá non, N tham gia vào sự hình thành các axit amin và protein. Bón đủ N
lá chè có màu xanh quang hợp tốt, cây chè sinh trưởng tốt cho nhiều búp,
búp to. Thiếu N chồi mọc ít, lá vàng, búp nhỏ, năng suất thấp. Nếu quá
nhiều N thì hàm lượng tanin và cafein giảm, hàm lượng ancolit tăng, chè có
vị đắng. Nguồn cung cấp N cho đất là do quá trình khoáng hóa chất hữu cơ
và mùn trong đất, do hoạt động cố định đạm của các loại vi sinh vật đặc
biệt là do con người bón vào đất…
- Hàm lượng P
2
O
5
: Trong búp non của chè có 1,5% P
2
O
5


. Lân tham
gia vào thành phần cấu tạo của tế bào, trong axit nucleic, lân có vai trò
quan trọng trong việc tích lũy năng lượng cho cây, có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của cây chè, nâng cao chất lượng chè, làm tăng khả năng chống
rét, chống hạn cho chè. Thiếu lân lá chè xanh thẫm, có vết nâu hai bên gân
chính, búp nhỏ, năng suất thấp.
- Hàm lượng K
2
O: Kali trong tất cả các bộ phận của cây chè nhất là
thân cành và các bộ phận đang sinh trưởng. Nó tham gia vào quá trình trao
đổi chất cho cây, làm tăng hoạt động của các men, làm tăng tích lũy gluxit
và axit amin, tăng khả năng giữ nước của tế bào, tăng năng suất, chất lượng
chè, làm tăng khả năng chống chịu cho chè. Hàm lượng K
2
O trong đất phụ
thuốc vào đá mẹ, điều kiện phong hóa đá và hình thành đất, chế độ canh tác
và bón phân.
Khi thay thế dần phân hóa học bằng phân hữu cơ làm cho năng suất
chè không giảm, chất lượng chè được cải thiện. Ngoài ra, phân hữu cơ còn
giúp cải tạo đất, không làm ô nhiễm môi trường hướng tới một nền nông
nghiệp bền vững.
2.3. Tình hình sản xuất, tiêu thụ chè trên Thế giới và Việt Nam
2.3.1. Tình hình sản xuất, tiêu thụ chè trên thế giới
2.3.1.1. Tình hình sản xuất
Chè là cây trồng có lịch sử lâu đời (khoảng hơn 4000 năm) [7]. Ngày
nay chè là thứ nước uống chủ yếu và phổ biến với những sản phẩm chế


12
biến đa dạng và phong phú. Ngoài việc thỏa mãn nhu cầu về giải khát, dinh

dưỡng, thưởng thức chè ở nhiều nước đã được nâng lên tầm văn hóa với cả
những nghi thức trang trọng và thanh cao của trà đạo.
Theo PGS. Đỗ Ngọc Quỹ (2008) [12], quốc gia đầu tiên trên Thế giới
phát triển sản xuất chè là Trung Quốc, sau đó được truyền bá sang Nhật Bản
vào những năm 805 sau Công Nguyên, vào Indonexia năm 1654, vào Ấn Độ
năm 1780, vào Nga năm 1833, vào Malaixia năm 1914, đến năm 1920 thì
tiến tới các nước Châu Phi như: Kenia, Malavi, Ghine, Trên Thế giới cây
chè được phát triển với tốc độ rất nhanh, đặc biệt là từ đầu thế kỷ 18 trở lại
đây. Đến năm 2000, đã có hơn 100 nước trồng và xuất khẩu chè.
Theo FAO (2013) thì tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên Thế giới
tính đến năm 2012 như sau:
* Về diện tích:
Bảng 2.1: Diện tích chè của thế giới và một số nước trồng chè chính
năm 2008 - 2012
(Đơn vị: ha)
Tên nước
Năm
2008 2009 2010 2011 2012
Trung Quốc 1.215.174

1.437.873 1.419.500 1.514.000 1.513.000
Ấn Độ 474.000 470.000 583.000 580.000 605.000
Indonexia 106.948 107.000 107.800 122.700 122.500
Việt Nam 108.800 111.600 113.200 114.800 115.964
Mianma 76.900 77.500 76.800 79.343 79.000
Nhật 48.000 47.300 46.800 46.200 45.900
Kenya 157.700 158.400 171.900 187.855 190.600
Bangladest 58.005 59.000 59.700 56.670 58.000
Châu Á 2.661.699


2.684.098 2.779.168 2.879.925 2.912.072
Thế giới 2.969.025

2.997.607 3.117.531 3.256.762 3.275.991
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2013)[18]


13
Qua số liệu bảng 2.1 cho thấy:
Tính đến năm 2012 diện tích chè trên Thế giới đạt 3.275.991 ha tăng
306.966 ha tương đương 9,37% so với năm 2008. Trong đó Trung Quốc là
nước có diện tích trồng chè lớn nhất Thế giới với diện tích 1.513.000 ha,
chiếm 46,18% tổng diện tích chè toàn Thế giới. Ấn Độ là nước đứng thứ 2 với
diện tích là 605.000ha, chiếm 18,47% tổng diện tích chè toàn Thế giới. Diện
tích chè Việt Nam đạt 115.964 ha chiếm 3,54% tổng diện tích chè toàn Thế
giới. Diện tích chè tập trung chủ yếu ở khu vực châu Á chiếm 88,89%
(2.912.072 ha) tổng diện tích toàn thế giới, đây cũng là nơi phát sinh ra cây chè.
* Về năng suất:
Bảng 2.2: Năng suất chè của Thế giới và một số nước trồng chè chính
năm 2008 - 2012
(Đơn vị: tạ chè khô/ha)
Tên nước
Năm
2008 2009 2010 2011 2012
Trung Quốc 9,527 9,568 10,338 10,834 11,334
Ấn Độ 16,986 17,021 17,001 16,668 16,529
Indonexia 14,105 14,953 13,915 11,606 12,253
Việt Nam 15,946 16,639 17,532 17,997 18,704
Mianma 3,771 3,935 4,219 3,992 4,051
Nhật 20,104 18,181 18,162 20,565 18,715

Kenya 21,928 19,83 23,211 20,117 19,381
Bangladest 10,171 10,169 10,05 10,676 10,603
Châu Á 13,371 13,515 13,77 13,798 14,029
Thế giới 14,184 14,148 14,441 14,336 17,707
(Nguồn: Thống kê của FAO năm 2013)[18]
Qua số liệu bảng 2.2 cho thấy:


14
Tính đến năm 2012, năng suất chè trên Thế giới đạt 17,707 tạ chè
khô/ha tăng 3,52 tạ chè khô/ha tương đương 19,88% so với năm 2008.
Kenya là nước có năng suất chè cao nhất đạt 19,381 tạ chè khô/ha, vượt
hơn năng suất bình quân của Thế giới là 9,45%. Mianma là nước có năng
suất thấp nhất chỉ đạt 4,051 tạ chè khô/ha tương ứng 22,88% năng suất chè
thế giới. Việt Nam tính đến năm 2012 đạt năng suất 18,704 tạ chè khô/ha
vượt hơn năng suất bình quân của Thế giới là 5,6%, so với năng suất bình
quân Châu Á là 303,32%
* Về sản lượng:
Bảng 2.3: Sản lượng chè của Thế giới và một số nước trồng chè chính
năm 2008 - 2012
(Đơn vị: tấn)
Tên nước
Năm
2008 2009 2010 2011 2012
Trung
Quốc
1.257.384

1.375.780 1.467.467 1.640.310 1.714.902
Ấn Độ 987.000 972.700 991.182 966.733 1.000.000

Indonexia 153.971 156.901 150.342 142.400 150.100
Việt Nam 173.500 185.700 198.466 206.600 216.900
Mianma 29.000 30.500 32.400 31.670 32.000
Nhật 96.500 86.000 85.000 95.012 85.900
Kenya 345.800 86.000 399.000 377.912 369.400
Bangladest 59.000 59.500 60.000 60.500 61.500
Châu Á 3.558.977

3.627.689 3.826.864 3.973.576 4.103.645
Thế giới 4.211.397

4.241.120 4.502.160 4.668.968 4.818.118
(Nguồn: Thống kê của FAO năm 2013)[18]
Qua số liệu bảng 2.3 cho thấy:
Sản lượng chè toàn Thế giới năm 2012 là 4.818.118 tấn tăng
606,721tấn, tương đương 12,59 % so với năm 2008. Trung Quốc là nước


15
có sản lượng chè lớn nhất Thế giới đạt 1.714.902 tấn chiếm 35,59 % tổng
sản lượng chè toàn Thế giới,chiếm 41,79 % tổng sản lượng chè châu Á.
Sản lượng chè thấp nhất là Mianma chỉ đạt 32.000 tấn chiếm 0,66% tổng
sản lượng chè toàn Thế giới. Việt Nam đạt sản lượng 216.900 tấn chiếm
4,50% tổng sản lượng chè toàn Thế giới.
2.3.1.2. Tình hình tiêu thụ
Trên thế giới, tiêu thụ chè luôn biến động và có xu hướng ngày càng
tăng. Một số nước Châu Âu, vùng Trung Đông có mức tiêu thụ chè lớn.
Thị hiếu dùng chè trên Thế giới hiện nay chủ yếu là chè đen (chiếm
khoảng 80%) tập trung ở các thị trường Châu Âu, Châu Mỹ, vùng Trung
Đông. Sản phẩm tiêu dùng có nhiều hình thức và cách thức khác nhau, phụ

thuộc vào khẩu vị và tập quán của từng dân tộc. Tiêu thụ chè đen của các
nước phát triển đạt mức tăng hàng năm là 2,2%, đạt 719.000 tấn. Đặc biệt
tiêu thụ chè đen của Ấn Độ tăng khá mạnh, đạt 832.000 tấn, tăng trung
bình 3,2% (theo FAO Stat Citation 2006). Ở Châu Á ưa chuộng mặt hàng
chè xanh (chè lục). Nhờ áp dụng những tiến bộ kỹ thuật trong trồng trọt
cũng như chế biến, hiện nay chè xanh cũng đang được tiếp nhận cao ở các
thị trường tiêu thụ trên thế giới.
Năm 2008 tổng kim ngạch của 10 nước nhập khẩu chè lớn nhất thế
giới đạt 2,18 tỷ USD chiếm trên 50% tổng kim ngạch chè trên thế giới. So
với cùng kỳ năm 2007, kim ngạch nhập khẩu chè các nước này tăng trung
bình 16,89%, 5 nước có kim ngạch nhập khẩu chè lớn nhất thế giới năm
2008 là Nga (510,6 triệu USD), Anh (364 triệu USD), Mỹ (318,5 triệu
USD), Nhật Bản (182,1 triệu USD) và Đức (181,4 triệu USD mỹ) [16].
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO), năm
2009 nguồn cung chè thế giới giảm nhẹ so với năm 2008 do ảnh hưởng của
thời tiết xấu đã làm giảm sản lượng chè ở một số quốc gia sản xuất chè [18].


16
Tại thị trường Mỹ mặc dù vẫn ở giai đoạn hậu suy thoái, nhưng nhu
cầu tiêu thụ chè không những không giảm mà còn tăng mạnh. Người tiêu
dùng Mỹ đã hạn chế mua những đồ uống đắt tiền như cafe, nước trái cây,
nước ngọt mà thay vào đó là tiêu dùng các sản phẩm rẻ hơn như chè, đặc
biệt là những loại chè có chất lượng trung bình.
Tại thì trường Châu Âu, các nước Đức, Anh, Nga đều có xu hướng
tăng nhu cầu tiêu dùng chè. Ngay từ những tháng đầu năm 2009, tại các thị
trường này người dân đã có xu hướng chuyển từ các đồ uống khác sang
tiêu dùng các sản phẩm từ chè như các loại chè truyền thống, chè uống liền,
chè chế biến đặc biệt. Như tại Nga, (một trong những quốc gia tiêu thụ chè
lớn trên thế giới) với mức trung bình hơn 1 kg chè/người/năm [16].

Nhu cầu tiêu thụ chè tại các nước phát triển đang chuyển dần từ các
sản phẩm chè thông thường sang sản phẩm chè uống liền và chế biến đặc
biệt trong khi ở các nước Tây Á và Châu Á vẫn ưa dùng các sản phẩm chè
truyền thống. Điều này giúp cho các nước trồng và xuất khẩu chè trên thế
giới có phương pháp chế biến chè phù hợp cho từng vùng cũng như định ra
được vùng xuất khẩu chè phù hợp cho sản phẩm của mình [16].
2.3.2. Tình hình sản xuất chè ở Việt Nam và phương hướng phát triển
giai đoạn 2010 – 2015
2.3.2.1. Tình hình sản xuất chè ở Việt Nam
Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho cây chè sinh trưởng và
phát triển, với 3/4 diện tích là đồi núi, điều kiện nhiệt độ nóng ẩm. Tuy nhiên,
sản xuất chè ở nước ta chỉ thực sự bắt đầu từ sau những năm 1925 [7].
Trước năm 1890, nhân dân Việt Nam chủ yếu dùng chè dưới dạng
chè tươi, chè nụ. Sau khi người Pháp chiếm đóng Đông Dương thì cây chè
mới được chú ý khai thác. Cây chè Việt Nam được chính thức khảo sát và
nghiên cứu vào năm 1885 do người Pháp tiến hành [7]. Lịch sử phát triển
cây chè ở Việt Nam được chia ra làm các giai đoạn sau:


17
- Giai đoạn 1890 - 1945:
Thời kỳ này diện tích chè phân tán, mang tính tự cấp tự túc, kỹ
thuật canh tác sơ sài, chế biến thủ công chủ yếu sử dụng chè tươi, phương
thức quảng canh là chủ yếu.
- Giai đoạn 1945 - 1954:
Trong giai đoạn này do ảnh hưởng của chiến tranh nên các vườn chè
bị bỏ hoang, ít được đầu tư chăm sóc, diện tích và sản lượng chè đều bị
giảm sút rất nhiều.
- Giai đoạn 1954 - 1990:
Ở giai đoạn này các Chương trình phát triển nông nghiệp đã được

hoạch định. Cây chè được xác định là cây có giá trị kinh tế cao có tầm quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là ở vùng Trung
du miền núi.
Trong giai đoạn này còn đánh dấu sự ra đời của 1 số tổ chức sản
xuất, kinh doanh chè như: Tổng công ty chè Việt Nam (VinaTea) vào năm
1987, Hiệp hội chè Việt Nam (ViTas) năm 1988 Các tổ chức này ra đời
đã quản lý và lãnh đạo ngành chè, giúp ngành chè từng bước ổn định và
phát triển.
- Giai đoạn 1990 đến nay:
Từ năm 1990 – 1997, diện tích chè từ 60.000 ha tăng lên 81.700 ha
tăng 26,2%, sản lượng chè khô tăng từ 32,2 nghìn tấn lên 52 nghìn tấn.
Công nghệ chế biến chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng, sự chồng
chéo về quản lý ngành chè đã phần nào làm cho ngành chè chững lại.
Diện tích chè vẫn tăng nhưng năng suất chè giảm, đời sống người làm chè
gặp nhiều khó khăn.
Trước thực trạng đó việc thành lập Tổng công ty chè Việt Nam,
thống nhất quản lý ngành chè được tiến hành, một số liên doanh liên kết
với nước ngoài được thành lập, công nghệ chế biến bước đầu được chú


18
trọng, đổi mới thị trường xuất khẩu mở rộng sang Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Đã củng cố và tạo được niềm tin cho người trồng chè và làm chè.
Trong những năm gần đây, nhà nước ta có nhiều cơ chế, chính sách
đầu tư cho phát triển cây chè. Do vậy, diện tích, năng suất và sản lượng chè
không ngừng tăng lên.
Bảng 2.4: Diện tích, năng suất và sản lượng chè của Việt Nam
từ năm 2002 - 2012
Năm
Diện tích chè kinh

doanh (1000ha)
Năng suất
(tạ khô/ha)
Sản lượng
(1000 tấn khô)
2002 77,20 12,20 94,20
2003 86,10 12,11 104,30
2004 92,40 12,93 119,50
2005 97,70 13,56 132,53
2006 102,10 14,79 151,00
2007 107,40 15,27 164,00
2008 108,80 15,95 173,50
2009 111,40 16,67 185,70
2010 113,20 17,53 198,47
2011 114,80 17,99 206,60
2012 115,90 18,70 216,90
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO năm 2013)[18]
Theo số liệu ở bảng 2.4 cho thấy:
Từ năm 2002 đến 2012 diện tích, năng suất, sản lượng và xuất khẩu
chè tăng nhanh. Năm 2012 diện tích chè là 115.900 ha, tăng 38.700ha
tương ứng 40,13% so với năm 2002. Năng suất bình quân năm 2012 là
18.700

tạ khô/ha, tăng 6.500 tạ khô/ha tương ứng 53,28 % so với năm


19
2002. Sản lượng chè theo đó cũng tăng mạnh đạt 216.900 tấn búp khô vào
năm 2012 tăng 122.700 tấn tương ứng 130,25% so với năm 2002.
Việt Nam có 35 trên 63 tỉnh, thành phố trồng chè, chủ yếu tập trung

ở vùng trung du miền núi phía Bắc và cao nguyên Lâm Đồng với gần
130.000 ha. Hiện có khoảng 650 nhà máy chế biến chè (công suất từ 2 đến
10 tấn nguyên liệu chè búp tươi/ngày) cùng với hàng ngàn hộ dân lập
xưởng để chế biến tại gia đình. Đội ngũ làm chè lên tới 3 triệu lao động,
chiếm 50% tổng số dân sống trong vùng chè.
2.3.2.2. Phương hướng phát triển ngành chè giai đoạn 2010 - 2015
Ngành chè đặt ra mục tiêu phát triển chung giai đoạn 2010 - 2015 sẽ
trồng mới và thay thế diện tích chè cũ đạt mức độ ổn định khoảng 150.000
ha, năng suất bình quân đạt 8 - 9 tấn búp/ha, giá trị thu nhập bình quân đạt
35 - 40 triệu đồng/ha và kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD, giải quyết
việc làm cho khoảng 1,5 triệu lao động trên cả nước [1].
Để ngành sản xuất chè ngày một phát triển mạnh mẽ thì không phải
chỉ là sự nỗ lực của người nông dân mà còn cần sự nỗ lực của nhà khoa học
nhà doanh nghiệp và nhà nước.
Chúng ta cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhà máy, cơ sở chế biến
chè một cách khoa học.
Đầu tư phát triển chè trong điều kiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn.
Đầu tư phát triển sản xuất phải tận dụng những lợi thế biến động vào
triển vọng của thị trường trên thế giới có xu hướng thuận lợi cho chè Việt Nam.
Đầu tư dựa vào các lợi thế so sánh và tương đối của chè.
Đầu tư và phát triển sản xuất chè theo hướng nông trại.
Đầu tư phát triển để chuyển mạnh sang cơ chế sản xuất hàng hoá chè.


20
Nâng cao chất lượng chè búp tươi và chè thương phẩm, để cải thiện
chất lượng sản phẩm xuất khẩu tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
bằng cách:
Đưa giống mới có chất lượng cao chiếm một tỉ lệ thích đáng trong cơ

cấu nguyên liệu chế biến.
Từng bước cải tạo đất theo hướng tăng độ mùn và tơi xốp.
Đưa máy đốn, máy hái và các dụng cụ làm đất vào canh tác.
Quy hoạch vùng chè nguyên liệu như: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang,
Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ và Lâm Đồng.
Về giống chè lấy Viện nghiên cứu chè làm nòng cốt xúc tiến việc
khu vực hoá, nhân và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt
vào các vườn chè.
Tại các đơn vị sản xuất chè, khôi phục các vườn giống chè, sử dụng
các giống mới có chất lượng cao nhằm cung cấp giống cho trồng dặm,
trồng mới của dân.
Đầu tư tưới cho các vườn chè tập trung có điều kiện về nguồn nước
để nâng cao năng suất.
Giải pháp về vốn.
Với mức vốn hạn hẹp ta phải tranh thủ sự đầu tư của nước ngoài để
quay vòng sản xuất có hiệu quả nhất.
Về thị trường cần đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường trong nước duy
trì và mở rộng các bạn hàng ở ngoài nước…
Đa dạng hoá sản phẩm tổng hợp.
Tăng cường đầu tư tập huấn cán bộ kĩ thuật và tập huấn khuyến nông
cho người trồng chè.
Cần tổ chức và phân công lại sản xuất của ngành chè: các địa
phương tự chịu trách nhiệm về sản xuất nông nghiệp và chế biến, nhất là
chế biến nhỏ. Các doanh nghiệp qui mô lớn sản xuất sản phẩm xuất khẩu.


21
Tổng công ty chè Việt Nam cùng các công ty xí nghiệp làm tốt công tác thị
trường bao tiêu sản phẩm và cung ứng vật tư, thiết bị chuyên dùng có chất
lượng cao.

Chính phủ cần ban hành những chính sách khuyến khích sản xuất
chè như: chính sách đầu tư cho vay và làm mới chè và xây dựng cải tạo các
nhà máy chế biến chè.
Đề nghị miễn thuế 5 năm cho các diện tích chè phục hồi và trồng
mới trên đất dốc. Miễn thuế 5 năm cho các sản phẩm thu từ việc tận dụng
đất đai và chế biến các sản phẩm mới.
Cho phép các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài được hưởng lợi từ
các chế độ như doanh nghiệp trong nước. Nhà nước đầu tư đường điện
đường giao thông và các cơ sở phục vụ công cộng khác.
Cho phép ngành chè được thành lập quỹ bình ổn giá để ổn định giá
mua chè tươi cho nhân dân và dự phòng một lượng chè xuất khẩu hợp lý
nhằm giữ giá chè xuất khẩu.
Hiện nay việc quản lý chất lượng chè xuất khẩu chưa có tổ chức nào
chịu trách nhiệm trước nhà nước, do vậy cần thống nhất quản lý Ngành về
chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu.
Vậy ngành chè có thể tin tưởng rằng : “Doanh thu của ngành chè tương
đương 1 tỷ USD vào những năm 2020” và phương châm hoạt động là “chất
lượng và hiệu quả là danh dự là hạnh phúc là văn hoá của ngành chè’’.
2.4. Tình hình nghiên cứu phân bón cho chè trên Thế giới và Việt Nam
2.4.1. Tình hình nghiên cứu phân bón cho chè trên thế giới
Theo tác giả Eden (1958) khi nghiên cứu về hàm lượng các nguyên
tố trong búp chè cho rằng: Trong búp chè non của chè có 4,5% N, 1,5%
P
2
O
5
và 1,2% K
2
O nên có bón phân cho chè.
Theo ML Baziva (1973) khi lượng đạm tăng, sản lượng chè tăng,

song để đạt được năng suất 10 tấn/ha bón 200N hiệu quả nhất.


22
Kết quả nghiên cứu của Cuxunốp (1954) và T.C Niglollisvili hàm
lượng cafein trong búp chè có lợi cho sản phẩm chè.
Theo A.B Makhrabize (1948) nghiên cứu ảnh hưởng của kali đến
chất lượng chè cho rằng phẩm chất trong các công thức được xếp theo thứ
tự là N:P:K và sau cùng là phân bón.
Theo nghiên cứu của Truturin (1973) thì NPK phối hợp với Zn, Bo
thì phẩm chất chè, nguyên liệu sẽ tăng lên.
Ngoài ra cần chú ý rằng: Hàng năm khối lượng cành đốn cũng xấp
xỉ bằng khối lượng búp và lá non đã thu hoạch và theo Daraselia thì lượng
đạm bị trôi đi bằng 1/3 tổng lượng đạm bón vào đất.
Trên thế giới việc sử lý phế thải chăn nuôi được quan tâm đáng kể,
hiện nay phương pháp khi sinh học sản xuất từ phế thải chăn nuôi được sử
dụng tương đối rộng rãi tại các cơ sở chăn nuôi nhỏ ở các nước Trung
Quốc, Ấn Độ, Nepan hoặc các trang trại tập trung ở Đức ưu điểm của
phương pháp này là dễ làm, đầu tư ít ở quy mô nhỏ.
Theo Gaur và cộng sự (1980), cho thấy việc bổ sung các loại vi sinh
vật có khả năng phân hủy xenlulo cao cùng các nguyên tố dinh dưỡng như
đạm dạng hữu cơ, lân dạng quặng photphorit và một số điều kiện môi
trường khác đã giúp rút ngắn thời gian ủ phân chuồng từ 4 – 6 tháng
xuống còn 2 – 4 tuần. Các chủng vi sinh vật phân giải hợp chất hữu cơ
được bổ sung trong quá trình ủ đống, vai trò vi sinh vật khởi động sản
xuất nhanh phân hữu cơ từ nguồn phế thải giàu xelulo là Aspergillus,
Trichoderma và Penicillium. Cũng từ các kết quả nghiên cứu và thực tiễn
sản xuất, vào năm 1982 Gaur và cộng sự đã đề xuất kỹ thuật bổ sung thêm
quặng photphat với liều 5% và vi sinh vật phân giải lân (Aspergillus,
Penicillium, Pseudomonas, Bacillus) với mật độ 10

6
- 10
8
VSV/gr cùng với vi


23
sinh vật cố định nito tự do Azotobacter nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng
cho sản phẩm [15].
2.4.2. Tình hình nghiên cứu phân bón cho chè ở Việt Nam
Ở Việt Nam vấn đề sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu đang gây
ra những tác hại nhất định đến chất lượng nông sản, đến môi trường sinh
thái. Đã đến lúc cần thiết phải thay đổi quan điểm về dinh dưỡng cây
trồng theo hướng hữu cơ để bảo vệ môi trường, môi sinh.
Các nhà khoa học thuộc viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp
miền núi phía Bắc tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón đến
năng suất, phẩm chất của chè, kết quả cho thấy:
Bảng 2.5: Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất, phẩm chất chè
Công thức bón
Năng suất
Nước
(%)
Tanin
(%)
Chất tan
(%)
(tạ/ha)

%
Đối chứng 31,3


100

78,2

32,1

46,4

N 100 36,0

115

77,6

30,7

45,8

N 100 + P
2
O
5
50 37,4

119,6

78,0

29,7


45,6

N 100 + K
2
O
5
50 88,4

282,7

78,9

30,1

45,9

N 100 + P
2
O
5
50 + K
2
O
5
50 88,4

282,7

78,3


31,5

47,0

N 200 41,5

132,6

78,3

29,3

45,4

N 200 + P
2
O
5
50 + K
2
O
5
50 98,8

316,1

78,5

30,4


46,3

(Nguồn: Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc)[17]
Qua kết quả bảng 2.5 cho thấy: Nếu bón phân không cân đối, chỉ bón có
đạm, dù ở mức thấp hay cao thì năng suất và chất lượng của chè đều thấp. Khi
bón tỷ lệ N:P:K là 2:1:1 với lượng tương ứng là 200: 50: 50 thì chè cho năng
suất và chất lượng cao nhất. Đặc biệt khi bón đơn độc mình đạm với lượng lớn
(200 N/ha) thì năng suất và chất lượng không cao hơn đối chúng là bao nhiêu,
có xu thế giảm xuống

×